Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

bước đầu nghiên cứu áp dụng các công cụ kinh tế cho quản lý môi trường ở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.38 KB, 75 trang )







TIỂU LUẬN:

Bước đầu nghiên cứu áp dụng
các công cụ kinh tế cho quản lý
môi trường ở Hà nội




Lời mở đầu

Môi trường đóng một vai trò cực kỳ to lớn, nó có tính chất quyết định đối
với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế và sự sống của con người, bởi vì nó
không chỉ cung cấp các nguồn tài nguyên (đầu vào) cho các quá trình sản xuất,
cung cấp tiện nghi sinh hoạt cho con người mà còn là nơi chứa đựng và hấp thụ
những chất thải của con người thải ra.
Bảo vệ môi trường ngày nay trở thành cấp thiết đối với tất cả các quốc gia
trên thế giới. ở Việt nam, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, phương pháp:
“Mệnh lệnh – kiểm tra” đã và đang được sử dụng để thực hiện các mục tiêu về môi
trường. Song, trong cơ chế mới - cơ chế kinh tế thị trường: “Mệnh lệnh – kiểm tra”
chưa thể tạo điều kiện tốt để các doanh nghiệp lựa chọn được giải pháp tối ưu tuân
thủ qui định của nhà nước về bảo vệ môi trường.
Hiện nay, cùng với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, qúa
trình công nghiệp hoá và đô thị hoá diễn ra nhanh chóng đã và đang gây ô nhiễm
ngày càng tăng đối với môi trường nói chung và môi trường đô thị của thủ đô nói


riêng. Do đó tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng các công cụ kinh tế được xây dựng
dựa trên các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường với mục đích điều hoà
các xung đột giữa phát triển kinh tế thị trường & bảo vệ môi trường. Các công cụ
kinh tế sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp chủ động có kế hoạch đưa bảo vệ
môi trường vào chi phí sản xuất, kinh doanh và hoạch toán giá thành sản phẩm.
Công cụ kinh tế là một trong những công cụ quan trọng để bảo vệ môi
trường, đã và đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới, đặc biệt là trong các nước
công nghiệp phát triển (OEDC).
Tính ưu việt của các công cụ kinh tế là chúng không những đưa ra được con
số giới hạn tổ chức cho các quyết định về môi trường, mà còn cho phép định
lượng riêng biệt từng trường hợp một cách linh hoạt, trong khi vẫn đảm bảo được
yêu cầu chung về chất lượng môi trường trong toàn khu vực. Bên cạnh đó các


công cụ kinh tế còn mang lại các lợi ích tiềm tàng như: Nâng cao thu nhập cho
người dân, thúc đẩy sự đổi mới trong công nghệ kiểm soát ô nhiễm và giảm bớt
chi phí trong kiểm soát ô nhiễm. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi các hoạt động
kinh tế được điều chỉnh theo cơ chế thị trường, trong đó chi phí để đảm bảo chất
lượng môi trường rất khác nhau giữa các doanh nghiệp. Sự giám sát chất thải hoặc
mức độ khai thác tài nguyên của các doanh nghiệp không còn dễ dàng như trong
cơ chế quản lý theo kế hoạch hoá tập trung.
Tuy nhiên, để công tác quản lý môi trường – cũng như các công cụ kinh tế
được thực thi và đem lại hiệu quả đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cá nhân và
cộng đồng. Đó là sự tham gia từ xây dựng đến thực thi chính sách môi trường là
ngôi nhà chung của toàn nhân loại.
Hơn nữa, nhà nước pháp quyền Việt nam là nhà nước của dân, do dân và vì
dân nên nhân dân vừa là chủ thể quản lý, vừa là khách thể quản lý. Như thế có
nghĩa là nhân dân vừa là người quản lý, vừa là người bị quản lý.
Với suy nghĩ như vậy, em rất vui mừng và hân hạnh được các thầy cô giáo
giao cho nhiệm vụ nghiên cứu đề tài về “Bước đầu nghiên cứu áp dụng các công

