Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

phuong phap nuoi de men

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.48 KB, 18 trang )

I.GIỚI THIỆU:

Dế mèn (tên khoa học Gryllidae) là một họ côn trùng có chút liên hệ với
châu chấu, chúng có thân dẹt và và râu dài. Dế mèn đẻ mỗi lứa nhiều
trứng và sau khi đẻ chúng sẽ chết dần. Tuổi thọ của chúng kéo dài từ 2 - 3
tháng tùy thuộc vào từng loại dế.
Trong những năm gần đây món ăn từ côn trùng đã thu hút được rất nhiều
thực khách không chỉ ở những nước Châu Âu, Châu Á mà cả ở
Việt Nam. Trong các loại côn trùng được sử dụng thì ưa chuộng hơn cả là
thịt dế, thịt dế giàu đạm, can-xi, vị ngon không kém thịt cua nên ngày
càng được nhiều thực khách tìm đến. Tiến sỹ Nguyễn Thị Chắt cho rằng:
"Do thức ăn của dế chủ yếu là thực vật, một số sách Đông y còn dùng thịt
dế để trị bệnh nên người dùng có thể yên tâm khi ăn vào cơ thể".
Trong y học cổ truyền, dế mèn cò vị mặn cay, tính bình và có tác dụng lợi
tiểu chữa bí đái. Theo y tổ Tuệ Tĩnh, dế mèn sấy khô, tán nhỏ, rây bột
mịn, uống với nước bìm bịp sắc lên, uống vào lúc đói có thể chữa bệnh cổ
trướng, thở dốc (Nam dược thần hiệu). Theo các tài liệu nước ngoài, dế
mèn là loại côn trùng giàu prôtít, ít chất béo, giúp giảm lượng coletoron
trong máu, thịt dế mèn còn được dùng trong các trường hợp chữa chứng
nhiễm độc nước tiểu, đại tiện khó, chữa sỏi thận, người lớn và trẻ em
chán ăn, mệt mỏi, khó tiêu
Ngoài công dụng đông y kể trên, trong Dế mèn còn chứa đầy đủ protit,
lipit, glucid, nhiều khoáng chất như calci, phosphore, kali, mangan, natri,
sắt, và các vitamin khác rất cần cho sự phát triển của cơ thể và trí não của
cả trẻ em và người lớn.
Dế mèn có kích thước trung bình với chiều dài cơ thể khoảng 2cm, hiện
tại TRANG TRẠI THANH XUÂN đã nhân giống được 3 loại dế nuôi
hiệu quả nhất và có đầu ra tốt nhất, đó là: dế đen, dế trắng vàng, dế
trắng nâu. Trong tự nhiên, dế sinh trưởng, phát triển và sinh sản quanh
năm. Dế có bản tính hung hăng nhưng lại thích sống theo bầy đàn, môi
trường sống rất đơn giản, không cầu kỳ, có thể ở hang hay trong những


đám cỏ khô nên có thể tổ chức chăn nuôi tập trung được, nhưng phải đảm
bảo việc chăn nuôi chúng phải tương tự như môi trường thiên nhiên
hoang dã.
Dế mèn là côn trùng đặc sản có giá trị kinh tế cao. Nuôi dế làm kinh tế
phù hợp với nhiều người, kể cả những hộ gia đình sống ở khu đô thị vì
nuôi dế không đòi hỏi nhiều diện tích và cũng không gây ô nhiễm môi
trường. Thị trường hiện nay có nhu cầu rất lớn về dế thịt.

II.PHƯƠNG PHÁP NUÔI MỚI CỦA TRANG TRẠI THANH XUÂN
- PHƯƠNG PHÁP TỐI ƯU NHẤT HIỆN NAY

Ban đầu, do áp dụng mô hình cũ nuôi dế bằng xô chậu dùng lồng bàn làm
nắp đậy nên số vốn đầu tư cho dụng cụ nuôi rất lớn, khoảng 50.000
đồng/1 bộ. Kích thước của chậu nhựa rất nhỏ nên chỉ nuôi được khoảng
vài lạng dế/1 chậu. Chưa kể chậu nhựa không hút ẩm được nên hầu hết
các khu chăn nuôi thường cò mùi hôi do lượng phân thải ra bị ẩm mốc
nên phải có khu chăn nuôi riêng. Do phải nuôi rất nhiều chậu nên lán trại
phải rộng, phải làm nhiều kệ gỗ rất tốn kém, công sức bỏ ra nhiều mà
hiệu quả lại không cao. Trước đây, người nuôi dế vẫn thường dùng các
khay nhỏ làm bằng xi măng để đựng nước cho dế uống, khi dế trèo vào
khay uống nước và chúng thải phân vào khay nước nên những con dế
khác uống nước có lẫn phân nên mới gây ra bệnh "Dế bị đi ngoài" mà hầu
hết các nơi nuôi khác thường gặp phải.
Trang trại chúng tôi mất rất nhiều công nghiên cứu về tập tính của con dế
ngoài môi trường tự nhiên con dế chỉ cần gặm nhấm các loại rau cỏ non
hoặc rau cỏ còn đọng lớp sương đêm mà chúng vẫn phát triển tốt. Nhưng
nếu nuôi dế chỉ cho ăn rau cỏ như ngoài tự nhiên thì thời gian trưởng
thành của chúng sẽ kéo dài hơn nhiều nên chúng tôi đã nghiên cứu bổ
sung thêm loại cám có thành phần dinh dưỡng phù hợp với con dế, đó là
loại cám mảnh dành cho gà con ăn, nhưng khi cho dế ăn bà con nên

nghiền nhỏ để dế ăn được cả phần lõi ngô bên trong. Hiện tại thời gian
thu hoạch và trọng lượng của dế đã được cải thiện rất rõ rệt.
Trải qua nhiều năm chăn nuôi, cùng với những tìm tòi sáng tạo TRANG
TRẠI THANH XUÂN đã cải tiến áp dụng phương pháp chăn nuôi và
dụng cụ nuôi mới nhằm giúp cho việc chăn nuôi con dế đạt hiệu quả cao
nhất về số lượng, chất lượng, thời gian chăm sóc cũng như rút ngắn được
rất nhiều thời gian chăn nuôi cho mỗi lứa dế thu hoạch hoặc sinh sản.
Thay vì sử dụng xô chậu, chúng tôi dùng thùng carton, mua lại từ các cơ
sở thu mua giấy vụn với giá từ3.000 - 5.000 đồng/chiếc. Loại thùng này
giúp người nuôi giảm vốn đầu tư dụng cụ. Hơn nữa, số lượng côn trùng
nuôi trong thùng giấy nhiều gấp 10 lần so với chậu. Hoặc thùng gỗ dán áp
dụng cho những hộ chăn nuôi có diện tích rộng và chăn nuôi quy mô lớn.

III.SAU ĐÂY LÀ MỘT SỐ THÔNG TIN BÀ CON CẦN THAM
KHẢO TRƯỚC

1.Phân biệt dế đực, dế cái
Dế đực:
- Cánh màu nâu pha đen, không bóng mượt.
- Bụng nhỏ hơn.
- Không có máng đẻ trứng.
- Kêu để ve vãn dế cái.
Dế cái:
- Cánh màu đen, bóng mượt.
- Bụng to hơn vì bụng dế cái có trứng.
- Không kêu được.
- Có máng đẻ trứng ở phần đuôi, giống cái kim khâu quần áo để cắm
xuống đất đẻ trứng.
Lưu ý: Dế đực dế cái chỉ phân biệt được khi chúng bắt đầu bước vào độ
tuổi sinh sản.

