Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Vấn đề con người trong triết học mác với việc đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở việt nam hiện nay (tiểu luận mac lelin)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.89 KB, 28 trang )

lOMoARcPSD|17160101

Trường Đại Học Kiến Trúc TP Hồ Chí Minh
Khoa Lý luận chính trị

TIỂU LUẬN
Mơn: Những Ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin 1
Đề tài: Vấn đề con người trong triết học Mác với việc đào tạo nguồn nhân lực cho sự
nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.

Tên sinh viên: Lê Phạm Trúc Quỳnh
Lớp: MT18ĐH/A1
MSSV: 18540300823
Giáo viên: cơ Trần Thị Phương Lan

Hồ Chí Minh 05/10/2019


lOMoARcPSD|17160101

MỤC LỤC
Lời mở đầu

Chương I: Lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin về con người
1. Bản chất con người
a. Các quan điểm về con người của các nhà Triết học trước Mác
b. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người
a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội
b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ những quan hệ xã
hội


3. Vai trị của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội

CHƯƠNG II: Vấn đề con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay
1. Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa
a. Hồn cảnh
b. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp CNH HĐH, sự quan trọng của phát triển
con người
2. Mục tiêu con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa
3. Nguồn lực con người là yếu tố quyết định cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa-hiện đại
hóa
a. Quan niệm của Đảng ta về con người
b. Con người là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp đổi mới nước ta hiện nay

CHƯƠNG III: Thực trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở nước ta hiện
nay
1. Thực trạng
2. Giải pháp
3. Ý kiến bản thân
Kết luận
Tài liệu tham khảo


lOMoARcPSD|17160101

LỜI MỞ ĐẦU
(Lí do chọn đề tài)
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến
hiện đại. Từ khi Triết học Mác-Lênin ra đời đã giải quyết những nội dung liên quan
đến con người. Khẳng định con người có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với thế

giới, và trong thực tế hiện nay thì con người là một lực lượng chủ đạo trong nền sản
xuất xã hội. Trong cơng cuộc đổi mới xã hội chỉ có con người-yếu tố quan trọng nhất
trong lực lượng sản xuất của xã hội, là nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết
định sự thành công hay thất bại.
Đảng ta đã khẳng định, tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với
Chủ nghĩa Mác-Lê nin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nan cho hành động của
Đảng. Vì vậy, thấm nhuồn tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê nin về con người, trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng
định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích
của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai
trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đồn thể và cộng đồng
dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u nước, có ý
thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn
hố, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”.
Đặc biệt là, trong giai đoạn hiện nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo nền
tảng đến năm 2020 nước thực hiện cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Ngoài những nhân tố quan trọng quyết định sự thành cơng, đó là vai trị lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của nhà nước, sự tham gia ủng hộ tích cực của
các đồn thể xã hội, chúng ta cần khẳng định rằng, yếu tố con người, nguồn nhân lực
có vị trị rất quan trọng như trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn
của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cơng cuộc cơng nghiệp
hóa-hiện đại hóa”.
Để đóng góp và ủng hộ đường lối của Đảng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước, em xin chọn đề tài “Vấn đề con người trong triết học Mác với


lOMoARcPSD|17160101


việc đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt
Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Hồn thành tiểu luận này em hi vọng có thể góp một phần nhỏ bé của mình
trong việc làm rõ lịng tin của mọi người vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nước ta hiện nay, và đưa ra một số giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Việt Nam đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, và thực hiện mục
tiêu của Đảng phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước cơng nghiệp
theo hướng cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa.


lOMoARcPSD|17160101

CHƯƠNG I: Lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin về con người
1. Bản chất con người:
a. Các quan điểm về con người của các nhà Triết học trước Mác:
Từ xưa đến nay, trong những vấn đề được bàn cãi nhất trong giới triết học nói
riêng và trong nghiên cứu khoa học nói chung thì vấn đề con người ln được đưa lên
hàng đầu. Không những thế, đề tài con người được các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý.
Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là do con người là sinh vật cao cấp và
phát triển nhất trên trái đất. Trong quá trình lâu dài gần 5 tỉ năm của trái đất thì con
người mới xuất hiện được khoảng gần 300000 năm trước, tuy nhiên trong khoảng thời
gian đó con người với sự phát triển vượt bậc so với các lồi sinh vật khác và nhanh
chóng trở thành kẻ thống trị của thế giới.
Lĩnh vực Triết học là một trong những mơn khoa học đầu tiên của lồi người,
tuy nhiên, bản thân triết học luôn luôn thay đổi và đấu tranh khơng ngừng, chính vì
vậy mà ln ln có nhiều hướng giải quyết cho cùng một vấn đề. Do đó, vấn đề con
người từ xưa đến nay theo từng thời kì, từng các nhân mà có rất nhiều quan điểm khác
nhau. Theo phân tích của những nhà Triế học cổ đại thì con người là vật cao quý nhất
trong trời đất, trong vũ trụ, là chua tể của muôn loài và chỉ đứng sau thần linh. Chủ

nghĩa duy tâm và tơn giáo thì lại cho rằng: Phần hồn trong con người là do thượng đế
sinh ra, quy định và điều khiển mọi hành động của thể xác, linh hồn tồn tại mãi mãi,
khi thể xác mất đi thì hồn lại nhập vào thể xác khác và tiếp tục điều khiển thể xác đó.
Ngược lại với ý kiến trên thì chủ nghĩa duy vật lại coi phần xác là pần quyết định và
chi phối phần hồn, tất nhiên là chẳng có linh hồn nào bất tử cả. Đó chỉ là một số trong
rất nhiều nhận thức về con người. Theo thời gian thì các nhận thức về con người ngày
càng phát triển hơn và các nhà triết học đã ngày càng hoàn thiện nhận thức về bản
chất con người, phát triển và khắc phục những điểm bất hợp lí của các lí luận trước
đó . Đến thế kí XV – XVIII thì những quan điểm triết học về con người trên cơ sở tự
nhiên đã bắt đầu phát triển và chiếm ưu thế. Tuy nhiên những nhà triết học cổ điển
Đức từ Carter đến Hegel (Hê – ghen)

