Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Vận dụng vấn đề con người trong triết học mác lê NIn vào quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục tại trường trung cấp kinh tế kỹ thuật hồng lam luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.13 KB, 104 trang )

1
GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

-------------------------------------------

NGUYỄN VĂN SANG

VẬN DỤNG VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC –
LÊNIN VÀO QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU GIÁO DỤC
TẠI TRƯỜNG TRUNG CẤP KINH TẾ – KỸ THUẬT HỒNG LAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN, 12/2011

2

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành, tơi bày tỏ lòng biết ơn đối với:
- Khoa Giáo dục Chính trị Trường Đại học Vinh, Hội đồng đào tạo
cao học chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học Bộ mơn Giáo dục
Chính trị.
- Các thầy giáo, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tơi trong
suốt q trình học tập và viết luận văn.
- Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo, TS.
Nguyễn Thái Sơn đã hết sức tận tình giúp đỡ hướng dẫn khoa học cho tôi.

Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn:
- Lãnh đạo và chuyên viên Phòng Giáo dục chuyên nghiệp - Sở


GD&ĐT - Tỉnh Nghệ An.
- Các Thầy trong Ban Giám hiệu và các Thầy trong Hội đồng sáng
lập trường của Trường trung cấp KT – KT Hồng Lam
- Gia đình, bè bạn và các đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên, khích
lệ tơi học tập và hoàn thành luận văn này.

Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn không thể tránh
khỏi những khiếm khuyết. Tơi kính mong sự chỉ dẫn, góp ý của các thầy
giáo, cô giáo trong Hội đồng khoa học.

Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 12 năm 2011
Tác giả

MỤC LỤC Nguyễn Văn Sang Trang

3

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5

5. Phương pháp nghiên cứu 6


6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 6

7. Giả thuyết khoa học 6

8. Kết cấu đề tài 7

PHẦN NỘI DUNG

Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng vấn đề con người

Chương 1 trong triết học Mác – Lênin vào quá trình thực hiện mục tiêu GD 8

tại Trường trung cấp KT - KT Hồng Lam

1.1. Những nội dung cơ bản của vấn đề con người trong triết học Mác – 8

Lênin

1.2. Ý nghĩa của vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin đối với quá 26

trình thực hiện mục tiêu GD tại Trường trung cấp KT - KT Hồng Lam

1.3. Thực trạng vận dụng vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin vào 43

quá trình thực hiện mục tiêu GD tại Trường trung cấp KT - KT Hồng Lam

Quan điểm và giải pháp vận dụng vấn đề con người trong triết học
Chương 2 Mác – Lênin vào quá trình thực hiện mục tiêu GD tại Trường 57

trung cấp KT – KT Hồng Lam


2.1. Quan điểm vận dụng vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin vào 57

việc thực hiện mục tiêu GD tại Trường trung cấp KT - KT Hồng Lam

Một số giải pháp vận dụng vấn đề con người trong triết học Mác –

2.2. Lênin vào việc thực hiện mục tiêu GD tại Trường trung cấp KT- KT 67
Hồng Lam.

KẾT LUẬN 98

TÀI LIỆU THAM KHẢO 100

4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của triết học. Trải qua
những thời kỳ lịch sử khác nhau, triết học đã đi từ lý luận sơ khai đến
những lý luận phức tạp, trừu tượng và mang tính khoa học cao, nhưng vấn
đề trung tâm của nó - vấn đề con người vẫn ln được chú ý. Xã hội lồi
người càng phát triển thì vấn đề con người càng được đánh giá cao và tìm
hiểu sâu sắc.
Đối với Việt Nam, sau khi giành được độc lập và thực hiện thống nhất
đất nước, Đảng và Nhà nước luôn có nhiều chủ trương, chính sách tập
trung vào nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, từng bước nâng cao hơn nữa
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong sự nghiệp đổi mới,
chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất các các lĩnh vực kinh

tế, xã hội, chính trị, văn hóa, giáo dục.... nhưng những thành tựu đó vẫn
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và thời đại. Vì vậy, để trở
thành một nước công nghiệp, sánh vai với các nước trong khu vực và trên
thế giới thì một trong những nhiệm vụ trọng tâm có tính chiến lược hiện
nay là đầu tư phát triển nguồn lực con người, tức là đầu tư cho phát triển
giáo dục và đào tạo nhằm mục đích tạo ra những con người có đủ năng lực
và phẩm chất phục vụ quá trình hội nhập và phát triển.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 35 nêu rõ:
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển
giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục
tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng
tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm
cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”.

