Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Cau 2 3 thuyettrinh (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.2 KB, 3 trang )

II) Điểm chưa phù hợp trong bản án sơ thẩm
1. đầu tiên, tịa án Thiếu sót trong việc thu thập chứng cứ và không đủ cơ sở,
không đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án.
Tịa án đã chấp nhận tồn bộ yêu cầu của nguyên đơn về lãi trong hạn, lãi quá
hạn nhưng lại không yêu cầu nguyên đơn cung cấp các thông báo của Ngân hàng
về việc điều chỉnh lãi suất theo từng thời kỳ để xem xét, xác định việc tính lãi suất
của ngun đơn có sự thay đổi, điều chỉnh theo quy định tại khoản 3 Điều 91 Luật
các Tổ chức tín dụng năm 2010 hay khơng mà đã chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn về mức lãi.
Ngoài ra, tài sản thế chấp 25.000.000 cổ phần của bà H đã đem cầm cố và bán
cho nhiều tổ chức tín dụng khác nhau nên phát sinh tranh chấp về tài sản. Bên cạnh
đó hành vi cầm cố và bán cổ phần cho nhiều tổ chức tín dụng khác nhau của bà H
đang được Công an điều tra.
2. Về hiệu lực của Thư bảo lãnh.
Tòa án buộc Ngân hàng S phải thanh toán trả cho Ngân hàng ĐT
382.281.064.571đ theo nội dung Thư bảo lãnh thanh toán số 079.2012 do S phát
hành.
Tuy nhiên, tại Điều 4 của Thư bảo lãnh đã quy định: Thư bảo lãnh có hiệu lực
kể từ khi bên nhận bảo lãnh giải chấp toàn bộ tài sản, hồ sơ tài sản và các hình
thức bảo đảm cho bên được bảo lãnh theo nội dung Biên bản làm việc ngày
23/8/2012.
Theo Biên bản thỏa thuận ngày 23/8/2012, Ngân hàng ĐT chỉ cam kết giải
chấp khi đã có Thư bảo lãnh thanh tốn nên khơng xác định được thời điểm phát
sinh hiệu lực của Thư bảo lãnh. Vậy nên, thư bảo lãnh thanh toán của Ngân hàng S
chưa phát sinh hiệu lực do Ngân hàng ĐT chưa hoàn thành nghĩa vụ giải chấp và
bàn giao toàn bộ tài sản, hồ sơ tài sản và các hình thức bảo đảm cho Công ty TS
theo nội dung đã thống nhất tại Biên bản thỏa thuận. Song, các giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thế chấp, bên thế chấp và nhận thế chấp chưa giải chấp và chưa
xóa thế chấp tại Ngân hàng ĐT. Do đó, Tịa án khơng thể buộc Ngân hàng S phải
trả cho Ngân hàng ĐT số tiền mà họ yêu cầu.
3. Về người tham gia tố tụng.


Mặc dù ngân hàng ĐT khởi kiện yêu cầu Ngân hàng S thực hiện nghĩa vụ
thanh tốn thay cho Cơng ty TS theo Thư bảo lãnh nhưng Thư bảo lãnh này xuất
phát từ thỏa thuận và giao dịch theo Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp tài