đã xây dựng quan điểm triết học về con người

theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Trong đó Hegel quan niệm con người là hiện thân
của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được xem
xét về mặt tinh thần. Tuy nhiên Hegel cũng chính là người đầu tiên thơng qua việc


lOMoARcPSD|17160101

xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện ra quy luật về sự phát
triển của đời sống tinh thần và cá nhân.
Đến thời Feuerbach thì ơng lại phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan
điểm của Hegel. Theo quan điểm của Feuerbach thì con người chính là một sản phẩm
của tự nhiên và có bản năng tự nhiên, ơng đã dùng những thành tựu của khoa học để
chứng minh mối liên hệ của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể
con người. Tuy nhiên sai lầm của Feuerbach là khi ơng giải thích con người trong mối
liên hệ cộng đồng thì Feuerbach lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm.
Nói chung lại từ Carter đến Feuerbach đã có một bước tiến dài trong việc tìm ra

bản chất của con người. Tuy nhiên trong lí luận của họ còn rất nhiều hạn chế, những
quan điểm về con người còn chưa đầy đủ và chặt chẽ, mang xu hướng duy tâm cá
nhân khá nhiều. Sau này, chủ nghĩa Mac đã kế thừa và khắc phục những hạn chế đó,
xây dựng một hệ thống quan niệm đầy đủ nhất về bản chất con người, vai trò của của
con người trong xã hội.
b. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội:
Sự “sinh động” ở đây có nghĩa là con người có thể chinh phục tự nhiên, cỉa tạo
tự nhiên. Tuy rằng con người đã bỏ xa giới động vật trong q trình tiến hố nhưng
như thế khơng có nghĩa là con người đã lột bỏ tất cả những cái tự nhiên để khơng cịn
một sự liên hệ nào với tổ tiên của mình. Con người là sản phẩm tự nhiên, là kết quả
của quá trình tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, đã là con người thì phải trải qua giai
đoạn sinh trưởng, tử vong, mỗi con người đều có nhu cầu ăn, mặc ở, sinh hoạt... Song
con người khong phải là động vật thuần tuý như các động vật khác mà xét trên khía
cạnh xã hội thì con người là động vật có tính xã hội, con người là sản phẩm của xã hội,
mang bản tính xã hội. Những yếu tố xã hội là tất cả những quan hệ, những biến đổi
xuất hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những quy định về mặt
xã hội toạ nên con người. Con người chỉ có thể tồn tịa được khi tiến hành lao động
sản xuất của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu mình và chính lao động sản xuất là yếu
tố quyết định hình thành con người và ý thức. Lao động là nguồn gốc duy nhất của vật
chất, vật chất quyết định tinh thần theo logic thì lao động là nguồn gốc của văn hoá
vật chất và tinh thần.
Mặt khác trong lao động con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản xuất, đó
là những quan hệ nền tảng để từ đó hình thành các quan hệ xã hội khác trong các lĩnh
vực đời sống và tinh thần.


lOMoARcPSD|17160101

Chính vì con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội cho nên con người chịu
sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của chúng.

Các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể và mơi trường, quy luật
về q trình trao đổi chất... tác động tạo nên phương diện sinh học của con người. Các
quy luật tâm lý, ý thức hình thành và hoạt động trên nền tảng sinh học của con người
hình thành tư tưởng tình cảm khát vọng niềm tin, ý chí. Các quy luật xã hội quy định
mối quan hệ giữa người với người, điều chỉnh hành vi của con người. Hệ thống các
quy luật trên cũng tác động lên con người, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh giữa
sinh học cái xã hội trong con người.
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn con người sản
xuất và của cải vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người là chủ
thể cải tạo tự nhiên. Như vậy con người vừa do tự nhiên sinh ra, bị phụ thuộc vào tự
nhiên vừa tác động vào tự nhiên. Tình cảm thống trị tự nhiên chỉ có con người mới
khắc phục được tự nhiên bằng cách tạo ra những vật chất, hiện tượng không như tự
nhiên bằng cách toạ ra những vật chất, hiện tượng khơng như tự nhiên vốn có bằng
cách đó con người đã biến đổi bộ mặt của tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ con
người. Tuy nó là sản phẩm của tự nhiên. Một điều chắc chắn rằng có con người chỉ có
thể thống trị tự nhiên nếu biết tuân theo và nắm bắt các quy luật của chính bản thân đó.
Q trình cải biến tự nhiên, con người cũng tạo ra lịch sử cho mình. Con người không
những là sản phẩm của xã hội mà con người còn là chủ thể cải tạo chúng. Bằng mọi
hoạt động lao động sản xuất con người sáng tạo ra tồn bộ nền văn hố vật chất, tinh
thần. Bằng hoạt động cách mạng. Con người đánh dấu thêm các trang sử mới cho
chính mình mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động theo những quy luật khách quan
song q trình vận động của con người ln xuất phát từ nhu cầu, động cơ và hứng
thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do đó đã tìm cách hạn chế hoặc mở rộng
phạm vi tác dụng cuả quy luật cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình. Nếu
khơng có con người với tư cách là chủ thể sinh động nhất của xã hội thì khơng thể có
xã hội, khơng thể có sự vận động của xã hội mà vượt lên tất cả chính là của cải vật
chất.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người:
a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội:



lOMoARcPSD|17160101

Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng
thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố
xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do
đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính
lồi của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại
của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người";
con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của q trình phát triển và tiến hố
lâu dài của môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy
nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người
với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan
niệm khác nhau phân biệt con người với lồi vật, như con người là động vật sử dụng
cơng cụ lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người động vật có tư
duy... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó
trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã
hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong tồn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước
hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật,
bằng ý thức, bằng tơn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con
người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con
người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã
gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình".
Thơng qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới
tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, cịn con người thì tái sản xuất ra tồn

bộ giới tự nhiên".
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thơng
qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần,
phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngơn ngữ và tư duy; xác lập quan


lOMoARcPSD|17160101

hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con
người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của
con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống
nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với
môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa... quy định
phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành
và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng,
niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với
người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh
học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội
trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu
tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt
sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con
người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã
hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải
được "nhân hóa" để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội
khơng thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau,

hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.
b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ những quan hệ
xã hội:
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên
thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với
xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng,
đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản
chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên
quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận
đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không


lOMoARcPSD|17160101

phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội".
Luận đề trên khẳng định rằng, khơng có con người trừu tượng, thốt ly mọi điều
kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó,
bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh
thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối
quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế;
quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ tồn bộ bản chất xã hội của
mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội khơng có nghĩa là phủ
nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại
trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở
con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách

hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.

3. Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội:
Do nhân thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đạc biệt là
vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay.
Đảng và nhân dân ta đã và đang xây dựng và phát triển đất nước toàn diện về nhiều
mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất nhiều vào nhiều chiến lược con
người: Cần đào tạo con người một cách có chiều sâu lấy tư tương và chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng, cũng như trên thế giới ở nước ta chiến lược con người nó có một
ý nghĩa hết sức quan trọng và để phát triển đúng hướng chiến lược đó cần có một
chính sách phát triển con người, không để con người đi lệch tư tưởng tuy nhiên trong
thực tế khơng ít người sẽ ngang đi tìm khả năng phát triển nó trong chủ nghĩa tư bản.
Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hồn thiện con người trong các tơn giáo và
các hệ tư tưởng truyền thống. Có người lại sáng tạo ra tư tưởng tôn giáo mới cho phù
hợp với con người Việt Nam. Song nhìn lại một cdách khách quan và khoa học sự tồn
tại của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã hội Việt Nam có lẽ khơng ai có thể phủ nhận
được vai trò ưu trội và triển vọng cuả nó trong sự nghiệp phát triển con người tạo đà
cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố thì một


lOMoARcPSD|17160101

nước đang cịn ở tình trạng kém phát triển như nước ta khơng thể khơng xây dựng
một chính sách phát triển lâu dài, có tầm nhìn xa trơng rộng phát triển con người nâng
cao chất lượng của người lao động. Hơn bất cứ một lĩnh vực nghiên cứu nào khác,
lĩnh vực phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn dân, đưa loài người tới
một kỷ nguyên mới, mở ra nhiều khả năng để tìm ra những con đường tối ưu đi tới
tương lai con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người trong sự
nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước. Trong đời sống xã hội thực tiễn cơ sở
vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần
thứ tư của ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII đề ra nghị quyết và thông qua

nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là "Động lực
của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội" Đó là
"con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức". Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển của nền kinh tế đất
nước theo cớ chế thị trường, dưới sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa thì chất lượng của người lao động là nhân tố quyết định nghị quyết đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng
và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi
cuả công cuộc đổi mới đất nước". Thực tiễn đã chứng tỏ xã hội ta hiện nay tình trạng
mất hài hoà về mặt bản thể của mỗi cá nhân là chủ yếu, là tất cả bản thể cá nhân phát
triển tồn diện và hài hồ về đạo đức, trí tuệ, thể lực là mục tiêu xây dựng con người
trong chủ nghĩa xã hội nhưng mục tiêu cơ bản và quan trọng hơn cả là vấn đề con
người phải trở thành nhân tố quyết định lịch sử xã hộivà lịch sử của chính mình.
Các nhà tư tưởng tư sản xun tạc chủ nghĩa Mác cho rằng đó là "chủ nghĩa
khơng có con người" thực tế thì, chủ nghĩa Mác là một chỉnh thể thống nhất của ba bộ
phận triết học nghiên cứu các quy luật của thế giới, giúp ta hiểu bản chất, mới quan hệ
tự nhiên - xã hội - con người, chính trị kinh tế vạch ra quy luật đi lên của xã hội, chủ
nghĩa xã hội khoa học chỉ ra con đường và phương pháp nghiên cứu con người. Chủ
nghĩa Mác là một chỉ nghĩ vì con người, chủ nghĩa nhân đạo. Học thuyết đó khơng chỉ
chứng minh bản chất của con người ("tổng hoà của các quan hệ xã hội") và bản tính
con người ("ln vươn tới sự hồn thiện") mà cịn vạch hướng đưă con người đi đúng
bản chất và bản tính của mình, giải phóng, xoá bỏ sự tha hoá, tạo điều kiện phát huy
mọi sức mạnh bản chất người, phát triển toàn diện, hài hoà cho từng cá nhân. Sự phù
hợp giữa tư tưởng Mác Xít với bản chất và bản tính người đã thu phục và làm say mê


lOMoARcPSD|17160101

những con người hằng mong vươn lên xây dựng xã hội mới, mở ra mọi khả năng cho

sự phát triển con người.
Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thẻ vạch rõ được hướng đi đúng cho con
đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách mạng giải
phòng dân tộc (1945), thống nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự do con
người việt Nam điều mà bao nhiêu học thuyết trước Mác khơng thể áp dụng được, và
chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm thay đổi, trở thành hệ tư tưởng chính thống của
tồn xã hội, thay đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại đa số nhân dân Việt Nam.
Thực tiễn hoạt động cách mạng xã hội chủ nghĩa vừa nhanh chóng nâng cao trình độ
nhận thức tồn diện. Bằng hệ thống giáo dục với các hình thức đào tạo đa dạng, với
các hình thức khoa học thấm nhuần tinh thần cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã
hình thành kế tiếp nhau những lớp người lao động mới ngày càng có tư tưởng, trình
độ chung, chun mơn cao ngày nay chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ văn hố khoa
học cơng nghệ với trình độ lý luận và quản lý tốt đồng đều trong cả nước.
Có thể nói chỉ trong một thời gian ngắn hệ tư tưởng Macxít đã thể hiện xu
hướng của mình đối với nền văn hoá dân dã, xoá bỏ dần dần sự thống trị của các loại
tư tưởng tự phát, lạc hậu, thấp kém trong con người cũ, mê tín dị đoan, các niềm tin
mù qng… Với sức mạnh có tính khoa học, học thuyết Mác - Lênin đã vạch rõ được
những yếu tố phi khoa học, phi nhân đạo, các loại thế giới quan, nhân sinh quan sai
lệch mà trước đó đã làm mai một trí tuệ, tính tích cực trong con người của các hệ tư
tưởng truyền thống. Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin còn thể hiện rõ tính ưu việt
trong con người đối với các luồng tư tưởng tư sản ngoại nhập của Phương Tây, và các
trào lưu tư tưởng tư sản hiện tại đang làm lệch hướng đi của những con người chân
chính trong điều kiện đời sống vật chất khó khăn. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc
xiềng xích của chân lý cổ truyền, của nền sản xuất tiểu nơng với tư duy cịn hạn chế,
kinh nghiệm, phi khoa học trong con người thiếu văn hoá do xã hội cũ để lại đã được
tri thức khoa học Mác xít phá tan. Một ý thức tiên tiến ra đời. Các tín ngưỡng dần dần
cũng phải nhường chỗ cho niềm tin khoa học. Các yếu tố tư duy duy vật biện chứng
hình thành trong đời sống thường ngày, trong lao động, cũng như trong mọi hoạt động
của xã hội. Thế giới quan khoa học ngày càng ăn sâu ở những con người luôn phấn