2.Vòng sinh trưởng
Nuôi theo phương pháp cũ:
- Trứng dế vào mùa đông sẽ kéo dài ngày nở nếu không áp dụng theo
phương pháp của TRANG TRẠI THANH XUÂN.
- Thu dế thịt khoảng 45 ngày tuổi, dế con to con nhỏ không đều nhau.
- Dế đẻ khoảng 55 đến 60 ngày tuổi.
Nuôi theo phương pháp của TRANG TRẠI THANH XUÂN:
- Dế mẹ đẻ trứng đã được thụ tinh sau 8 - 10 ngày dế con sẽ nở, tùy từng
loại dế.
- Nuôi dế từ khi mới nở tới khi thu hoạch khoảng 30 đến 35 ngày. Dế rất
đều con, không mất thời gian trong việc thu hoạch lựa con to còn con nhỏ
để lại nuôi tiếp.
- Dế trưởng thành từ 40 ngày trở đi bắt đầu sinh sản.
3.Chuẩn bị dụng cụ nuôi
Trước khi chăn nuôi bà con chuẩn bị các dụng cụ và vật dụng như
sau:
- Khoảng 10 chiếc thùng xốp để nuôi dế con, từ 1 đến 15 ngày tuổi, sau
đó chuẩn bị dần thêm thùng catton (thùng giấy bìa) loại càng to càng tốt.
Nếu bà con muốn nuôi bằng thùng gỗ thì nên chọn những tấm gỗ dán
phẳng có kích thước 60*60cm hoặc 60*120cm. Xin lưu ý bà con nên làm
thùng có độ cao tối đa khoảng 60 đến 70cm để khi chăm sóc, thu hoạch
được thuận tiện. Các thùng nuôi nên làm nắp đậy có gắn lưới sắt tạo ô
thoáng ở giữa.
- Các loại cành là chùm phơi khô, lưu ý khi phơi khô lá không bị rụng
như: cành là nhãn, cành xi, cành ổi, hồng xiêm, cây lạc, cây đỗ tương, cây
ngô, dạ khô, cỏ loại cứng… có chiều dài khoảng 50 - 60cm. Tùy theo
từng vùng miền mà bà con có thể tận dụng những vật liệu sẵn có để chăn
nuôi.
- Băng dính loại bản to 5cm để dán các cạnh dưới đáy thùng catton và
đường ngang phía bên trong gần sát phía trên miệng tất cả các thùng nuôi

dế.
- Đĩa nhựa có độ cao khoảng 2 - 3cm cho dế đẻ.
4.Thức ăn cho dế
- Các bạn có thể tận dụng nhiều loại rau, cỏ, củ, quả như: cỏ non, bắp cải,
bèo, lá rau khoai lang, lá sắn, lá đu đủ, rau muống, cùi dưa hấu, dưa
chuột tất cả các rau, cỏ cho dế ăn đều phải được rửa sạch, không có
thuốc bảo vệ thực vật đảm bảo vệ sinh cho dế ăn.
- Ngoài ra bà con có thể cho dế ăn bổ xung các loại cám đã nghiền mịn.
Thường trang trại tôi cho ăn loại cám dành cho gà con ăn vì các hàm
lượng các thành phần như: đạm, canxi, muối, tinh bột, các vitamin…
thích hợp nhất đối với con dế.
5.Cách chọn mua dế giống
Tùy theo sự lựa chọn mà bà con có thể đặt mua:
- Dế sắp đẻ.
- Dế nhỡ.
- Dế con.
- Khay trứng dế: khay trứng loại to, kích cỡ phù hợp cho dế mẹ dế dàng
leo lên khay đẻ trứng nên sẽ thu hoạch được triệt để lượng trứng. Các
khay trứng được đặt hàng thiết kế riêng để thuận tiện trong việc vận
chuyển với số lượng lớn các khay trứng mà vẫn đảm bảo an toàn tuyệt
đối cho trứng.
6.Cách nhận biết dế bước vào thời kỳ sinh sản
- Một thùng dế đẻ tối thiểu từ 500 con trở nên mới đảm bảo cho trứng
được thụ tinh 100%. Hiện TRANG TRẠI THANH XUÂN lúc nào cũng
đảm bảo mật độ dế đẻ khoảng gần chục nghìn con tương đương gần 10kg
dế bố mẹ/1thùng đẻ nên lượng trứng thu được sẽ nở 100%.
- Khi dế mọc cánh chùm lưng (dế đực bắt đầu gáy) đó là khoảng thời gian
chúng bắt đầu bước vào giai đoạn giao phối khoảng 5 hôm sau chúng bắt
đầu đẻ. Lúc đó bà con cho khay cát ẩm vào thùng cho dế đẻ.
- Dế đẻ liên tục đến khi rạc thì chết thường từ 15 đến 30 ngày.

7.Cách ấp trứng
- Sau khi thu hoạch trứng bà con lấy các khay trứng ra kiểm tra độ ẩm của
trứng rồi cho vào thùng xốp đậy kín. Thùng xốp có tác dụng giữ nhiệt,
giữ độ ẩm rất tốt nên không cần xịt nước. Làm theo cách cũ bà con mới
nuôi chưa có nhiều kinh nghiệm nếu lạm dụng xịt nước liên tục nước sẽ
bị ứ đọng dưới đáy khay trứng nên trứng rất dế bị ung.
- Nhiệt độ thích hợp cho trứng khoảng 35
o
C trứng sẽ nở sau 8 ngày hoặc
10 ngày tùy từng loại dế (dế đen hay dế trắng vàng, trắng nâu).
- Bà con nên ghi ngày tháng dế đẻ lên khay trứng, hoặc quan sát ở một
đầu quả trứng có 2 mắt màu đỏ sẫm là trứng chuẩn bị nở. Lúc đó bà con
đưa các khay trứng đó ra thùng nuôi riêng.
- Tùy theo kích thước thùng nuôi to hay nhỏ bà con để số lượng nhiều
hay ít các khay trứng dế sắp nở vào thùng nuôi nhằm đảm bảo mật độ cho
dế con phát triển. Các khay trứng được lấy ra cùng một thời điểm (đẻ
cùng một ngày) nên cho vào cùng một thùng nuôi nhằm tạo được sự đồng
đều cho dế mèn và rất thuận tiện cho việc thu hoạch dế thịt sau này.
8.Nuôi dế từ mới nở đến 15 ngày tuổi
- Nuôi bằng thùng xốp vì dế con có kích thước nhỏ nên nuôi bằng thùng
xốp không phải dán dưới đáy như thùng catton.
9.Cách nuôi dế từ 15 đến 45 ngày tuổi
- Lúc này dế đã có kích thước lớn nên bà con nuôi bằng thùng catton,
thùng gỗ là tốt nhất.
10.Thu hoạch dế đông lạnh
- Làm thịt dế trước khi dế mọc cánh, thường tù 30 dến 35 ngày tuổi, vì
lúc này trọng lượng dế lớn nhất, béo nhất, thu hoạch lúc này các bạn sẽ có
sản phẩm thịt dế chất lượng nhất.
- Khi dế bắt đầu mọc cánh khoảng 2 ly cho nhịn đói 2 ngày rồi vợt vào
chậu nước muối pha loãng 5% (có để sẵn lồng bàn bên trong chậu), ngâm

qua rồi cầm lồng bàn nhấc ra ngoài để ráo nước rồi đóng vào từng bịch
nilon 1 lạng một. Sau đó, chúng ta cho vào hộp nhựa (loại 0,5kg/1hộp)
đậy nắp cho vào cấp đông để được 3 tháng.
11.Thu hoạch dế sống
- Thu dế sống: để thuận tiện cho những hộ nuôi không dùng tủ lạnh, hoặc
tủ đông. TRANG TRẠI THANH XUÂN thu mua dế còn sống, bà con
dùng thùng catton, hoặc thùng xốp cho đầy chặt cành lá khô vào rồi dán
kín đục lỗ bằng mũi kéo trên các mặt thùng, trên mặt cắt 1 cái nắp nhỏ
hình vuông. Bà con đổ dế vào thùng dán nắp lại rồi chuyển tới Trang Trại
hoặc nếu ở xa bà con chỉ cần gửi tới các bến xe tại Hà nội và Nam định,
Trang Trại có đội ngũ nhận hàng và giao hàng chuyên nghiệp cho bà con
ở xa nên rất thuận tiện và an toàn.