5

Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự
nghiệp giáo dục đã đạt được nhiều thành tựu. Trong đó, hệ thống đào tạo
TCCN đã dần khắc phục được những khó khăn để khơng ngừng phát triển
cả về quy mô lẫn chất lượng đào tạo, ngày càng khẳng định được vai trị, vị
trí của mình.

Trường trung cấp KT - KT Hồng Lam được thành lập theo Quyết định
số 329 – QĐUB/VX của UBND tỉnh Nghệ An ngày 24/1/2005 là một cơ sở
giáo dục và đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo Luật Giáo dục.
Được chuyển đổi thành loại hình trường tư thục năm 2008 theo Quyết định
số 578/QĐ-UBND-VX ngày 28 tháng 2 năm 2008, trường thực hiện chủ
trương xã hội hoá giáo dục của Đảng và Nhà nước, hoà nhập xu thế phát

triển giáo dục và đào tạo trên thế giới cũng như trong khu vực; khai thác
nguồn lực tổng hợp ngồi nhà nước để góp phần đào tạo nguồn nhân lực
cho địa phương và đất nước; Trường được xây dựng theo hướng đa cấp, đa
ngành, đa đối tượng tuyển sinh và đa phương thức đào tạo.

Trong điều kiện quy mô đào tạo của trường được mở rộng, với mong
muốn làm sáng rõ những lý luận về vấn đề con người để từ đó đề xuất một
số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động đào tạo, thực
hiện một cách có hiệu quả các mục tiêu đào tạo tại trường, tôi chọn đề tài
“Vận dụng vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin vào quá trình thực
hiện mục tiêu giáo dục tại Trường trung cấp KT - KT Hồng Lam” làm đề
tài luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học Bộ
mơn Giáo dục chính trị.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề con người khơng cịn là vấn đề mới mẻ, được các nhà nghiên
cứu đề cấp đến dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trên thế giới, xung quanh vấn đề con người có nhiều cơng trình của
các tác giả như: M.I.Mikhailốp, Chủ nghĩa Mác và vấn đề giải phóng con

6

người, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1989; I.Levi, Chủng tộc và lịch sử, Hội
khoa học lịch sử xuất bản, 1996; I.T.Frolốp, Trở lại với con người, Tạp chí
nghiên cứu con người, Số 1, 2005... Các cơng trình này đã đề cập đến vấn
đề nguồn gốc, bản chất con người cũng như mục đích và con đường giải
phóng con người.

Vấn đề con người cũng được đề cập đến trong các cơng trình nghiên
cứu của các học giả nước ta như: Trung tâm KHXH&NVQG (1999), Phát

triển con người: từ quan niệm đến chiến lược và hành động, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; Một số vấn đề về triết học – con người –xã hội (2002),
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Xn Kính (2003), Con người, mơi
trường và văn hoá, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Phạm Minh Hạc (2005),
Vấn đề tiềm năng con người, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Hồ Sĩ Quý
(2007), Con người và phát triển con người, NXB Giáo dục, Hà Nội, v.v..

Các cơng trình trên đã đi sâu lý giải các vấn đề về bản chất, năng lực
con người; vấn đề giáo dục, phát huy tiềm năng sáng tạo của con người;
vấn đề chiến lược con người ở nước ta.

Vấn đề triết lý về con người được được đề cập đến trong các đề tài
khoa học, luận văn thạc sĩ như: Bùi Văn Dũng, Triết lý về con người trong
thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, Đề tài Khoa học công nghệ cấp Bộ; Nguyễn
Văn Hải, Vận dụng triết lý về con người trong tục ngữ để dạy học tốt phần
"Cơng dân với đạo đức"ở chương trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT”,
luận văn Thạc sĩ. Các công trình này đã tìm hiểu triết lý của người Việt
Nam thông qua thành ngữ, tục ngữ; sự vận dụng triết lý về con người trong
dạy môn Giáo dục công dân nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.