đấu cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội nó nhìn thế giới, xã hội, con người trong sự
vận động và phát triển trong tính hiện thực và tiềm ẩn những khả năng, sự tồn tại
khách quan là điều kiện sống và sự phát triển con người.


lOMoARcPSD|17160101

Thế giới quan đó hàm chứa nhân sinh quan tiến bộ, khắc phục dần những quan
niệm sai lầm, phiến diện về con người của các hệ tư tưởng khác.
Sự chuyển đổi hệ tư tưởng dẫn đến chuyển đổi hệ giá trị của xã hội và giá trị
con người, con người từ chỗ phục tùng chuyển sang tự chủ, sáng tạo, từ chỗ dựa trên
tập quán chuyển sang lý trí, dân chủ, từ chí tìm cách hồ đồng chuyển sang tơn trọng
cả cá tính và bản lĩnh riêng. Các chuẩn mực mới của con người địi hỏi khơng chỉ phát
triển từng mặt riêng lẻ mà phải là cá nhân phát triển hài hồ tính cách mạng của học
thuyết Mác xít khắc phục dần lối sống thụ động, hẹp hòi, làm cơ sở cho lối sống tích
cực, vì xã hội, phát triển ý thức luôn vươn lên làm chủ và xây dựng cuộc sống mới
xuất hiện những nhân cách mới.
Tuy nhiên sự phát triển con người ngày nay không chỉ là sản phẩm của hệ tư
tưởng Mác xít vì ngay khi chủ nghĩa Mác xít trở thành hệ tư tưởng chính thống ở Việt
Nam thì các tơn giáo, các hệ tư tưởng và văn hố bản địa đã có sức sống riêng của nó.
Chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập, nó như một hệ tư tưởng khoa học vượt hẳn lên cái
nền văn hố bản địa, nhưng nó cũng chịu sự chi phối tác động đan xen của các yếu tố
sai - đúng, yếu - mạnh, mới - cũ, v.v.. Các yếu tố tích cực đã thúc đẩy, cịn các yếu tố
tiêu cực thì kìm hãm sự phát triển con người.
Sự văn minh, phát triển hoá con người Việt Nam của chủ nghĩa Mác - Lênin
vừa có lợi thế song cũng khơng tránh khỏi những sai lầm. Sai lầm là sự chống trả của
tư tưởng văn hoá bản địa đã thành truyền thống. Lợi thế là văn hố bản địa chưa có
một hệ tư tưởng khoa học định hình vững chắc, nó dường như đang thiếu một lý
thuyết khoa học. Nếu như khơng có chủ nghĩa Mác - Lênin xã hội Việt Nam phát triển
hơn, đó là tư tưởng của những người thiếu hiểu biết về một xã hội tiến bộ, luôn coi cái

trước mắt mình là những thứ vơ giá trị mà chỉ chạy theo trào lưu, điều đáng trách hơn
là họ cần cho rằng văn hoá Việt Nam sẽ phong phú hơn, đặc sắc hơn. Thực tế, từ khi
xuất hiện chủ nghĩa Mác - Lênin xã hội Việt Nam như được tiếp thêm sức mạnh, phát
triển có khoa học hơn, ở khía cạnh nào đó trình độ dân trí, trình độ năng lực, văn hoá,
khoa học, nghệ thuật… Con người Việt Nam không thua kém con người của các nước
văn minh khác.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người chỉ những cá thể, là sự thống nhất giữa
mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Cái mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm được đó là
lý luận con người trong xã hội chứ không chỉ mặt sinh học như trước đây. Và chính
vậy mà nó đã được áp dụng vào xã hội Việt Nam, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa là mục tiêu của mọi chính


lOMoARcPSD|17160101

sách kinh tế - xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng được một xã hội mà ở
đó có đủ những điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện trong thực tế nguyên tắc
"Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người" và ở một đất nước ta, một đất nước đang còn nghèo nàn thì việc phát triển yếu
tố con người là một vấn đề mà Đảng ta đã xác định đó là vấn đề then chốt cho sự phát
triển kinh tế đất nước lấy chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
Chúng ta cũng đã có những đổi mới rõ rệt, sự phát triển hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân tầng xã hội, việc mở
rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính trị của đất nước, việc mở cửa và phát
triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế, văn hố và chính trị, trên thế giớ. Sự biến
đổi nhanh chóng của tình hình chính trị quốc tế, sự phát triển vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học và cơng nghệ… Điều đó địi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ
nghĩa Mác một cách khoa học, hợp lý và sáng tạo để đáp ứng được những đòi hỏi của
xã hội mới nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm cao mới.



lOMoARcPSD|17160101

CHƯƠNG II: Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa-hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
1. Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa:
a. Hồn cảnh:
Đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường được gần 20 năm, sau khi chế
độ bao cấp được xóa bỏ, trong khoảng thời gian đó, thực hiện mục tiêu “dân giàu
nước manh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” đất nước ta đã có nhiều khởi sắc về
nhiều mặt, trong đó, lĩnh vực kinh tế đã có những bước nhảy tột bậc, tham gia vào nền
kinh tế thế giới. Tuy nhiên trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới đang có
những dấu hiệu khủng hoảng. Điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến một nền kinh tế con
non trẻ ở nước ta. Trong khi ở nước ta, sự nghiệp CNH HĐH cịn chưa hồn thành thì
việc thúc đẩy q trình này sẽ nhanh chóng làm cho nền kinh tế của chúng ta phục
hồi.
b. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp CNH HĐH, sự quan trọng của phát
triển con người:
Ở các nước khác trên thế giới thì CNH HĐH là xu hướng tất yếu. Đây khơng
chỉ là cơng cuộc xây dựng kinh tế mà nó cịn làm biến đổi sâu sắc tới các lĩnh vực đời
sống xã hội. Q trình phát triển kinh tế đều có 3 giai đoạn, đầu tiên là nền kinh tế
nông nghiệp, sau đó là nền kinh tế cơng nghiệp và cuối cùng là nền kinh tế dịch vụ.
Nước ta là nước có nền kinh tế nơng nghiệp lâu đời, và q trình cơng nghiệp hóa
hiện đại hóa xảy ra là điều tất yếu. Sự phát triển của CNH HĐH yêu cầu nhiều yếu tố
như mơi trường chính trị ổn định, vốn tài nguyên, cơ sở vật chất. Các yếu tố đó đều
tham gia vào quá trình CNH HĐH tuy nhiên với một vai trị khơng giống nhau,
trong đó nguồn nhân lực là quan trọng nhất. Nguồn nhân lực phải đủ về số lượng và
cả chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải là động lực thúc đẩy quá trình
CNH HĐH. Điều đó được thể hiện ở các lí do sau đây:
Đầu tiên: Ngoại trừ yếu tố con người thì các yếu tố còn lại như vốn, tài nguyên