IV.NHỮNG LỢI ÍCH CỦA VIỆC NUÔI DẾ

- Ngâm rượu uống rất thơm ngon và bổ dưỡng.
- Chế biến các món ăn đặc sản cao cấp ngon và bổ dưỡng, đặc biệt tốt cho
sự phát triển của cơ thể và trí não của người lớn và trẻ em do có các
khoáng chất và nhiều loại vitamin…
- Làm thuốc chữa các bệnh sỏi thận, tiểu đêm, đái rắt, đái són, cổ trướng,
thở dốc, tiêu hóa
- Hàng năm con dế còn làm nguồn thức ăn rất lớn cho: chim cảnh, cá
cảnh, tắc kè, bọ cạp, kỳ tôm, ếch, gà, và rất nhiều vật nuôi khác, mang lại
lợi nhuận khá cao cho người chăn nuôi.

V.TÁC DỤNG CỦA TỪNG LOẠI DỤNG CỤ CHĂN NUÔI

1.Thùng xốp
- Dùng để nuôi dế nhỏ từ 1 đến 10 hoặc 15 ngày, vì thùng xốp có đáy kín
nên nuôi dế con rất thuận tiện chỉ cần dán một đường băng dính phía trên

miệng là được. Vì lúc này dế còn rất nhỏ nên lượng phân thải rất ít nên
thời gian này nuôi bằng thùng xốp cũng không cần dọn vệ sinh.
- Bề mặt của thùng xốp có độ nhám cao nếu nuôi dế to chúng gặm nhấm
khỏe nên thùng dễ bị thủng, gây thất thoát và độc hại cho dế.
- Mặt khác thùng xốp cũng giống như chậu nhựa không hút ẩm được, nếu
bà con nuôi dế lớn phải dọn vệ sinh thường xuyên, khi môi trường sống
của dế bị tác động nhiều nên tạo ra những tác động không tốt như: dế bị
gãy càng, rụng dâu, nếu vào thời tiết lạnh sẽ ảnh hưởng rất xấu tới con dế.
2.Thùng catton
Nuôi rất tốt, mua rất rẻ, hút ẩm tốt, không có mùi, dế khỏe mạnh, nuôi
được số lượng lớn khoảng 1kg đến 2kg/ thùng 60cm*60cm. Tiện lợi cho
cả những hộ có diện tích chật hẹp, khoảng 15 - 20m vuông là có thể nuôi
được, khoảng vài lứa mới phải thay thùng 1 lần.
3.Thùng lưới
Có thể áp dụng thùng lưới vào mùa hè.
4.Thùng gỗ
Sau khi nuôi lứa đầu bằng thùng catton nếu người nuôi muốn phát triển
với quy mô lớn hơn có thể dùng thùng gỗ để nuôi vì thùng gỗ được ghép
bằng những tấm gỗ dán có kích thước lớn:
- Thùng 60cm* 1,2m nuôi được khoảng 5kg dế thịt, khoảng 20 nghìn con
dế nhỏ từ 1 đến 10 ngày tuổi.
- Thùng 1,2m* 1,2m nuôi được khoảng 10kg dế thịt, khoảng 40 nghìn
con dế nhỏ từ 1 đến 10 ngày tuổi.
Nuôi bằng thùng gỗ chỉ đầu tư 1 lần trong nhiều năm, vì nuôi bằng thùng
lớn nên người nuôi cũng đỡ công chăm sóc thay vì chăm sóc nhiều thùng
loại nhỏ giờ chúng ta chỉ phải chăm 1 thùng lớn mà số lượng dế lại thu
được nhiều hơn, mặt khác cũng tiết kiệm diện tích, thời gian, và chi phí.

VI.NHỮNG LỢI ÍCH KHI ÁP DỤNG NUÔI THEO PHƯƠNG PHÁP
MỚI


- Nuôi qua mùa đông.
- Dế không ăn thịt lẫn nhau.
- Tiết kiệm rất nhiều diện tích
- Nuôi đươc số lượng dế lớn.
- Không cần cho dế uống nước.
- Không cần vệ sinh dụng cụ nuôi.
- Giảm bớt thời gian, công sức chăm sóc.
- Không cần xịt nước trong quá trình ấp trứng.
- Rút ngắn thời gian chăn nuôi so với phương pháp cũ khoảng 10 đến 15
ngày.
- Giảm bớt đầu tư dụng cụ nuôi (Ví dụ: Từ 6 triệu đồng khi mua thùng
nhựa, chậu nhựa giảm xuống còn2 trăm nghìn đồng khi mua thùng giấy).

VII. XIN LƯU Ý
Phương pháp mới này do trực tiếp chủ trang trại nghiên cứu tìm tòi áp
dụng trong nhiều năm, nhằm tạo cho con dế một môi trường gần giống
ngoài tự nhiên. Và việc chăm sóc như thế nào cho phù hợp với tập tính
của chúng để chúng phát triển tốt và mang lại lợi nhuận cao nhất cho
người nuôi. Cho đến nay phương pháp này là tối ưu nhất để chăn nuôi
con dế thành công.
Khi bà con chăn nuôi chúng tôi sẽ cung cấp tài liệu chi tiết và kinh
nghiệm thực tế trong quá trình chăn nuôi của phương pháp nuôi mới tới
bà con đảm bảo chăn nuôi con dế thành công. Tài liệu này chúng tôi biên
soạn rất chi tiết và đầy đủ nhất, để đảm bảo tính bản quyền nên chúng tôi
xin cung cấp trưc tiếp khi bà con mua giống.
Cơ sở 1: 119 TAM TRINH - MAI ĐỘNG - HOÀNG MAI - HÀ NỘI.
LH: Mrs XUÂN - ĐT: 097.487.0000 - 0168.995.8888
Cơ sở 2: THÔN HÓP - XÃ MỸ PHÚC - HUYỆN MỸ LỘC - NAM
ĐỊNH.

LH: BÁC MẠC - ĐT: 0945.370.300
I.GIỚI THIỆU:

Tắc kè có tên khoa học là Gekko gecko, tắc kè là nguồn dược liệu quý
hiếm, có giá trị kinh tế cao, nhưng hiện nay nguồn tắc kè trong thiên
nhiên ngày càng cạn kiệt, nên việc phát triển nuôi tắc kè tại hộ gia đình
mang lại nhiều lợi ích và rất cần thiết.
Tắc kè hay còn gọi là ĐẠI BÍCH HỔ hay CÁP GIẢI, thuộc lớp động vật
bò sát, bộ có vảy. Màu sắc của tắc kè thay đổi theo màu sắc của nôi
trường sống để ngụy trang che dấu kẻ thù ăn thịt. Hiện nay tắc kè được
dùng để ngâm các loại rượu truyền thống, làm thuốc chữa bệnh trong y
học, ngoài ra còn được dùng để chế biến các món ăn đặc sản rất bổ
dưỡng.
TẮC KÈ là loại dược liệu quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Theo y học
dân tộc tắc kè là một vị thuốc bổ có tác dụng làm giảm mệt mỏi, suy
nhược cơ thể, chữa nhiều chứng ho kho trị, ho ra máu, hen suyễn, đái
rắt ,đái són, đau xương, tráng dương bổ thận rất hiệu quả. Trong các bài
thuốc nam tắc kè được dùng ngâm rượu hoặc sấy khô tán thành bột để
uống. Theo các kết quả phân tích cho thấy thân và đặc biệt là đuôi tắc kè
có chứa rất nhiều axit amin và các chất béo có tác dụng kích thích sự hoạt
động của hệ thần kinh, tăng sức khỏe con người. (Trích bài của KS
ĐẶNG TỊNH)
Với những giá trị về dược liệu, thực phẩm, sinh vật cảnh và là nguồn
hàng xuất khẩu có giá trị cao sang các thị trường trên thế giới, hiện tắc kè
đã được nhân nuôi ở một số nước trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ,
Thái Lan…
Ở Việt Nam, việc nuôi tắc kè đã được giáo sư: Đỗ Tất Lợi đề cập đến từ
rất lâu nhưng đến nay tắc kè chỉ được nhân nuôi một cách tự phát ở một
số địa phương. Không những vậy, nguồn giống sử dụng chủ yếu được
bẫy bắt trong tự nhiên, các tài liệu hỗ trợ khiến thức về đặc điểm sinh