Vấn đề chiến lược con người và giáo dục đào tạo được đề cập trong
các tài liệu quan trọng của Đảng và Nhà nước ta như: Các văn kiện đại hội
của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới, Chiến lược phát triển giáo
dục Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010, Luật giáo dục (2005)... Những vấn

7

đề này cũng được quan tâm nghiên cứu bởi các nhà khoa học, các nhà giáo
dục trong các cơng trình tiêu biểu như: Nguyễn Đức Hùng, Phan Xuân
Dũng (2004), Nhân tài trong chiến lược phát triển quốc gia, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội; Vũ Ngọc Hải, Trần Khánh Dư (2003), Hệ thống giáo
dục hiện đại trong những năm đầu thế kỷ XXI, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Hoa (2003), Tôn trọng tri thức, tôn trọng
nhân tài, kế lớn trăm năm, chấn hưng đất nước, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội; vv... Các cơng này đã phân tích chỉ ra vị trí, định hướng chiến lược
con người của Đảng ta cũng như vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

Liên quan tới vấn đề xây dựng chiến lược phát triển, mục tiêu giáo
dục của các trường TCCN có các văn bản của UBND tỉnh Nghệ An như:
Nghị quyết 07/NQ-TV về phát triển dạy nghề thời kỳ 2001-2005; Báo cáo
tổng kết công tác dạy nghề giai đoạn 2001-2005; Quyết định số 5060/QĐ-
UBND-VX của UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt đề án đào tạo công nhân kỹ
thuật bậc cao giai đoạn 2006-2010;... Các văn bản này đã xác định những
định hướng về mục tiêu chiến lược giáo dục cũng như nội dung và phương
thức đào tạo của các trường CĐ, TCCN trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

Như vậy, do tầm quan trọng của vấn đề con người, của sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, các nhà khoa học trong và ngồi nước đã quan tâm
nghiên cứu vấn đề này. Nhìn chung, các tác giả đã tập trung phân tích về
vấn đề con người, bản chất và vai trò của con người; vấn đề mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội; về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng thị trường lao
động cũng như cơ sở của việc phát huy nguồn lực con người. Nhưng một
vấn đề khá quan trọng là vận dụng lý luận về vấn đề con người để thực hiện
mục tiêu giáo dục trong hệ thống giáo dục chuyên nghiệp nói chung, tại
một trường TCCN nói riêng thì số lượng đề tài tham gia nghiên cứu cịn
khá hạn chế.

8


Từ những ưu điểm, thành tựu đã đạt được trong các cơng trình khoa học
đã có, tơi lấy đó làm cơ sở và kế thừa một cách có chọn lọc để tiếp tục nghiên
cứu, làm sáng rõ hơn nữa vấn đề con người, vận dụng những lý luận đó để
thực hiện mục tiêu giáo dục tại một trường TCCN cụ thể, góp phần vào việc
đào đào tạo nguồn nhân lực theo chuẩn đầu ra đáp ứng thị trường lao động.

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra quan điểm và giải pháp vận
dụng vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin vào quá trình thực hiện
mục tiêu giáo dục tại Trường trung cấp KT - KT Hồng Lam.
3.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của đề tài là:
Thứ nhất: Trình bày một cách có hệ thống các quan điểm về vấn đề
con người của triết học Mác – Lênin và hệ thống hoá những quan điểm, chủ
trương của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển con người Việt Nam.
Thứ hai: Chỉ ra ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề con người trong
triết học Mác – Lênin đối với việc thực hiện mục tiêu giáo dục ở Trường
trung cấp KT - KT Hồng Lam.
Thứ ba: Đưa ra quan điểm và đề xuất các giải pháp vận dụng vấn đề
con người trong triết học Mác – Lênin vào quá trình thực hiện mục tiêu
giáo dục tại Trường trung cấp KT - KT Hồng Lam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khai thác và vận dụng những nội dung của triết học Mác – Lênin về
vấn đề con người vào quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục ở Trường trung
cấp KT - KT Hồng Lam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những nội dung cơ bản của triết học Mác – Lênin
về vấn đề con người nhằm vận dụng những nội dung đó vào q trình thực

hiện mục tiêu giáo dục tại của trường TCCN. Từ đó, đề tài tập trung nghiên
cứu để đưa ra quan điểm và những giải pháp vận dụng vấn đề con người

9

trong triết học Mác – Lênin vào quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục tại
Trường trung cấp KT - KT Hồng Lam.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, đề tài tập trung sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:

Phương pháp biện chứng: Đề tài sử dụng các phương pháp trừu
tượng hóa, khái qt hóa, phân tích, tổng hợp để nghiên cứu và vận dụng
những lý luận về vấn đề con người để đề xuất giải pháp vận dụng nó vào
quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục tại một trường TCCN cụ thể.

Phương pháp nghiên cứu văn bản: đọc, nghiên cứu và phân tích một
số tài liệu, văn bản, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, ngành, địa phương và
các tài liệu khoa học có liên quan đến nội dung của đề tài.