thiên nhiên, cơ sở vật chất, vị trí địa lí chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, khơng thể có tác
dụng ngay được. Các yếu tố đó chỉ có thể phát huy được tác dụng khi chúng dưới điều
khiển và sử dụng của con người. Nguyên do cũng dễ hiểu là do con người là nguồn
lực duy nhất có thể tư duy, có trí tuệ và ý chí biết khai thác, điều khiển và gắn kết các
nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau, tạo nên một sức mạnh tổng hợp vô cùng to


lOMoARcPSD|17160101

lớn để tác động vào q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa. Vì vậy, trong các yếu tố
cấu thành nên lực lượng sản xuất để có thể thúc đẩy q trình CNH HĐH thì người
lao động chính là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn và khơng vĩnh cửu, có thể bị cạn kiệt do
khai thác và do thời gian. Tuy nhiên nguồn lực con người lại là vơ hạn. Ngồi về mặt
sinh học con người có khả năng sinh sản thì con người khơng ngừng phát triển về mặt
trí tuệ và khơng ngừng học hỏi. Do đó, con người góp phần cải tạo, nâng cấp những
nguồn lực khác. Không những thế con người có khả năng sáng tạo vơ tận, do đó con
người có thể tìm ra, phát minh ra những yếu tố khơng có trong tự nhiên. Điều đó dễ
dàng được chứng minh khi chúng ta nhìn vào lịch sử của con người, hệ thống công cụ
sản xuất của con người ngày càng hiện đại hơn, được hiện đại hóa, tự động hóa chính
là minh chứng rõ ràng nhất cho điều đó.
Thứ ba: Theo Mac thì trí tuệ con người có một sức mạnh vơ cùng to lớn khi nó
được vật thể hóa và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong thời đại hiện nay,
khi trình độ khoa học đang phát triển như vũ bão dẫn đến các nền kinh tế của các
nước công nghiệp phát triển vận động theo hướng trí thức. Ở các nước này, nguồn lợi
thu được từ tri thức (chất xám) có thể chiếm một nửa tổng giá trị tài sản quốc gia, ở
các nước đang phát triển như Việt Nam, nguồn lợi từ chất xám không nhiều mà hầu
hết bắt nguồn từ việc sản xuất thủ cơng. Ngày càng có nhiều nhân tài bỏ nước sang
các nước phát triển, mất đi một lượng nhân tài lớn. Điều đó được gọi là chảy máu chất
xám. Ở nước ta, hiện tượng chảy máu chất xám diễn ra khơng q nhiều nhưng nó

đang âm thầm mang đi rất nhiều những con người tài giỏi đến những nước khác. Dó
đó, việc nâng cao chất lượng con người cần đi đơi với việc tránh tình trạng chảy máu
chất xám để chúng ta có thể xây dựng một nguồn lực chất lượng nhất, toàn tâm toàn ý
phục vụ cho đất nước.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn đã chứng minh sự nghiệp
CNH HĐH còn phụ thuộc vào kế hoạch đường lối chính sách của của Đảng và nhác
nước và phụ thuộc rất nhiều vào ý thức và năng lực nhận thức của mỗi người.
2. Mục tiêu con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa:
Trong q trình CNH- HĐH hiện nay ở nước ta hiện nay, chúng ta cần phải đạt
được những mục tiêu sau :
“Xây dựng nước ta thành một nước CN có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản

Downloaded by Free Games Android ()


lOMoARcPSD|17160101

xuất đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh giữ vững, dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
CNH HĐH không chỉ là một tiến trình đổi mới, hơn thế nó cịn là một cuộc cách
mạng vì con người và do con người. Khi ta nói những lợi ích và ưu việt của chủ nghĩa
xã hội mang đến cho nước ta thì những điều đó khơng phải do ai đưa đến mà đó là kết
quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của nhân dân ta. Điều đó là khơng thể phủ
nhận, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định rằng :” con người là vốn quy nhất, chăm lo cho
hạn phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta” Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói :” Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” . Qua
đó ta có thể thấy được đường lối đúng đắn của Đảng ta khi đặt mục tiêu lâu dài vào
con người. trong thực tế trong suốt những năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiêu việc theo hướng đó.

Với tư cách là Đảng cầm quyền, ngay từ đầu những chính sách, đường lối của Đảng
đều quán triệt việc chăm sóc và phát huy nhân tố con người. Việc đẩy mạnh công
cuộc CNH HĐH đất nước đòi hỏi chúng ra phải nhận thức một cách đầy đủ những giá
trị và những ý nghĩa quyết định của nhân tố con người. Nền công nghiệp hóa, hiện đại
hóa vì mục tiêu phát triển con người tồn diện, ta khơng chỉ hiểu con người ở đây với
tư cách là người lao động sản xuất mà là cịn là một cơng dân trong xã hội, một cá
nhân trong gia đình, tập thể, là một thành viên trong trong cộng đồng dân tộc. Đó
khơng chỉ là những con người lao động chân tay bình thường mà cịn là nhứng người
làm việc bằng trí óc, đó là những những nhà kinh tế, những doanh nhân hay quản lí…
Khơng chỉ thế, đó là cịn là lớp người ý thức được cuộc sống, nhận thức được thực
trạng của đất nước để cùng nhau hợp tác, cùng nhau gắn bó vì sự nghiệp chung của
đất nước.
Qua đó, ta có thể khẳng định rằng bước sang thời kì CNH HĐH theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, theo nền kinh tế thị trường thì chúng ta cần phải lấy việc phát
triển con người là mục tiêu trọng tâm, là yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh, bền
vững của nền kinh tế đồng thời phát triển mọi mặt của xã hội như văn hóa, giáo
dục…Nếu CNH HĐH là vị sự nghiệp phát triển con người thì con người phải được
coi là giá trị tối cao.
CNH HĐH ở Việt Nam có thành cơng hay thất bại phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó quan trọng nhất là yếu tố con người phải được đáp ứng. Để đáp ứng được
điều đó thì chúng ta phải càng đầu tư hơn nữa trong việc nghiên cứu con người.
Nghiên cứu con người để phát triển con người, phát triển con người để đáp ứng những