học, sinh thái, tập tính và kỹ thuật chăn nuôi còn thiếu. Kỹ thuật chăn
nuôi chưa hoàn thiện đã hạn chế sự phát triển của nghề nhân nuôi tắc kè,
các tài liệu đã xuất bản chỉ hướng dẫn theo hình thức bán hoang dã do
thức ăn cho tắc kè chưa chủ động nuôi được như hiện nay, nguồn thức ăn
chủ yếu do tắc kè tự bắt ở ngoài tự nhiên, lúc có lúc không nên chúng
phát triển rất chậm. không thích hợp cho chăn nuôi với quy mô sản xuất
hàng hóa.
Bên cạnh đó, hàng năm thị trường thế giới cần cung cấp số lượng lớn tắc
kè như Đông Á, Tây Âu, Bắc Mỹ…Theo dự kiến, nhu cầu xuất khẩu tắc
kè lên tới hàng triệu con trên một năm. Vì vậy, chăn nuôi tắc kè không
những mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn góp phần hạn chế suy giảm
tắc kè ngoài tự nhiên, góp phần bảo vệ đa dạng sinh học
Nhận thấy được ý nghĩa to lớn về việc phát triển nghề nhân nuôi tắc kè và
đa dạng hóa động vật nuôi tại đất nước mình là việc làm rất cần thiết,
Trang Trại Thanh Xuân đã nghiên cứu tìm hiểu các đặc điểm sinh học,
sinh thái, phòng tránh bệnh tật, nhân giống, và đặc biệt là chủ động được
nguồn thức ăn ưa thích cho tắc kè đó là con dế mặt khác nuôi dế rất dễ,
tốn ít chi phí, sinh sản rất nhanh chúng vừa làm nguồn thức ăn chính cho
tắc kè vừa là mặt hàng bán rất chạy trên thị trường. Chúng tôi xây dựng
tài liệu hoàn thiện nhất về: Kỹ thuật nhân nuôi tắc kè thương phẩm quy
mô hộ gia đình là cẩm nang cho người chăn nuôi.
Để nuôi tắc kè đạt năng năng suất, chất lượng tốt bà con cần nắm vững
một số đặc điểm môi trường sống, đặc tính sinh học, sinh trưởng của tắc
kè làm cơ sở cho việc áp dụng kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng một cách
thích hợp.
II.ĐẶC ĐIỂM :

Tắc kè có hình dáng giống thạch sùng, cá thể trưởng thành có thân dài
khoảng 15cm, dài đuôi khoảng 12cm, con đực có kích thước lớn hơn con
cái. Đầu bẹp ba cạnh, màu xám nhạt hay xám vàng. Lưng màu xám, có

nhiều hoa vàng sáng, nhiều nốt sần lớn. Bụng trắng xám. Đuôi có 6 - 9
khúc xám xen 6 – 9 khúc vàng hoặc trắng. Đuôi tắc kè dễ đứt nhưng có
thể mọc lại được. Mắt màu nâu hoặc vàng cam, mí mắt có màng trong
suốt, con ngươi cử động dọc. Tắc kè có thể thay đổi màu sắc tùy thuộc
theo màu nền của môi trường sống. Chân tắc kè có năm ngón, các ngón
có vuốt trừ một ngón không có, tất cả các ngón đều có giác bám ( nút
chân không)
III.TẬP TÍNH VÀ SINH TRƯỞNG:

Tắc kè có tên trong y học cổ truyền là cáp giới. Các vùng nông thôn
Việt Nam, nhiều gia đình đã nuôi tắc kè, nó ở trong các hốc cây, cột nhà
hoặc nằm ở dưới các lớp ngói âm dương.
Tắc kè hoạt động săn mồi về ban đêm là chủ yếu, nó ăn sâu bọ, gián,
muỗi, ruồi, nhện và các loài bọ cánh cứng khác. Mùa đông, khi nhiệt độ
xuống dưới 20oC thì tắc kè ngủ đông. Mùa xuân về, thời tiết ấm áp,
những tiếng kêu: “tắc kè, tắc kè… è” là tiếng gọi bạn tình trong mùa động
dục.
Da tắc kè có nhiều màu óng ánh luôn thay đổi theo môi trường với mực
đích ngụy trang để trốn tránh kẻ thù. Nếu khi bắt được tắc kè mà túm lấy
đuôi nó, lập tức đuôi sẽ đứt lìa giúp cho tắc kè chạy thoát. Tắc kè cũng
giống như con thằn lằn, đứt đuôi là hình thức tự vệ và nó sẽ tái sinh đuôi
khác. Tắc kè thuộc họ bò sát nhưng không có nọc độc.
Tuổi thọ của tắc kè lên tới ngoài chục năm nhưng khi tắc kè được 6 đến 7
tháng tuổi đạt trọng lượng khoảng 80g trở lên thì chúng đã bắt đầu đẻ
trứng, một tháng đẻ một lần mỗi lần đẻ từ 2 đến 5 trứng. Chúng đẻ liên
tục trong nhiều năm, trứng bám vào vách tường hoặc thân cây sau 2 đến 3
tháng thì nở. Tắc kè con thường sống chung tổ với bố mẹ, chúng chỉ đi
tìm tổ mới khi tổ cũ đã quá đông các thành viên.

IV.PHÂN BIỆT CON ĐỰC, CON CÁI:


Cầm con tắc kè ngửa bụng, giữ cho tư thế nằm yên và thẳng, xem các dấu
hiệu sau:
- Con đực gốc đuôi phồng to, lỗ huyệt lồi có gờ cao, còn con cái gốc đuôi
thon, lỗ huyệt lép hơn.
- Dưới lỗ huyệt có hai chấm gọi là chấm dưới huyệt, ở con đực chấm
dưới huyệt to như hạt gạo, lồi và rất đen, còn con cái mờ và lép.
- Dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái bóp vào chỗ phồng to của gốc đuôi,
nếu là con đực thì có gai giao cấu lòi ra mầu đỏ thẫm, con cái không có.
- Tắc kè đực ở mặt trong đùi có một hàng lỗ tạo thành hình chữ V ngược
gọi là hàng lỗ trước huyệt, con cái không nổi rõ

V.THỨC ĂN:

Tắc kè ăn các loại côn trùng còn sống như: dế mèn, gián, châu chấu, trùn
quế, sâu, mối, nhện

VI. CÁCH LÀM CHUỒNG NUÔI:

Căn cứ vào tập tính sinh hoạt, đặc biệt là tập tính thích sống ở một hang
tổ quen thuộc trên thân cây, không ưa rời chỗ ở cũ chuyển đến nơi ở
khác, nên ta đã nuôi được tắc kè trong chuồng nuôi theo cách sau đây:
- Nguyên vật liệu làm chuồng: Gạch, xi măng, cát, gỗ, lưới inox hoặc lưới
sắt, ống tre nứa, ke sắt, đinh, thân cây gỗ, vải tối màu.
- Kích thước chuồng: Chiều cao cố định: 2m đến 2,2m. Chiều rộng: 1,2m
đến 1,5m. Chiều dài tùy theo diện tích của từng hộ gia đình và số lượng
tắc kè nuôi, nên làm dài tối thiểu 3m tối đa 10m. Cứ 1m2 nền nuôi
khoảng 30 đến 50 con tắc kè đẻ, khoảng 50 đến 100 con tắc kè con.
- 1 hoặc 2 mặt chuồng là tường gạch thô để giữ ấm vào mùa đông và giữ
ẩm vào mùa hè, 2 hoặc 3 mặt còn lại là lưới.