Phương pháp khảo sát, điều tra tìm hiểu thực tế: khảo sát cơ sở pháp
lý, quy trình xây dựng chương trình đào tạo hệ TCCN cũng như thực tế
thực hiện chương trình đào tạo tại Trường trung cấp KT - KT Hồng Lam.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ quan điểm của triết học Mác – Lênin về vấn
đề con người và chỉ ra ý nghĩa, tầm quan trọng của nó đối với việc thực
hiện mục tiêu giáo dục ở trường TCCN.

Đề tài đưa ra quan điểm và đề xuất các giải pháp, có thể là nguồn tư
liệu tham khảo, cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để Trường trung cấp
KT - KT Hồng Lam và các trường TCCN khác vận dụng vấn đề con người
trong triết học Mác – Lênin vào việc xây dựng và thực hiện chương trình
đào tạo, thực hiện mục tiêu giáo dục của một trường TCCN.
7. Giả thuyết khoa học
Quá trình nghiên cứu đề tài xuất phát từ giả thuyết cho rằng nếu vận
dụng tốt quan điểm về vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin vào
việc thực hiện mục tiêu giáo dục tại Trường trung cấp KT – KT Hồng Lam
sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường trong giai đoạn
hiện nay.

10

8. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần tài liệu tham khảo. Đề tài
gồm hai chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng vấn đề con người
trong triết học Mác – Lênin vào quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục tại
Trường trung cấp KT - KT Hồng Lam.
Chương 2. Quan điểm và giải pháp vận dụng vấn đề con người trong triết
học Mác – Lênin vào quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục tại Trường
trung cấp KT - KT Hồng Lam.

11

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN
DỤNG VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀO
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG

TRUNG CẤP KINH TẾ - KỸ THUẬT HỒNG LAM
1.1. Những nội dung cơ bản của vấn đề con người trong triết học Mác
– Lênin
1.1.1. Vấn đề bản chất con người
Trước hết, triết học Mác – Lênin khẳng định: Con người là một thực
thể sinh vật – xã hội.
Trong khi kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của triết
học trước, nhất là của Hêghen và Phoiơbắc, Các Mác và Ph.Ăngghen đã có
một cách tiếp cận hồn tồn mới về vấn đề con người – đó chính là sự vận
dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu sự vận động của đời
sống xã hội, của lịch sử nhân loại. Trong tác phẩm: Hệ tư tưởng Đức, Các
Mác và Ph.Ăngghen đã xuất phát từ con người hiện thực, từ cá nhân đang
hoạt động thực tiễn để nghiên cứu về con người. Các ơng viết: “Hồn toàn
trái với triết học Đức là triết học từ trên trời đi xuống đất, ở đây
chúng ta từ dưới đất đi lên trời, tức là chúng ta không xuất phát từ
những điều mà con người nói, tưởng tượng, hình dung, chúng ta
cũng không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói,
trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác,
để từ đó mà đi tới những con người bằng xương bằng thịt; không,
chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động, hiện thực và
chính là cũng xuất phát từ q trình đời sống hiện thực của họ mà
chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng
vang tư tưởng của quá trình đời sống ấy. Ngay cả những ảo tưởng hình
thành trong đầu óc con người cũng là những vật thăng hoa tất yếu của

12

quá trình đời sống vật chất của họ, một q trình có thể xác định được
bằng kinh nghiệm và gắn liền với những tiền đề vật chất”. [6;37,38]


Trên cơ sở đó, Các Mác đưa ra một quan điểm độc đáo về con người
khi khẳng định con người là thực thể tự nhiên có tính chất người.

Con người tồn tại trong tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự nhiên.
Khẳng định điều này, Các Mác nhấn mạnh: “Như thế nghĩa là giới tự nhiên
là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong
q trình thường xun giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và
tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua
chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con
người là một bộ phận của giới tự nhiên”. [11;257]

Khi xác định bản chất tự nhiên của con người, các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác tập trung vào những hoạt động của con người trong lịch sử. Các
Mác cho rằng: “Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật
ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình -
đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất
ra chính đời sống vật chất của mình”. [6;29]

Để tồn tại, con vật cũng phải kiếm sống, nhưng cách thức kiếm sống
của chúng khác hẳn với hoạt động sản xuất của con người. Các Mác chỉ rõ:
“Cố nhiên, con vật cũng sản xuất. Nó xây dựng tổ, chỗ ở của nó, như con
ong, con hải ly, con kiến v.v.. Nhưng con vật chỉ sản xuất cái mà bản thân
nó hoặc con nó trực tiếp cần đến; nó sản xuất một cách phiến diện, trong khi
con người sản xuất một cách toàn diện; con vật chỉ sản xuất vì bị chi phối bởi
nhu cầu thể xác trực tiếp, còn con người sản xuất ngay cả khi không bị nhu
cầu thể xác ràng buộc, và chỉ khi khơng bị nhu cầu đó ràng buộc thì con
người mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của từ đó” [11;259). Các Mác
nhấn mạnh, con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, cịn con người thì tái sản