Downloaded by Free Games Android ()


lOMoARcPSD|17160101

sự phát triển khác. Yếu tố hang đầu của nguồn lực con người trước hết phải là trí tuệ.
Nó được biểu hiện ở khả năng áp dụng những thành tựu khoa học để sang chế ra

những kỹ thuật tiên tiến, sự nhạy bén, thích ứng nhanh và làm chủ được

được kĩ

thuật, cơng nghệ hiện đại, có kĩ năng lao động nghề nghiệp, có năng lực hoạch định
chính sách và lựa chọn giải pháp và tổ chức thực hiện.
Tuy nhiên CNH HĐH khơng phải khơng có mặt trái của nó. CNH HĐH đụng
chạm đến vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm trong mối quan hệ giữa con người và
thiên nhiên. Đây là vấn đề cấp bách không chỉ với mỗi quốc gia mà còn đối với sự tồn
tại của con người trên trái đất, Do đó, đi kèm với CNH HĐH phải là trách nhiệm
trước vấn đề môi trường, không thể chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế mà quên bảo
vệ môi trường.
Sự nghiệp CNH, HĐH không chỉ đặt lên vai những con người lao động, trên vai
của chính phủ và nhà nước mà đây là nhiệm vụ của mỗi cá nhân, kể cả những học
sinh, sinh viên đang học tập. Điều mà chúng ta phải học tập theo những nước đã phát
triển hơn chúng ta một bước là việc coi trọng giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Việc coi thường giáo dục, tài năng, thờ ơ trước tương lai của thế hệ trẻ sẽ là lực
cản rất lớn đến q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa.
3. Nguồn lực con người là yếu tố quyết định cho sự nghiệp cơng nghiệp
hóa-hiện đại hóa:
a. Quan niệm của Đảng ta về con người:
Nhìn lại tồn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập (3-2-1930)
đến nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn quý nhất chăm lo cho
hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta". Trên thực tế
trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiều việc theo hướng đó. Dân sự chăm lo cho
hạnh phúc con người chưa có nhiều thành cơng như mong muốn, việc nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho những người lao động còn thấp, song phần nào đã đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân, của những người lao động chăm lo cho hạnh phúc
của nhân dân". Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta

phải hết sức tránh" đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ
Trung tâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công việc đối với con người là mục tiêu quan trọng
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của đời mình. Mong muốn cháy bỏng của

Downloaded by Free Games Android ()


lOMoARcPSD|17160101

Người là làm sao cho con người được hưởng đầy đủ quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong Di chúc, khi đề cập đến công việc đầu tiên đối với
con người, Người đã dành sự quan tâm sâu sắc tới mọi đối tượng xã hội, mọi tầng lớp
nhân dân, vì con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng, xây dựng con
người là chiến lược hàng đầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do
vậy, Đảng và Nhà nước phải có chủ trương, kế hoạch đúng đắn để phát huy nhân tố
con người, để dùng con người mà làm lợi cho con người. Lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh - "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và
"muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa" - đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta
với tư cách là Đảng cầm quyền ngay từ đầu mọi chủ trương, chính sách, đường lối của
Đảng đều quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội" Đảng ta đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy nhân tố
con người trên cơ sở đảm bảo cơng bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công
dân kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời
sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá
nhân với tập thể và cộng đồng xã hội". Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là
thể hiện tư tưởng vì con người, của mục tiêu phát triển con người Việt Nam, tồn diện
trong cơng cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện

nay.
Như vậy, con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc cho con người là mục
tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Đảng ta coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát triển nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định
thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa; khẳng định con người Việt Nam
phát triển tồn diện cả về thể lực, trí lực, khả năng lao động, năng động, sáng tạo và
tính tích cực chính trị-xã hội, cả về đạo đức, tâm hồn, và tình cảm là mục tiêu, là động
lực của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa...Mọi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều nhằm quán triệt tư tưởng chăm lo, bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện con
người Việt Nam.
b. Con người là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp đổi mới nước ta hiện nay:
Để đạt được tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020, nền kinh tế Việt Nam phải có mức tăng trưởng cao và bền vững. Nghiên

Downloaded by Free Games Android ()


lOMoARcPSD|17160101

cứu tăng trưởng kinh tế của các nước trên thế giới qua nhiều giai đoạn lịch sử, các lý
thuyết tăng trưởng đã chỉ ra nguồn nhân lực được coi là yếu tố quan trọng nhất cho
tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu hay cơng nghệ
sản xuất chỉ có thể phát huy tối đa hiệu quả bởi con người có trình độ chuyện môn, kỹ
thuật. Lý thuyết tăng trưởng của C.Mác cho rằng việc sử dụng tư bản bất biến không
tạo ra giá trị thặng dư (lợi nhuận) bởi các nhà tư bản phải mua tư bản bất biến với giá
trị bằng giá trị tư bản bất biến đó sẽ tạo ra. Chỉ có tư bản khả biến mới đem lại giá trị
thặng dư trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi giá trị sử dụng của hàng hóa
sức lao động có đặc điểm đặc biệt trong qua trình sử dụng nó tạo ra một giá trị mới
(v+m) lớn hơn giá trị bản thân nó. Do đó, trong lực lượng sản xuất, yếu tố con người