- Làm cửa ra vào cao trên đầu người để người nuôi tiện ra vào.
- Từ mặt nền xây tường gạch thô cao lên khoảng 50cm để khi rọn rửa
chuồng không làm rỉ lưới.
- Phía trên tường quây bằng lưới inox hoặc lưới sắt, đường kính mắt lưới
0,3cm.
- Làm khe hở sát nền dài 20cm - cao 1cm, khe hở này chỉ đủ cho phân tắc
kè thoát ra khi rửa chuồng mà con tắc kè không chui ra được. Sau khi rửa
chuồng xong đặt vài viên gạch che kín khe hở đó lại tránh các tác động từ
bên ngoài.
- Nền láng xi măng hoặc lát gạch.
- Bên trong chuồng nuôi treo dọc các ống tre nứa loại to thông hai đầu
cho chúng chui rúc và đẻ trứng, treo phía trên cao, tầng trên treo so le với
tầng dưới để phân không rơi vào các ống tre phía dưới.
- Làm hộc gỗ: Dùng 3 miếng gỗ có độ dài 25cm, cao 7cm dùng đinh cố
định chúng lại làm thành cái hộc 3 cạnh tương ứng với chiều dài của con
tắc kè.
- Tác dụng của hộc gỗ: Cho chúng đẻ trứng và nghỉ ngơi vì không phải
lúc nào chúng cũng bám trên tường.
- Làm kệ gỗ: Dùng 2 cái ke sắt hình tam giác vuông bắn vít vào khung gỗ
của mặt trong cùng chuồng nuôi, gác 2 thanh gỗ dài lên 2 cái ke chiều
ngang cách nhau khoảng 18cm. Buộc hoặc bắt vít chặt 2 đầu thanh gỗ
vào ke sắt, rồi xếp các hộc gỗ lên thành nhiều tầng.
- Mùa hè: Đóng đinh, căng vải mỏng tối màu (màu xanh lá cây) cao
khoảng 50 – 60cm chạy theo chiều ngang phía trên cao cách tường 3cm
tạo độ tối đảm bảo cho tập tính ưa bóng tối của chúng mặt khác những
tấm vải này cũng rất hữu ích trong việc giữ ẩm và mát mẻ cho chúng vào
những ngày thời tiết nóng nực hoặc hanh khô. Một trong những bí quyết
giúp cho việc chăn nuôi con tắc kè mau lớn và khỏe mạnh, bà con sẽ
được Trang Trại phổ biến kỹ lưỡng khi mua con giống.
- Mùa đông: Treo chăn ấm, quần áo ấm vào bên trong chuồng và quây kín

toàn bộ phía bên ngoài chuồng nuôi bằng bạt để giữ ấm cho chúng.
Sau đó chúng ta chọn những con tắc kè khỏe mạnh gần đến độ tuổi sinh
sản thả vào chuồng để nuôi.
- Nên cho thêm các cây gỗ loại to vào chuồng cho chúng trèo leo bắt mồi
tạo cho chúng môi trường giống như ngoài thiên nhiên.
Sau đó chúng ta chọn những con tắc kè khỏe mạnh gần đến độ tuổi sinh
sản thả vào chuồng để nuôi.

VII.CÁCH NUÔI:

- Đối với tắc kè bố mẹ: Bên trong chuồng cho thêm nhiều ống tre nứa loại
to, dài khoảng 25cm cho chúng đẻ trứng. Mật độ: 30 đến 50 con/1m2
nền.
- Đối với tắc kè con: Chỉ cần cho quần áo, chăn mền cũ, thân cây to là
được. Mật độ: 50 đến 100 con/1m2 nền.
- Gác máng tre hoặc đặt các khay nước vào trong chuồng cho tắc kè uống
nước.
Phương pháp mới này do trực tiếp chủ Trang Trại nghiên cứu tìm tòi áp
dụng trong nhiều năm, nhằm tạo cho chúng sinh sản và phát triển nhanh
hơn rất nhiều so với môi trường ngoài tự nhiên, vì ngoài môi trường tự
nhiên không phải khi nào cũng có đầy đủ lượng thức ăn cho chúng. Và
việc chăm sóc như thế nào cho phù hợp với tập tính của chúng để chúng
phát triển tốt và mang lại lợi nhuận cao nhất cho người nuôi. Cho đến nay
phương pháp này là tối ưu nhất để chăn nuôi con tắc kè thành công.
- Để đảm bảo tính bản quyền, khi bà con mua giống chúng tôi sẽ cung
cấp tất cả các tài liệu chi tiết, hướng dẫn kỹ thuật nuôi và kinh nghiệm
thực tế trong quá trình chăn nuôi cho bà con. Tài liệu này chúng tôi biên
soạn rất chi tiết và đầy đủ nhất đảm bảo chăn nuôi thành công.
- Xin lưu ý: Loài tắc kè hoa mà TRANG TRẠI THANH XUÂN nhân
nuôi theo mô hình chăn nuôi tập trung với số lượng lớn đã được thuần

chủng mới sinh sản và phát triển tốt nhất.

VIII.CÔNG DỤNG:

Theo sách: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GSTS Đỗ Tất Lợi
có đoạn viết “Thịt tắc kè vị mặn, tính ôn, có tác dụng làm giảm mệt mỏi,
cơ thể suy nhược, chữa nhiều chứng ho khó trị rất hiệu quả, tráng dương
bổ thận, tăng cường sinh lực, trẻ em còi xương, suy dinh dưỡng, hen
suyễn, người già đau lưng, đau khớp " Còn theo nhiều sách y học cổ
truyền, thịt tắc kè, rượu và thuốc bào chế từ con tắc kè có tác dụng trợ
dương, ích âm, trị ho lâu, ho ra máu. Từ giá trị bổ dưỡng đó trong dân
gian nhiều người đã coi tắc kè là một con vật quý hiếm, người dùng
thường xuyên có thể nâng cao sức khỏe, tăng cường sự dẻo dai. Các kết
quả phân tích cho thấy thân và đặc biệt là đuôi của nó có chứa nhiều axít
amin và các chất béo có tác động kích thích sự hoạt động của hệ thần
kinh, tăng cường sức khoẻ cho con người…

IX .CÁCH CHẾ BIẾN:

Tắc kè sau khi bắt về nếu muốn dùng tươi thì chặt bỏ đầu và bốn bàn
chân. Dùng dao khứa dọc sống lưng, lột da, mổ bụng bỏ ruột, chặt thành
từng miếng đem ướp gia vị: Nước mắm, gừng tươi rồi đem nấu cháo.
Hoặc sau khi làm thịt tắc kè xong, rửa sạch để ráo nước, tẩm nước gừng
rồi sấy khô, tán thành bột. Bột tắc kè có thể trộn mật ong, làm thành viên
để để dùng dần
Muốn bảo quản tắc kè được lâu, nhất là tắc kè thương phẩm, cần chế biến
tắc kè khô như sau: Đặt tắc kè nằm ngửa trên một miếng gỗ phẳng, đóng
đinh ghim bốn bàn chân vào mặt gỗ, dùng dao sắc rạch một đường từ cổ
cho đến đuôi, moi bỏ ruột, lau sạch máu và nhớt. Dùng hai que to, một
que xiên ngang căng hai chân trước. Que nữa xuyên ngang căng hai chân

sau. Dùng tiếp hai que ngắn và mềm hơn đặt chéo trong lòng bụng để
căng cho phẳng. Cuối cùng dùng một que dài xuyên từ đầu xuống tận
đuôi.
Cắt giấy bản thành từng giải quấ n chặt đuôi vào que để khỏi bị đứt hoặc
gãy, vì đuôi tắc kè vốn được coi là phần quý nhất. Sau khi đã xử lí xong
đem phơi khô hoặc sấy khô. Dược liệu sau khi đã được sấy khô có hình
dẹt phẳng. Đầu, đuôi, chân đều được căng trên một mặt phẳng. Lúc này,
mắt tắc kè khô lõm xuống, miệng hơi há có hàm răng nhỏ, lưng có màu
đen xám, sống lưng nhô rõ, toàn thân dược liệu có những hàng vảy nhỏ…