13

xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Hơn thế nữa, việc tái sản xuất của con người
không chỉ nhằm giải quyết nhu cầu vật chất, mà cịn vì những nhu cầu tinh
thần. Do đó, theo Các Mác, “con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, cịn con
người thì tái sản xuất ra tồn bộ giới tự nhiên; sản phẩm của con vật trực tiếp
gắn với cơ thể thể xác của nó, cịn con người thì đối diện một cách tự do với
sản phẩm của mình. Con vật chỉ xây dựng theo kích thước và nhu cầu của
lồi của nó, cịn con người thì có thể sản xuất theo kích thước của bất cứ lồi
nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của mình vào đối tượng; do
đó con người cũng xây dựng theo các quy luật của cái đẹp” [11;259]

Trong nghiên cứu của mình, mặc dù tiếp thu quan điểm đề cao yếu tố
tự nhiên trong sự tồn tại người của Phoiơbắc, song Các Mác không dừng lại
ở tư tưởng của Phoiơbắc, mà đi xa hơn và hồn chỉnh khái niệm con người
của mình. Các Mác viết: “con người là một sinh vật có ý thức, nghĩa là đời
sống của bản thân con người là một đối tượng đối với con người, chính chỉ
vì con người là một sinh vật có tính lồi. Chỉ vì thế mà hoạt động của con
người là hoạt động tự do. [11;258]

Khi phân tích sự tồn tại của con người với nghĩa là sinh vật có tính
lồi, Các Mác nhận ra rằng nó có hai mặt tự nhiên và xã hội. Mặt tự nhiên
là thể xác, là cơ thể sinh vật của con người và mối liên hệ hữu cơ của nó
với giới tự nhiên ở bên ngồi cơ thể ấy. Cịn mặt xã hội chính là hoạt động
lao động, là liên hệ của con người với nhau và là tất cả những gì hình thành
trên cơ sở hoạt động và liên hệ ấy như nhà nước, khoa học, nghệ thuật, tôn
giáo, ý thức… Hai mặt này liên hệ hữu cơ với nhau trong cùng một thực
thể là con người. Các Mác cho rằng, ở cả hai mặt tự nhiên và xã hội, con
người đều có những đặc trưng làm cho nó phân biệt đối với lồi vật, đó là
tính người của con người. Bản chất của con người xét từ hai mặt tự nhiên

và xã hội nhưng về cơ bản là ở mặt xã hội của nó.

14

Trong con người, mặt tự nhiên và mặt xã hội thống nhất với nhau, mặt
tự nhiên là cơ sở của mặt xã hội, còn mặt xã hội là đặc trưng của sự tồn tại
người, tuy nhiên đó khơng phải là sự thống nhất trong sự tồn tại câm lặng,
tĩnh tại, cô lập của cá thể người, mà là sự thống nhất được biểu hiện ra trong
đời sống hiện thực, trong hoạt động sinh sống con người. Cơ sở của sự thống
nhất đó là hoạt động sinh sống của con người, trong đó trước hết là hoạt
động sản xuất vật chất. Nhờ hoạt động này, con người đã cải tạo tự nhiên, cải
tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình, làm cho mình ngày càng hồn
thiện. Chính những hoạt động này chứ khơng phải là cái gì khác đã làm biến
đổi mặt tự nhiên của con người và làm cho nó mang tính xã hội. Và cũng
chính hoạt động thực tiễn ấy đã làm cho những nhu cầu sinh vật ở con người
trở thành nhu cầu xã hội. Với quan điểm này, Ph.Ăngghen đã khẳng định, lao
động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống lồi người và trên một
ý nghĩa nào đó chính lao động đã sáng tạo ra bản thân con người.

Như vậy, Các Mác đã đưa ra một quan niệm độc đáo, đúng đắn, khoa
học về con người. Đó là quan niệm coi con người là sự thống nhất giữa cái tự
nhiên tự có với cái tự nhiên được sáng tạo bởi con người, giữa thực thể tự
nhiên và thực thể xã hội, giữa bản tính tự nhiên và bản chất xã hội của con
người. Hai mặt tự nhiên và xã hội trong con người có quan hệ chặt chẽ với
nhau, nếu như mặt tự nhiên là điều kiện cần thì mặt xã hội là điều kiện đủ để
con người trở thành Người theo đúng nghĩa của nó. Chỉ có trong xã hội, con
người mới thể hiện bản chất tự nhiên và bản chất xã hội của mình. Bằng hoạt
động thực tiễn, con người hình thành nên những phẩm chất đặc thù của nó,
những phẩm chất mà khơng một lồi vật nào có được là phẩm chất xã hội.