là yếu tố tích cực, chủ động, sáng tạo là yếu tố quyết định các yếu tố khác. C.Mac
cũng chỉ ra năng lượng giá trị của hàng hóa có quan hệ mật thiết với mức độ phức tạp
của lao động. Lao động phức tạp tạo ra giá trị nhiều hơn so với lao động giản đơn.
Điều này có nghĩa là chất lượng nguồn nhân lực càng cao thì lượng giá trị của hàng
hóa càng tăng lên nhanh chóng, tức là tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.
Frederik Harbison thì cho rằng nguồn nhân lực là nền tảng chủ yếu tạo ra của
cải. Tiền vốn và các tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố thụ động trong sản xuất
là những nhân tố thụ động trong sản xuất, con người là những nhân tố tích cực, chủ
động tích lũy vốn, khai thác thiên nhiên, xây dựng các tổ chức xã hội, kinh tế, chính
trị và đưa sự nghiệp đất nước tiến lên. Vì vậy các ơng cho rằng nước nào bất lực trong
việc phát triển tay nghề và kiến thức cho người dân và khơng sử dụng nó một cách
hiện hữu trong nền kinh tế quốc dân sẽ khơng thể phát triển bất cứ thứ gì.
Thực tiễn phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự phát triển
thần kỳ của nhiều nước ở Châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan...phần lớn là nhờ
vào nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Như vậy về mặt lý thuyết và thực tiễn ở nhiều nước cho thấy phát triển nguồn
nhân lực, tạo ra lực lượng lao động có học vấn, tay nghề, chun mơn kỹ thuật và khả
năng thích ứng nhanh với những thay đổi trên thế giới, đặc biệt là sự phát triển thần
kỳ của nhiều nước ở Châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... phần lớn là nhờ vào
nguồn nhân lực có chất lượng cao. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực, tạo ra lực lượng
lao động có học vấn, tay nghề, chuyên mơn kỹ thuật và khả năng thích ứng nhanh với
những thay đổi nhanh chóng của cơng nghệ sản xuất là một yếu tố then chốt cho sự
tăng trưởng và phát triển bền vững.

Downloaded by Free Games Android ()


lOMoARcPSD|17160101

Nắm vững quan điểm đó, Đảng ta đã xác định nguồn nhân lực là một trong

những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: con người nếu chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh
chính trị vững vàng, mà thiếu đi tri thức, kiến thức khoa học, tức là có đức mà khơng
có tài, thì chẳng khác gì một ơng bụt ngồi trên tịa sen, khơng làm việc gì xấu nhưng
cũng khơng làm điều gì có lợi cho đời. Tri thức, trí tuệ thực sự là yếu tố thiết thực của
mỗi con người, bởi vì, tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều phải thơng
qua trí tuệ của họ.
Trong xu thế tồn cầu hóa nền kinh tế thế giời, người lao động còn phải biết
chủ nhập hội nhập quốc tế. Khác với tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế là hành động chủ
quan, có chủ đích của con người nhằm khai thác nguồn lực từ bên ngoài để tăng
cường sức mạnh cho đất nước mình. Hội nhập quốc tế cũng có nghĩa là chấp nhận
cạnh tranh với thế giới bên ngồi; hội nhập nhưng khơng hịa tan, vẫn bảo tồn bản sắc
văn hóa dân tộc mình và nhất là bảo vệ được nền độc lập dân tộc. Trong điều kiện như
vậy, người lao động, ngồi bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức dân tộc cao, cịn cần
có trình độ trí tuệ ngang tầm.
Có thể nói Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào với quy mô dân số lớn-đứng
thứ 13 thế giới, mật độ dân số 263 người/km2-gấp 5 lần so với mật độ dân số trung
bình của thế giới và bắt đầu bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Thời kỳ “cơ cấu
dân số vàng” chỉ diễn ra trong chu kỳ nhất định, thường kéo dài khoảng thời gian từ
15-40 năm và được coi là cơ hội vàng để nền kinh tế bứt phá, phát triển.
Tình trạng thể lực của người Việt Nam được cải thiện đáng kể sau 25 năm đổi
mới. Trình độ học vấn của lực lượng lao động những năm qua không ngừng tăng lên:
ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học thì có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp
chuyên nghiệp và 0,92 công nhân kỹ thuật; cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học.
Đây là một điều kiện quan trọng và là chỉ báo về nâng chất lượng nguồn nhân lực.
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cịn đụng chạm đến các vấn đề phức
tạp trong quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nó địi hỏi con người phải có hiểu biết
và có trách nhiệm trong việc bảo vệ, cải thiện môi trường thiên nhiên vì sự phát triển
bền vững, nói một cách ngắn gọn là phải có văn hóa sinh thái. Song con người trong
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ mơi phải được nâng lên thành văn hóa

sinh thái: con người phải có nhận thức, thái độ, cách ứng xử đúng đắn của con người
đối với tự nhiên; cả về phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hậu quả do sản xuất gây ra; cải

Downloaded by Free Games Android ()


lOMoARcPSD|17160101

thiện mơi trường tự nhiên, bảo tồn thiên nhiên, thích nghi với tự nhiên và đấu tranh
chống lại việc tàn phá tự nhiên.
Nguồn nhân lực chất lượng của thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là
“những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động , về tính
cực chính trị-xã hội, về đạo đức, trình độ học vấn, chun mơn nghiệp vụ và kỹ năng
ứng dụng tri thức vào hoạt động thực tiễn...đó chính là những nhân tố tạo nên chất
lượng nguồn nhân lực nói chung chất lượng nguồn nhân lực cũng trở thành mục tiêu
hàng đầu của giáo dục, đào tạo. Khơng thể có nguồn nhân lực chất lượng tốt nếu
không thông qua giáo dục.

Downloaded by Free Games Android ()


lOMoARcPSD|17160101

CHƯƠNG III: Thực trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở
nước ta hiện nay
Muốn hoàn thành được CNH HĐH, chúng ta cần phải khai thác hiệu quả nguồn
lực con người và coi đây là nguồn lực quan trọng nhất. Muốn sử dụng tốt nó thì chúng
ta phải hiểu được thực trang và những tiềm năng, khó khăn cần giải quyết. Khi đó
chúng ta mới có thể khai thác được một cách triệt để và phát triển được nguồn nhân
lực ở nước ta hiện nay.

1. Thực trạng:
Việc đẩy mạnh cơng cuộc cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước đòi hỏi chúng
ta phải nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá trị lớn lao và có ý nghĩa quyết
định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và
văn hố tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động
của con người và coi việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại
như một cuộc cách mạng. Hơn nữa, với tính tất yếu khách quan của sự nghiệp xây
dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và cách mạng con người phải được nhận thức là hai mặt thống nhất, khơng thể
tách rời của sự nghiệp xây dựng đó.
Thực trạng nguồn nhân lực Việt nam dồi dào về số lượng, nhưng lại thiếu hụt
nhân lực có trình độ cao, năng suất lao động xã hội thấp hiện nay đặt ra nhiều thách
thức cho nền kinh tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Một là, thách thức về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Lợi thế cạnh tranh
của một quốc gia được cấu thành từ những yếu tố như: hạ tầng, thể chế, mơi trường
kinh doanh, nhân lực...trong đó nhân lực được coi là yếu tố cạnh tranh có tính riêng
biệt, quyết định đối với mỗi quốc gia.
Mặc dù Việt nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá trong 10 năm qua,
những năng lực cạnh tranh của nền kinh tế vẫn chưa được hoàn thiện nhiều. Theo báo
cáo của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), trong 5 năm qua Việt Nam khơng có những
cải thiện đáng kể nào về vị trí xếp hạng và năng lực cạnh tranh. Điều này có nhiều
nguyên nhân, một trong những nguyên nhân quan trọng là do chất lượng nguồn nhân
lực của Việt Nam hiện đang cịn thấp. Vì vậy Việt Nam muốn nâng cao năng lực cạnh
tranh của Việt Nam thì một trong những yếu tố quyết định là phải nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.