.GIỚI THIỆU

Bọ cạp là giống động vật không xương sống, tám chân thuộc lớp
động vật hình nhện, Bọ cạp giống nhện, ve, bét
Thân bọ cạp chia làm hai phần: phần đầu ngực (đốt thân trước)
và phần bụng (vùng thân sau). Phần bụng bao gồm phần bụng
dưới và đuôi:
- Phần đầu ngực/Đốt thân trước: bao gồm lớp giáp, mắt, chân
kìm (một phần của miệng), chân kìm sờ và 8 chân.
- Phần bụng dưới: chia làm 8 đoạn: đoạn đầu tiên chứa cơ quan
sinh dục và dấu vết của một bộ phận phụ nay đã bị tiêu giảm gọi
là nắp sinh dục. Đoạn thứ hai là 1 cặp cơ quan cảm giác giống
như chất Pectine. Bốn đoạn còn lại bao gồm hai lá phổi. Phần
bụng dưới được bọc giáp bằng chất sừng.
- Phần đuôi: gồm 6 đốt (đốt đầu tiên như đốt bụng cuối cùng).
Hậu môn của bọ cạp nằm ở đốt cuối cùng, đồng thời đốt này
mang nọc độc. Đốt cuối lần lượt gồm một túi chứa, một cặp tuyến
độc và một mũi tiêm nọc độc.
- Giáp: bao quanh cơ thể, một số chỗ có lông làm cơ quan cân
bằng. Một lớp phủ ngoài giáp vốn trong suốt sẽ biến thành màu

xanh lục huỳnh quang dưới tia tử ngoại. Những con bọ cạp mới lột
xác sẽ không phát sáng cho tới khi lớp giáp nó cứng cáp. Lớp phủ
đó có thể không bị sứt mẻ trong hóa thạch suốt hàng trăm triệu
năm.
Bọ cạp được tìm thấy trong nhiều hóa thạch có độ tuổi khoảng
425 - 450 triệu năm. Có lẽ chúng có nguồn gốc từ đại dương, có
mang cá và vuốt để bám lên đá hoặc tảo biển.
- Phân biệt: con cái thì càng và đuôi nhỏ hơn con đực, con cái
bụng bự có kích thước to hơn con đực, con đực mình dẹp nhỏ con
hơn con cái.

II.NỌC ĐỘC

Ngoài ngoại lệ là loài Hemiscorpius lepturus có nọc độc hoại tế
bào, tất cả các loài bọ cạp khác đều có độc làm hủy thần kinh.
Những độc tố ảnh hưởng đến thần kinh này chứa một lượng nhỏ
protein, natri và cation kali. Bọ cạp dùng nọc độc của nó để giết
hoặc làm tê liệt con mồi, hành động này khá nhanh và hiệu quả.
Thật may mắn là nọc độc của đa số loài bọ cạp vô hại đối với con
người, tuy nhiên nó có thể gây ra các phản ứng khác như đau, tê
cứng hay sưng phồng. Một vài loài bọ cạp, chủ yếu trong họ
Buthidae có thể gây nguy hiểm tới con người. Những loài bọ cạp
nguy hiểm nhất là Leiurus quinquestriatus - có nọc độc mạnh nhất
trong họ Buthidae, và các loài trong chi Parabuthus, Tityus,
Centruroides, đặc biệt là Androctonus - cũng có nọc độc mạnh.
Loài bọ cạp giết người nhiều nhất là Androctonus australis, hoặc
loài bọ cạp đuôi béo Bắc Phi.
Nọc độc của Androctonus australis chỉ bằng một nửa so với
Leiurus quinquestriatus, nhưng người bị nó chích có thể chết. Bọ
cạp thật ra không đủ nọc để giết chết một người trưởng thành

khỏe mạnh. Một vài người bị dị ứng với bọ cạp có thể chết nhanh
hơn. Triệu chứng đơn giản nhất sau khi bị bọ cạp chích là chỗ đau
tê cứng trong vài ngày. Bọ cạp nói chung khá nhút nhát và vô hại,
chúng chỉ chích khi bắt mồi hay tự vệ. Trong trường hợp nguy
hiểm, bọ cạp thường bỏ chạy hoặc đứng yên.
Bọ cạp có khả năng điều chỉnh lượng nọc chích, thông thường 0,1-
0,6 mg. Đó cũng là một gợi ý về giả thiết bọ cạp để dành nọc độc
của mình trong những trận giao tranh khác. Bọ cạp có hai loại
nọc: loại nhẹ chỉ làm đối phương choáng váng và loại mạnh đủ để
giết chết kẻ thù. Có lẽ bọ cạp mất khá nhiều năng lượng cho loại
độc này đến nỗi nó phải mất vài ngày mới hồi phục sau khi dùng
hết số độc có sẵn.
Đối với loại bọ cạp xanh và bọ cạp đen (bọ cạp đất) mà Trang
Trại THANH XUÂN đang nuôi thì lượng nọc độc tuyệt đối không
gây nghuy hiểm đối với tính mạng con người. Nhưng khi chăn nuôi
bà con cũng nên làm chuồng trại cẩn thận, tránh xa tầm tay của
trẻ nhỏ.

III.GIAO CẤU

Bọ cạp có khả năng tự tái tạo, mỗi loài bọ cạp đều có con đực và
cái riêng biệt. Bọ cạp sinh sản bằng cách chuyển bào tinh từ con
đực qua con cái.
Đầu tiên bọ cạp đực giữ lấy các chân kìm sờ của con cái rồi bắt
đầu một điệu nhảy. Trên thực tế, con đực đang dẫn dắt con cái
tìm nơi để đặt túi bào tinh của nó. Nghi thức này còn có thể bao
gồm thêm vài hành động khác như rung mạnh hoặc hôn vào chân
kìm của con cái (đôi lúc con đực bơm một ít nọc độc của nó vào
người con cái), tất cả những hành động trên là để làm yên lòng
con cái.

Khi tìm được nơi thích hợp, bọ cạp đực đặt túi bào tinh và hướng
dẫn con cái giữ lấy nó. Con cái sẽ đưa túi bào tinh vào trong nắp
sinh dục của mình, bào tinh sẽ vỡ ra đưa tinh trùng vào người con
cái. Việc giao cấu có thể mất từ 1 đến hơn 25 giờ tùy thuộc vào
khả năng của bọ cạp đực tìm thấy nơi đặt túi tinh của nó nhanh
hay chậm. Nếu quá chậm, con cái có thể mất kiên nhẫn và bỏ đi.
Một khi giao cấu xong, chúng sẽ tách nhau ra. Con đực sẽ rút lui
thật nhanh chóng để phòng trường hợp bị bạn tình của mình ăn
sống, mặc dù tục ăn sống này hiếm khi xảy ra ở bọ cạp.

IV.SINH SẢN VÀ PHÁT TRIỂN

Bọ cạp mang con trên lưng
- Con bọ cạp mới đẻ nuôi đến 2 tháng và 2 tuần là xuất thịt
thương phẩm được.
- Một kg bọ cap có trung bình 60 - 110 con.
- Một con bọ cạp sống từ 4 – 40 năm, nhưng chỉ trong thời gian 6
– 7 tháng đủ để bọ cạp con lớn lên và trưởng thành. Lúc này, nó
có thể giao phối và sinh sản. Nó đẻ khoảng từ 15 đến 30 con.
Khoảng cách giữa những lần bọ cạp đẻ có sự khác nhau: nửa
tháng hay một tháng, tuỳ con.
- Không giống các loài thuộc lớp Nhện, bọ cạp đẻ con. Bọ cạp
được sinh ra từng con một và bám trên lưng mẹ cho tới khi chúng
trải qua ít nhất một kỳ lột xác. Trước kỳ lột xác đầu tiên, bọ cạp
con không thể sống sót nếu không phụ thuộc vào mẹ chúng.
- Bọ cạp con khá giống ba mẹ chúng. Chúng lớn lên bằng cách lột
xác, sau 5 - 7 lần lột xác, bọ cạp mới trưởng thành. Việc lột xác
bắt đầu bởi lớp xương trong, khi lớp giáp ở mép đốt thân trước bị
nứt. Những chân kìm sờ và chân của chúng sẽ được lột xác đầu
tiên, sau đó là phần bụng. Khi lột xác xong, lớp giáp của chúng rất

mềm và sẽ bị tổn thương nếu có sự tấn công. Quá trình làm cứng
lại lớp giáp này gọi là sự xơ cứng. Bộ giáp ngoài mới đầu không có
màu, nhưng khi nó trở nên cứng cáp ta sẽ thấy nó có màu huỳnh
quang.