Thứ hai, khi bàn về vấn đề bản chất con người, Các Mác khẳng định:
“Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hoà những quan hệ xã hội”. [6;19]

15

Theo đánh giá của Lênin, đây là một luận điểm hết sức nổi tiếng và
tiêu biểu cho triết học Mác – Lênin về bản chất con người. Luận điểm này
đã trở thành cơ sở khoa học cho chủ nghĩa Mác- Lênin và các khoa học
khác khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề con người. Nhiều nhà tư tưởng đã
thừa nhận rằng, khó mà tìm thấy trong lịch sử nhận thức khoa học của nhân
loại một chân lý nào mà mới nhìn tưởng như đơn giản và rõ ràng, nhưng về
thực chất, lại có thể sâu sắc và căn bản hơn luận điểm của Các Mác về bản
chất con người.

Các Mác chỉ rõ: “Đời sống xã hội, về thực chất là có tính chất thực
tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa thần bí, đều
được giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của con người và trong sự
hiểu biết thực tiễn ấy”. [6;20]. Hơn nữa, khi nhấn mạnh vai trò to lớn của
thực tiễn, Các Mác đã khẳng định: “Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích
thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. [6;20]

Các Mác đặt con người trong tính hiện thực, điều đó có nghĩa con
người là hiện thực, khơng phải là cái gì trừu tượng mà là cụ thể - cảm tính.
Con người được hiện ra dưới hoạt động thực tiễn, phong phú, đa dạng. Đó là
con người sống trong một thời đại nhất định, một môi trường xã hội nhất
định với các điều kiện tự nhiên, sinh quyển, khí quyển… và những mối quan
hệ phức tạp và ngày càng phong phú cùng với sự phát triển của văn minh.


Trong hoạt động thực tiễn của con người, sản xuất vật chất là hoạt
động cơ bản nhất. Chính trong hoạt động sản xuất, con người đã tạo ra đời
sống của mình, con người có những quan hệ năng động, tích cực hai chiều
và nhiều chiều với tự nhiên, với đồng loại. Qua sự tác động của con người
với tự nhiên, con người đã làm biến đổi tự nhiên, đồng thời làm biến đổi
chính bản thân mình. Các Mác viết: “Lao động trước hết là một quá trình
diễn ra giữa con người và tự nhiên, một q trình trong đó, bằng hoạt động
của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi

16

chất giữa họ và tự nhiên. Bản thân con người đối diện với thực thể của tự
nhiên với tư cách là một lực lượng của tự nhiên. Để chiếm hữu được thực
thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình,
con người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về thân thể của họ: tay và
chân, đầu và hai bàn tay. Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngồi
thơng qua sự vận động đó, và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng đồng
thời làm thay đổi bản tính của chính nó”.[9;274]

Các Mác khẳng định nét đặc trưng riêng của quá trình lao động của
con người là sử dụng và sáng tạo ra những tư liệu lao động. Phran-clin ở
điểm này cũng có quan điểm tương đồng với Các Mác khi ông định nghĩa
con người là động vật chế tạo công cụ lao động.

Các Mác không chỉ xem xét con người với các hoạt động thực tiễn
mà cịn xem xét nó trong một thời đại nhất định, một giai đoạn lịch sử cụ
thể, chịu ảnh hưởng của một môi trường tự nhiên nhất định. Và vì thế
chúng ta cần phải thấy thế nào là bản chất con người nói chung và bản chất
ấy biến hình như thế nào trong mỗi thời đại nhất định... Bất kỳ lịch sử nào
cũng không phải là cái gì khác mà là sự hoạt động khơng ngừng của bản

chất con người.

Bản chất xã hội chính là cái chung của con người, nhưng trong mỗi
giai đoạn lịch sử bản chất ấy lại được thể hiện với những nét đặc trưng
riêng. Cái chung và cái riêng ở đây thống nhất biện chứng với nhau và ln
ln chuyển hố lẫn nhau. Ở mỗi thời đại khác nhau, bản chất con người
hiện ra với những đặc điểm khác nhau, bởi vì, xã hội lồi người ln ln
vận động từ hình thái KT - XH này sang hình thái KT - XH khác. Mà con
người lại là sản phẩm của xã hội, vì thế con người cũng phải biến đổi theo
cho phù hợp. Con người ở thời đại nào thì mang dấu ấn của thời đại ấy.
Trong xã hội có giai cấp, bản chất con người sẽ mang tính giai cấp.