Downloaded by Free Games Android ()


lOMoARcPSD|17160101


Hai là, hạn chế khả năng chuyển đổi mơ hình tăng trưởng kinh tế từ chủ yếu
dựa vào vốn và nguồn nhân lực với số lượng dồi dào, giá trị nhân cơng rẻ sang mơ
hình tăng trưởng dựa vào nguồn nhân lực có chất lượng lượng cao, nâng cao sự đóng
góp của nhân tố năng suất cao.
Ba là, Việt Nam đang sẽ khó vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình nếu tăng
trưởng kinh tế chỉ dựa vào vốn, nguồn tài nguyên và lao động giản đơn chưa qua đào
tạo. Do đó phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được xem là các yếu tố
then chốt đưa nước ta thốt khỏi thu nhập trung bình trong những năm tới.
2. Giải pháp:
Một là, gắn chiến lược phát triển con người với chiến lược phát triển kinh tế.
Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về mặt kinh tế, khoa học
kỹ thuật. Nước ta phải lấy sự phát triển nguồn nhân lực làm động lực cho tăng trưởng
kinh tế thông qua sự kết hợp chặt chẽ các chiến lược kinh tế và chiến lược phát triển
nguồn nhân lực. Trong những năm gần đây, đã có sự quan tâm gắn kết chiến lược
phát triển nguồn nhân lực với chiến lược phát triển kinh tế thể hiện qua xu hướng đào
tạo theo nhu cầu xã hội, sự hợp tác giữa nhà trường với các doanh nghiệp đào tạo
nhân lực. Mấu chốt của vấn đề là chúng ta phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ
giữa các chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển kinh tế. Giải
quyết được điều này chúng ta mới giải quyết được tình trạng thiếu hụt nhân lực có
trình độ, tay nghề và kỹ năng cần thiết cho sự phát triển kinh tế, biến gánh nặng dân
số hiện nay thành lợi thế cạnh tranh của nước ta trong qua trình hội nhập.
Hai là, cải cách giáo dục đại học và đào tạo nghề nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực. Chất lượng giáo dục và đào tạo được coi là chìa
khóa để phát triển nguồn nhân lực. Thế nhưng hiện nay hệ thống giáo dục và đào tạo
ở nước ta chưa đáp ứng với yêu cầu của xã hội và sự phát triển của nền kinh tế. Do đó,
để phát triển nguồn nhân lực cần thực hiện cải cách căn bản nền giáo dục, đào tạo.
Trong đó, yêu cầu bức bách hiện nay là cần phải cải cách phát triển giáo dục đại học,
giáo dục đào tạo nghề để có ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. Trong tình
trạng hiện tại, có hai vấn đề quan trọng, cấp bách và có ý nghĩa lâu dài trong việc cải

thiện sớm thực hiện, đó là: Phải gắn kết đào tạo của nhà trường với yêu cầu của thị
trường lao động. Đào tạo những kỹ năng cần thiệt là một trong những yếu tố quan
trọng để nguồn nhân lực có thể đap ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng; Nhà nước xây
dựng cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp tham gia và trở thành một chủ thể quan

Downloaded by Free Games Android ()


lOMoARcPSD|17160101

trọng trong quá trình đào tạo: đảm bảo cung cấp đầy đủ, thường xun thơng tin về
tình hình làm việc, kỹ năng đào tạo...; khuyến khích đào tạo nghề tại dây chuyền sản
xuất của các doanh nghiệp. Gắn đào tạo giáo dục với ứng dụng các khao học kỹ thuật.
Ba là, huy động các nguồn lực đầu tư cho sự phát triển nhân lực. Ngoài việc chi
từ nguồn ngân sách nhà nước, chúng ta cần phải huy động và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước cho sự phát triển nguồn
nhân lực trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh tồn cầu. Chú trọng đẩy mạnh
xã hội hóa các hoạt động giáo dục; ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng kêu gọi các nhà
đầu tư...
Bốn là, nâng cao chất lượng quản lý của nhà nước đối với nguồn nhân lực.
Chúng ta phải quản lý có hiệu quả về nhân lực trước trước những yêu cầu mới của
phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập và cạnh tranh. Nhà nước cần phân định rõ
thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác
chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển nguồn
nhân lực.
Năm là, nâng cao nhận thức của xã hội về phát triển nguồn nhân lực. Chúng ta
xác định đây không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà còn là nhiệm vụ của toàn xã
hội. Chúng ta phải xác định nguồn nhân lực quý giá, là động lực cho sự phát triển;
phát triển nguồn nhân lực không chỉ giúp chúng ta đạt được những mục tiêu ngắn hạn
mà còn là tiền đề cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Do đó nhà nước cần có

những chính sách tác động đến nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm trong vấn đề
đào tạo nguồn nhân lực.
3. Ý kiến bản thân:
Để đáp ứng những yêu cầu cơ bản về con người trong CNH HĐH thì chúng ta
phải thực hiện một loạt những giải pháp nhằm phát triển tốt yếu tố con người trong sự
đi lên của đất nước.
Ngoài việc đào tạo, chăm sóc những nguồn lao động có trí thức, có lí thuyết
chúng ta phải đào tạo cho họ những kĩ năng về văn hóa, những kinh nghiệm thực tiễn.
Chỉ có cách đó thì chúng ta mới có thể có những thế hệ người lao động hoàn hảo về
mọi mặt, đáp ứng những yêu cầu khắt khe của nguồn tuyển dụng lao động, phục vụ
tốt cho CNH HĐH.
Muốn có những con người đáp ứng được những yêu cầu trong sự nghiệp CNH HĐH
ở nước ta hiện nay,cùng với sự giáo dục nhà trường và xã hội, bên cạnh đó là sự chăm

Downloaded by Free Games Android ()


×