sản giữa Công ty TS, bà H với Ngân hàng ĐT nên việc giải quyết vụ án có liên
quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của bà H.
Tòa án đã ra thông báo không đưa bà H tham gia tố tụng với tư cách là người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để đưa vụ án ra xét xử do không tống đạt được
văn bản tố tụng cho bà H. Nhưng Tịa án lại khơng tiến hành ủy thác tư pháp để thu
thập chứng cứ và lấy lời khai, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.
Ngoài ra tồ án cũng khơng đưa ơng Nguyễn Văn T (chồng bà H) vào tham
gia tố tụng.
Bên cạnh đó, Tịa án cịn bỏ sót các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp. Đối
với tài sản là 25.000.000 cổ phần của bà H, ngồi thế chấp cho Ngân hàng ĐT thì
bà H còn thế chấp cho Ngân hàng VDB và bán cho Công ty Tư vấn Đầu tư và Dịch
vụ HM. Theo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố CT thì 25.000.000 cổ
phần này bà H đã cầm cố, bán cho 5 tổ chức tín dụng, doanh nghiệp khác nhau.
Như vậy, Tịa án cấp sơ thẩm đã khơng xác định và đưa bà H, ơng T, các tổ chức
tín dụng, các doanh nghiệp trên vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan theo quy định tại khoản 4 và khoản 6, Điều 68 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 là bỏ sót người tham gia tố tụng.
4. Kiểm tra, đánh giá xác thực của các hồ sơ chiết khấu.
Đối với việc kiểm tra, xem xét đánh giá các hồ sơ chiết khấu còn là cơ sở để xác
định số dư nợ thực sự của Công ty TS bởi ngân hàng S phát hành thư bảo lãnh có
trị giá 215.400.000.000 nhưng chưa xác định được các hồ sơ chiết khấu là thật hay
giả thì chưa thể xác định được Cơng ty TS nợ gốc thực sự là bao nhiêu, nợ lãi là
bao nhiêu để từ đó xác định trách nhiệm bảo lãnh của Ngân hàng S phải trả nợ thay
đối với 50% tổng số tiền Công ty TS nợ sau 24 tháng kề từ ngày thư bảo lãnh có
hiệu lực và sau 36 tháng kể từ ngày thư bảo lãnh có hiệu lực.

III) Vậy giải quyết vụ việc như thế nào để phù hợp với quy định của pháp
luật, sau đây chúng ta sẽ cùng đến với phần 3
1. Tòa án phải thu thập đầy đủ chứng cứ để có cơ sở giải quyết đúng đắn vụ
án tránh gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của đương sự, của người thế chấp
tài sản bảo đảm và của người bảo lãnh.
Theo quy định tại khoản 3 điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì đối với
các khoản vay tại các Hợp đồng tín dụng ngắn hạn giữa Ngân hàng ĐT và Cơng ty
TS, Tịa án cần phải xem xét sự điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
theo thỏa thuận và quy định. Sau đó, Tịa án ra yêu cầu nguyên đơn cung cấp các


thông báo của Ngân hàng về việc điều chỉnh lãi suất theo từng thời kỳ rồi mới đưa
ra quyết định chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về lãi trong hạn, lãi q hạn.
2. Tịa án phải xác định chính xác, đầy đủ chủ thể tham gia tố tụng để tránh
bỏ sót người tham gia tố tụng và làm cơ sở để việc giải quyết vụ án.
Ở trong vụ án này, Tòa án đã xác định thiếu chủ thể tham gia tố tụng là bà H, ông T
và các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp mà bà H đã thế chấp cổ phần.
Theo khoản 4 và khoản 6 điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có thể hiểu,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mặc dù không khởi kiện nhưng nếu việc
giải quyết vụ án dân sự liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ thì họ có quyền
được tham gia tố tụng và nếu khơng ai đề nghị đưa họ vào thì Tịa án phải có trách
nhiệm đó.
Như vậy, theo khoản 4 và khoản 6 điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì Tịa án
phải đưa các chủ thể trên vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan theo đúng trình tự pháp luật.
3. Tòa án cần dựa vào các căn cứ trong bản án sơ thẩm để bác bỏ đơn khởi
kiện của Ngân hàng ĐT.
Theo lời khai, chứng cứ các bên đưa ra, và theo quy định tại Điều 4 của Thư bảo
lãnh thì chứng thư bảo lãnh của ngân hàng S chỉ có hiệu lực từ thời điểm Ngân
hàng ĐT giải chấp tồn bộ tài sản bảo đảm của cơng ty TS, đồng thời chỉ có giá trị

pháp lý khi tồn bộ khoản vay, giao dịch chiết khấu bộ chứng từ của Ngân hàng
ĐT là hợp pháp. Nhận thấy rằng ngân hàng ĐT mắc nhiều sai phạm khi thẩm định
cho vay và quản lý tài sản bảo đảm, ngân hàng chưa hoàn thành nghĩa vụ giải chấp
và bàn giao toàn bộ tài sản, hồ sơ tài sản bảo đảm theo quy định tại biên bản thỏa
thuận. Do đó, thư bảo lãnh của Ngân hàng S chưa phát sinh hiệu lực. Như vậy, theo
quan điểm của nhóm chúng tơi, Tịa án cần dựa vào căn cứ trên để bác đơn kiện
của Ngân hàng ĐT.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×