V.ĐỜI SỐNG VÀ TẬP TÍNH

Tuổi thọ tối đa của bọ cạp vẫn chưa được xác định. Chúng có thể
sống tối thiểu 4 năm và tối đa là 40 năm (loài H. arizonensis).
Bọ cạp thích sống ở nơi có nhiệt độ khoảng 20 đến 37
0
C (68 –
99
0
F) nhưng giới hạn chịu đựng khoảng 14 – 45
0
C (57 - 113
0
F).
Bọ cạp là động vật về đêm và hay đào bới, chúng đào hang suốt
ngày để tìm nơi trú ẩn mát mẻ, thường là mặt dưới các tảng đá,
và ban đêm ra ngoài săn mồi.
Bọ cạp có chứng sợ ánh sáng và các loài chim, rết, thằn lằn và
chuột.


VI.NHỮNG HIỂU LẦM VỀ VẤN ĐỀ TỰ TỬ CỦA BỌ CẠP

Người ta nghĩ rằng bọ cạp tự sát bằng cách tự chích mình cho tới
chết. Tuy nhiên thật ra nọc độc của bọ cạp miễn nhiễm với bản

thân nó cũng như bất kỳ con bọ cạp nào cùng loại, trừ khi nọc độc
bị tiêm thẳng vào hạch thần kinh. Có lẽ sự hiểu lầm xuất phát từ
thực tế đó là bọ cạp là động vật biến nhiệt nhưng một số chuyển
hóa trong cơ thể nó làm nó nóng hẳn lên. Điều này làm bọ cạp co
thắt bừa bãi và dẫn đến việc là nó tự chích mình. Thêm một ý kiến
sai lầm nữa đó là cồn sẽ khiến bọ cạp tự tiêm nọc vào người nó.

VII.PHƯƠNG PHÁP XÂY HỒ NUÔI


- Người nuôi bọ cạp có thể sử dụng thau nhựa, thùng xốp hoặc
hồ nuôi nhưng bọ cạp thông thường phát triển tốt trong hồ nuôi,
diện tích hồ nuôi bọ cạp tùy thuộc vào nhu cầu thực tế.
- Hồ nuôi bọ cạp xây bằng gạch không cần láng xi măng, sâu
30cm - cao 50cm bà con dán một lớp gạch men phía trên (bên
trong) miệng hồ bao xung quanh tránh bọ cạp trèo ra ngoài, nền
đổ đất xốp cho chúng làm tổ và tránh rét vào mùa đông.
- Bà con cho gạch ống, ngói, tấm gỗ mục, để tạo chỗ trú ẩn và
giữ ẩm cho bọ cạp.
- Hồ nuôi bọ cạp có diện tích 1m
2
nuôi khoảng 100 con bọ cạp
giống bố mẹ.
- Hồ nuôi bọ cạp có diện tích 1m
2
nuôi khoảng 500 con bọ cạp
thương phẩm.
- Phương pháp mới người nuôi xây tường bao xung quanh một
khoảng vườn, không cần láng nền, chúng ta cuốc đất lên cho tơi
xốp rồi xếp gạch ống, ngói, ván mục, hòn non bộ… vào chuồng

cho chúng chui rúc làm tổ. Với cách đó nuôi được rất nhiều, mà
không cần tách con riêng, vì chúng đào tổ riêng nên không sợ ăn
mất con. Nuôi cách này chúng luôn luôn chui rúc ở rưới hang hốc
nên chúng luôn giữ được độ ẩm và tránh rét rất tốt.
- Nếu nuôi tập trung theo nhiều hồ nuôi với số lượng đàn đông thì
bà con chăm sóc bình thường cho đến khi thấy bọ cạp con bám
trên lưng bọ cạp mẹ, khoảng 10 ngày sau khi bọ cạp con tự bò
xuống đất kiếm ăn thì bắt bọ cạp bố mẹ qua chỗ khác để nuôi cho
đẻ tiếp.
- Ngoài tự nhiên, bọ cạp chỉ cần ăn uống 1 lần có thể nhịn rất lâu,
nên chúng ta không mất nhiều công chăm sóc, cũng như thức ăn
cho chúng mà chỉ cần tạo cho chúng một môi trường sống thích
hợp nhất với chúng đó là độ ẩm và tạo hang hốc cho chúng mát
mẻ vào mùa hè, ám áp vào mùa đông là chúng phát triển rất tốt.

VIII.THỨC ĂN, NƯỚC UỐNG

Ngoài thiên nhiên, bọ cạp ăn những động vật chân khớp nhỏ và
sâu bọ. Đầu tiên chúng dùng càng để bắt mồi. Tùy vào lượng nọc
độc và kích cỡ càng mà bọ cạp sẽ chích độc hay dùng càng ép con
mồi. Cách này có thể làm tê liệt, thâm chí là giết chết mồi để sau
đó bọ cạp có thể ăn. Bọ cạp có một kiểu ăn duy nhất là sử dụng
chân kìm. Đó là những vuốt nhỏ từ miệng, chỉ có một số loài có
(trong đó có nhện). Chân kìm rất sắc và có thể được dùng để chia
nhỏ con mồi ra cho dễ tiêu hóa. Bọ cạp chỉ có thể tiêu hóa thức ăn
ở một dạng chất lỏng nhất định, bất kỳ chất rắn nào (lông, bộ
xương ngoài của con mồi) đều bị chúng bỏ lại.
Trong chăn nuôi, bà con có thể tận dụng nhiều nguồn thức ăn
như: dế sống hoặc đông lạnh, sâu, giun, các loại thịt, phổi, ốc sên,
ốc bươu vàng, cá, tôm tép Lưu ý là chúng ăn cả loại sống hoặc

đông lạnh, để tiết kiệm nếu thức ăn to quá bà con băm hoặc thái
nhỏ thức ăn cho chúng ăn. Khi cho ăn bà con tính lượng thức ăn
cho phù hợp, mỗi con bọ cạp ăn khoảng 1 đến 2 con dế một lần
và vài hôm sau mới phải cho chúng ăn tiếp, nên cho ăn vào buổi
chiều tối.
Nếu là dế hoặc các con côn trùng sống bà con đổ trực tiếp vào hồ
nuôi cho chúng tự bắt mồi, nếu là thức ăn không chuyển động bà
con rắc trực tiếp hoặc cho vào các miếng nhựa phẳng để vào các
rãnh sát nền cho chúng tìm ăn được dễ dàng.
Lưu ý, khi cho bọ cạp con ăn bà con nên cho dế nhỏ khoảng 1
tuần tuổi hoặc băm nhỏ thức ăn cho chúng ăn.
Bốn ngày tưới nước sạch một lần để giữ ẩm cho bọ cạp hoặc cho
vào hồ nuôi bọ cạp các khay nước cao khoảng 2 - 3cm để không
làm cho bọ cạp bị chết đuối. Mặt khác chúng ta có thể tận dụng
nuôi giun tại vườn cho bọ cạp ăn.

IX.LỢI ÍCH

Theo Giáo sư Đỗ Tất Lợi có bài đăng trên báo Sức khỏe & Đời
sống thì " Bọ cạp là một vị thuốc dùng trong đông y với tên Toàn
Yết dùng làm thuốc trấn kinh, chữa động kinh, uốn ván, kích thích
thần kinh, chữa liệt nửa người, đau đầu, tràng nhạc, lao xương,
táo bón "Nọc độc có khi còn được sự dụng như thuốc và rất đắt
tiền còn hơn cả nọc độc rắn”.
Dùng xung điện để chiết xuất nọc bọ cạp
Bọ cạp còn có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau như
món bọ cạp chiên giòn, chiên bột, chiên bơ, nướng, xào xả ớt,
ngâm rượu rất bổ Tuy nhiên có một số loài có độc mạnh không
thể ăn được nên cẩn thận đề phòng trước khi ăn thịt bò cạp phải
chắc chắn là nó không có độc. Trích: "Tôi gắp đại một con bỏ