17

Các Mác đề cập đến tính hiện thực của bản chất con người nghĩa là
xem xét con người trong điều kiện hồn cảnh cụ thể, cảm tính và tồn tại
trong một thời đại nhất định. Nó được hiện ra trong sự hình thành, phát
triển, trong bản chất và sự tồn tại của nó với tính cách là chủ thể hoạt động
thực tiễn, đa dạng; đồng thời con người cũng là cá thể tộc loại hoặc cá nhân
thuộc một tập đoàn, một giai cấp, một xã hội nhất định, trong đó, hạt nhân
của tính hiện thực ấy chính là tổng hồ các quan hệ xã hội. Trong q trình
lao động sản xuất, con người không chỉ tác động vào tự nhiên, mà cịn tác
động lẫn nhau và nhờ vậy, hình thành nên các quan hệ xã hội. Sở dĩ Các
Mác xét con người trong tổng hoà các quan hệ xã hội để nhằm đối lập với
luận điểm coi con người đơn thuần như một phần của giới tự nhiên còn bỏ
qua khơng nói gì đến mặt xã hội của con người, đồng thời Các Mác cũng
nhấn mạnh mặt xã hội là yếu tố đặc thù để phân biệt con người với con vật.

Xét bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội tức là xem
con người với tất cả các quan hệ xã hội của nó, khơng những chỉ trong

những quan hệ xã hội hiện có, trong đó con người đang sống mà cả những
quan hệ xã hội hiện có đã có từ trước kia trong một tổng thể với tất cả
những mối liên hệ biện chứng của chúng, bởi vì trong lịch sử của mình, con
người phải kế thừa những di sản, những truyền thống đã thúc đẩy con
người vươn tới hoặc ngược lại. Bởi thế “lịch sử chẳng qua chỉ là sự nối
tiếp của những thế hệ riêng rẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác
những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả
những thế hệ trước để lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục cái hoạt
động được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và
mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn
toàn thay đổi”. [6;65]

Theo Các Mác, bản chất con người khơng phải là cái sinh thành bất
biến mà có sự vận động, phát triển phù hợp với sự biến đổi của hoàn cảnh,

18

của thời đại. Cụ thể là bản chất xã hội của con người luôn luôn thay đổi
cùng với những phương thức sản xuất lớn với những chế độ chính trị khác
nhau. Mỗi con người dù muốn hay khơng, vừa cất tiếng khóc chào đời đã
bị khốc bởi cái áo xã hội họ đang sống, đó là những mối quan hệ xã hội.

Trong một xã hội có nhiều các quan hệ xã hội. Xét các quan hệ về
mặt xã hội có: quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, gia đình, quan hệ giữa các
liên minh, giữa các cá nhân và xã hội, giữa các cộng đồng xã hội… Xét về
mặt tổ chức và kỹ thuật đó là sự tương tác của con người trong quá trình
lao động trực tiếp, trao đổi các hoạt động. Xét về mặt vật chất đó là các
quan hệ sản xuất. Xét về mặt tư tưởng đó là các quan hệ chính trị, các quan
hệ đạo đức, các quan hệ thẩm mỹ, các quan hệ pháp quyền, các quan hệ tôn
giáo khác… Trong các quan hệ xã hội đó, quan hệ sản xuất giữ vai trị

quyết định, bởi lẽ nó đã tạo ra đời sống con người và xã hội loài người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Các quan hệ sản xuất cấu thành mặt tất yếu của mọi phương thức sản xuất,
bởi vì con người chỉ có thể tiến hành sản xuất khi họ kết hợp với nhau theo
một phương thức nào đó.

Các Mác xem bản chất con người là “tổng hồ các quan hệ xã hội”
có nghĩa là bản chất con người không phải là sự tập hợp, hay tổng số học
đơn giản các quan hệ xã hội phức tạp, đa dạng, chằng chịt, mà là một sự
tổng hồ mang tính biện chứng do các quan hệ xã hội đưa lại, trong đó
quan hệ cơ bản là quan hệ lợi ích, quan hệ kinh tế tồn tại như là nguồn gốc,
cơ sở xác lập nên bản chất của nó, tức là quy định nên sự “tổng hồ” đó.
Như thế, nếu kết hợp với quan điểm của Các Mác về bản chất của con
người trong “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” chúng ta thấy bản chất
của con người khơng phải cái gì đó tĩnh tại, “câm lặng” trong nó, mà là q
trình khơng ngừng được xác lập và được biểu hiện ra trong sự tồn tại, hoạt
động của con người với tư cách là tổng hồ của những quan hệ xã hội vốn
có của nó.

19

Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn năng động, tích cực,
con người đã hình thành nên những quan hệ xã hội và các quan hệ xã hội
tạo lập nên bản chất xã hội con người. Nói một cách khác, tất cả các quan
hệ xã hội được tổng hoà một cách biện chứng lại tạo thành bản chất con
người, cho dù đó là con người xã hội nói chung hay con người cá nhân
riêng lẻ. Đúng như Các Mác viết “sự phát triển của một cá nhân được
quyết định bởi sự phát triển của tất cả những cá nhân khác mà cá nhân
ấy đang trực tiếp hoặc gián tiếp giao tiếp, rằng các thế hệ của những
cá nhân quan hệ với nhau, bị ràng buộc với nhau, rằng sự tồn tại về

hình thể của thế hệ sau do những thế hệ trước của họ quyết định,
những thế hệ sau ấy thừa kế lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp
do những thế hệ trước tích luỹ, điều đó quyết định những mối quan hệ
qua lại của chính thế hệ ấy. Tóm lại, chúng ta thấy rằng sự phát triển
đang diễn ra và lịch sử của một cá nhân riêng lẻ tuyệt nhiên không
thể tách rời với lịch sử của những cá nhân trước kia hoặc cùng thời với
mình, mà là do lịch sử ấy quyết định”. [6;642]

Khi nhấn mạnh mặt xã hội trong bản chất con người, khơng có nghĩa
là Các Mác gạt bỏ yếu tố tự nhiên. Trong các quan hệ xã hội của con người
đều chứa đựng tính tự nhiên được biểu hiện ở nhu cầu, lợi ích,... Mặt khác,
các quan hệ xã hội của con người không tách rời với các quan hệ tự nhiên
và quan hệ của con người với con người khơng nằm ngồi mối quan hệ con
người với tự nhiên. Khi Các Mác khẳng định, trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, Các Mác đã phê
phán chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc. Do đó, quan điểm này của
Các Mác khơng hề phiến diện, mà ngược lại là một phát hiện có giá trị
khoa học to lớn về bản chất con người.

Thứ ba, khi làm rõ vấn đề con người và bản chất con người, học
thuyết Mác – Lênin khẳng định: con người là chủ thể và là sản phẩm của
lịch sử.

20

Xem xét vị thế của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử
nhân loại, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khẳng định, khuynh hướng
chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của
lực lượng sản xuất – đó là con người và những công cụ lao động do con
người tạo ra. Sự phát triển đó của lực lượng sản xuất tự nó đã nói lên trình

độ phát triển của xã hội. Rằng lực lượng sản xuất, theo Các Mác là kết quả
của nghị lực thực tiễn của con người. Mỗi thế hệ con người bao giờ cũng
nhận được những lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra và sử dụng
chúng làm phương tiện cho hoạt động sản xuất mới. Nhờ sự chuyển giao
lực lượng sản xuất ấy mà con người đã hình thành nên mối liên hệ trong
lịch sử loài người. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng phát
triển thì lịch sử đó càng trở thành lịch sử lồi người. Với quan điểm đó,
Mác đi đến kết luận: “Xã hội... là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa
những con người”... và “lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của
sự phát triển cá nhân của những con người”. [10;657]

Học thuyết Mác khẳng định: Bằng hoạt động thực tiễn, con người đã
in dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của mình vào giới tự nhiên, cải tạo
đời sống xã hội và qua đó, phát triển và hồn thiện chính bản thân mình.
Con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quá trình phát triển lịch sử.
Con người làm nên lịch sử của chính mình. Do vậy mà lịch sử là lịch sử
của con người, do con người và vì con người. Con người vừa là sản phẩm
của hoàn cảnh, vừa là chủ thể của mọi biến cố của hoàn cảnh. Bằng hoạt
động thực tiễn năng động và sáng tạo, con người làm thay đổi không chỉ bộ
mặt tự nhiên, mà cả bộ mặt xã hội của chính mình.

Với quan niệm đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định
rằng, không phải lịch sử sử dụng con người như một phương tiện để đạt
mục đích; rằng con người vừa là tiền đề thường xuyên của lịch sử, vừa là
sản phẩm, là kết quả thường xuyên của lịch sử. Do vậy, theo các ơng, chính


×