miệng, cảm nhận đầu tiên khi răng cắn vào con côn trùng cực độc
này là béo béo, bùi bùi pha vị ngòn ngọt. Cái "áo giáp" của nó
nhai giòn rụm, tan ra trong miệng. Một vị rất lạ, rất khó tả, và tất
nhiên là không thể chê nó được…"
Bọ cạp còn được dùng trong việc chế tạo đồ trang sức, hoặc các
món ăn cao cấp và bình dân trên khắp thế giới.
Kỹ thuật nuôi thực nghiệm dế cơm
KỸ THUẬT NUÔI THỰC NGHIỆM DẾ CƠM
***********************
- Dế cơm là loại dế to hơn dế mèn, có thận hình trắng, các chân dế cơm có màu
trắng. Dế cơm có tuổi thọ trung bình là 12 tháng. Một dế cơm mái đẻ được 200
trứng. Tỷ lệ nở trứng dế cơm là 95%-97%.
- Hiện tại có nhiều kỹ thuật nuôi dế cơm ở Việt nam và các nước trên thế giới.
- Tài liệu “Kỹ thuật nuôi thực nghiệm dế cơm” này được thưc hiện tại trại Nông
Phát; trực thuộc Công Ty TNHH Chế Biến Thực Phẩm Nông Phát.
- Tài liệu này được bảo đảm tính chính xác, tính đúng đắn bởi trại Nông Phát.
- Người nuôi dế cơm có thể sử dụng thùng nhựa 80 lít có nắp đậy, hoặc thùng
nhựa 40 lít có nắp đậy hoặc thau nhựa và có lồng bàn đậy trên thau nhựa đó;
hoặc hồ nuôi phải có rãnh thoát nước, che đậy rãnh thoát nước, có tấm chắn hoặc
màng để che hồ nuôi dế cơm nhằm tránh cho dế cơm bay ra ngoài hoặc nhảy ra
ngoài…
- Người nuôi dế cơm cần chú ý một điểm quan trọng là: dế cơm rất hay thường
xuyên cắn nhau, chúng cắn nhau rất dữ dội và làm cho các chân của chúng bị cụt
hoặc bị rụng. Do đó, người nuôi dế cơm không nên để các con dế cơm chung với
nhau mà không có các vật che chắn như là cỏ, các loại lá cây xanh, giấy, mảnh
thùng giấy vụn để tạo khoảng cách che chắn giữa các con dế cơm với nhau.
- Cho vào thùng nhựa 40 lít (hoặc thùng nhựa 80 lít, thau nhựa) một lớp đất có
độ dày trên 25cm – 35 cm, đất xốp, hơi ẩm, không có đá, không có sỏi; không sử
dụng đất cát; nên sử dụng đất ruộng hoặc đất trồng cây lâu năm; đất trồng cây
kiểng.

- Rải một lớp cỏ mỏng lên trên bề mặt đất trong thùng nhựa hoặc thau nhựa -
nếu có thì tốt.
- Thả dế cơm giống theo tỷ lệ 1:2 - một dế cơm trống và 2 dế cơm mái hoặc tỷ lệ
1:1 - một dế cơm trống và một dế cơm mái.Tổng số lượng dế cơm thả giống vào
thùng hoặc thau là tùy thuộc vào tình hình thực tế; ví dụ: có thể thả tống dế cơm
là 2, 3, 6, 10, 20, 30…
- Cho một khay cám và một khay nước. Có thể cho thêm một số hạt đậu phộng ở
trong khay cám. Khay nước không có quá nhiều nước bởi vì dế cơm có thể chết
đuối.
- Khi thấy hết khay cám, cho cám mới vào.
- Khi thấy hết khay nước, cho nước mới vào.
- Khi thấy cám bị mốc, thay cám mới.
- Quan sát 2 – 5 ngày đầu tiên thả giống dế cơm, nếu dế cơm chết nhưng còn
nguyên vẹn thân hình, các chân còn nguyên thì nguyên nhân là do mật độ nuôi
quá cao và nên phân đàn dế cơm trong thùng đó hoặc thau đó sang một thùng
mới hoặc thau mới.
- Quan sát 2- 5 ngày đầu tiên thả giống dế cơm, nếu dế cơm chết nhưng chân dế
cơm bị thối rửa, bị ăn mòn, bị ăn loét thì nguyên nhân là do độ ẩm quá cao và
nên không phun nước nữa; hoặc nên thay đất xốp mới.
- Không phun nhiều nước vào thùng hoặc thau nuôi dế cơm; không phun nước
vào khay cám bởi vì sẽ làm cám bị mốc. Nếu đất trong thùng hoặc thau nuôi dế
cơm quá khô, không ẩm thì dế cơm sẽ vào khay nước và bún nước ra xung quanh
thùng, thau nuôi dế cơm để cho tăng độ ẩm của đất trong thùng, thau nuôi dế.
- Dế cơm mái sau khi đẻ trứng thì dế cơm mái đó rất yếu; có thể chết sau khi đẻ
trứng một ngày đến vài tuần sau đó.
- Một kg dế cơm trưởng thành có trung bình 200 - 250 con dế cơm
- Số lượng thà nuôi dế cơm thương phẩm tùy thuộc vào thùng hoặc thau nuôi dế
cơm; nên thả dế cơm từ 30 con dế cơm đến 250 con dế cơm
• Kỹ thuật nuôi thực nghiệm dế cơm không cần dùng đất:
1)Bước 1: Người nuôi dế cơm cần chú ý một điểm quan trọng là: dế cơm rất hay

thường xuyên cắn nhau, chúng cắn nhau rất dữ dội và làm cho các chân của
chúng bị cụt hoặc bị rụn. Do đó, người nuôi dế cơm không nên để các con dế cơm
chung với nhau mà không có các vật che chắn như là cỏ, các loại lá cây xanh,
giấy, mảnh thùng giấy vụn để tạo khoảng cách che chắn giữa các con dế cơm với
nhau.
2)Bước 2: Người nuôi có thể sử dụng các thùng nhựa hoặc thau nhựa có lồng bàn
để che đậy.
3)Bước 3: Người nuôi dế cơm nên thả dế cơm giống bố mẹ với mật độ thấp. Ví dụ
như: thả một trống và một mái; thả một trống và 2 mái… do bước 1. Đối với dế
cơm để nuôi lấy thịt thương phẩm, người nuôi dế cơm có thể thả nuôi với mật độ
cao hơn.
4)Bước 4: Cho một khay đựng trứng gà, trứng vịt làm bằng giấy hoặc các hộp
giấy rỗng, nhỏ vào thùng nhựa hoặc thau nhựa để làm chỗ trú ẩn cho dế cơm và
để dế cơm cắn các mảnh giấy đó để chúng không phải cắn nhau do đặc điểm ở
bước 1
5)Bước 5: Cho một khay nước với độ cao của nước thấp bởi vì độ cao của nước
quá cao sẽ làm cho dế cơm chế đuối.
6)Bước 6: Cho một khay đựng thức ăn bao gồm một ít hạt đậu phộng; một vài lá
rau quả như lá cải xanh, lá rau lang bởi vì dế cơm rất thích ăn đậu phộng, các loại
rau.
7)Bước 7: Nếu dế cơm mái chuẩn bị đẻ thì người nuôi dế cơm có thể cho vào một
khay đất xốp, hơi ẩm vào mỗi 6 giờ chiều mỗi ngày để cho dế cơm đẻ trứng vào
trong đó; sau đó, sang hôm sau người nuôi dế cơm lấy khay trứng đó ra.
8)Bước 8: Cách ấp trứng trong khay trứng dế cơm: người nuôi dế cơm phun
sương nước vào khay trứng ít nhất một lần trong một ngày; không phun sương
nước quá nhiều vào khay trứng bởi vì như thế sẽ làm cho khay trứng dế cơm bị
úng, trứng dế cơm bị hư. Trứng dế cơm sẽ nở trong khoảng từ 7 ngày đến 14
ngày hoặc sớm hơn nếu tùy thuộc vào việc phun sương nước.
Tất cả mọi tổ chức, cá nhân sử dụng các phần, các câu, các cụm từ, toàn bộ trong
tài liệu “KỸ THUẬT NUÔI THỰC NGHIỆM DẾ CƠM” đều phải ghi rõ phần trích dẫn

từ tài liệu “KỸ THUẬT NUÔI THỰC NGHIỆM DẾ CƠM”, trực thuộc CÔNG TY TNHH
CHẾ BIẾN THỰC PHẨM NÔNG PHÁT.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×