cụ kinh tế cho quản lý môi trường ở Hà nội”. Chuyên đề của em gồm các phần
chính như sau:
Chương I: Cơ sở khoa học của việc sử dụng công cụ kinh tế cho quản lý môi
trường. Phần này trình bày các cơ sở phương pháp luận, cơ sở khoa học – Thực
tiễn, cơ sở pháp lý của việc ứng dụng các công cụ kinh tế, bản chất nội dung, đồng
thời giới thiệu sơ lược về công cụ kinh tế trong quản lý môi trường.
Chương II: Thực trạng sử dụng công cụ kinh tế cho quản lý môi trường ở Hà nội.
Chương này nêu lên thực trạng ô nhiễm môi trường và quản lý môi trường trên địa
bàn Hà nội.
Chương III: áp dụng công cụ kinh tế cho quản lý môi trường ở Hà nội. Phần này
đưa ra những cơ sở lý luận của những kiến nghị về chính sách và các giải pháp áp


dụng công cụ kinh tế để nâng cao năng lực quản lý môi trường đô thị ở Việt nam
nói chung và Hà nội nói riêng.

Chương I: Cơ sở khoa học của việc sử dụng công cụ kinh tế cho quản lý môi
trường
I. khái niệm chung về quản lý môi trường, sự cần thiết phải quản lý môi trường.
1. Khái niệm chung về quản lý môi trường.
Trước tiên chúng ta hiểu quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện
biến động của môi trường ngoài.
Quản lý môi trường là một dạng của quản lý. Đó là sự tác động liên tục, có
tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý môi trường nên cá nhân hoặc cộng
đồng người tiến hành các hoạt động phát triển trong hệ thống môi trường và khách
thể quản lý môi trường, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội nhằm
đạt được mục tiêu quản lý môi trường đã đề ra, phù hợp với luật pháp và thông lệ
hiện hành.
Sự tác động liên tục, có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý môi

trường chính là việc tổ chức thực hiện các chức năng của quản lý môi trường nhằm
phối hợp mục tiêu và các động lực hoạt động của mội người nằm trong hệ thống
môi trường để đạt tới mục tiêu chung của hệ thống môi trường.
Việc sử dụng tốt nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống là việc sử
dụng có hiệu quả nhất các yếu tố bên trong và bên ngoài của hệ thống môi trường
trong điều kiện tương tác với các hệ thống khác, chấp nhận các rủi ro có thể xảy ra
cho hệ thống.
Việc tuân thủ luật pháp và các thông lệ (Công ước quốc tế) hiện hành là
việc tiến hành các hoạt động phát triển theo đúng những điều mà luật pháp trong
nước và quốc tế không cấm, những công ước mà thế giới đã thoả thuận.


2. Sự cần thiết phải quản lý môi trường.
Xét về mặt tổ chức kỹ thuật của hoạt động quản lý, quản lý môi trường
chính là sự kết hợp mọi sự lỗ lực chung của con người hoạt động trong hệ thống
môi trường và việc sử dụng tốt các cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc phạm vi sở hữu
của hệ thống môi trường để đạt tới mục tiêu chung của toàn hệ thống và mục tiêu
riêng của cá nhân hoặc nhóm người một cánh khôn khéo và có hiệu quả nhất.
Quản lý môi trường phải trả lời các câu hỏi “ Phải tiến hành các hoạt động phát
triển nào, để làm gì?”, “Phải tiến hành hoạt động phát triển đố như thế nào, bằng
cách nào?”, “Tác động tích cực và tiêu cực nào có thể xảy ra?”, “ Rủi ro nào có thể
gánh chịu và cách sử lý ra sao?”.
Quản lý môi trường được tiến hành chính là để tạo ra một hiệu quả hoạt
động phát triển cao hơn, bền vững hơn so với hoạt động của từng cá nhân riêng rẽ
hay của một nhóm người. Nói một cách khác, thực chất của quản lý môi trường là
quản lý con người trong các hoạt động phát triển và thông qua đó sử dụng có hiệu
quả nhất mọi tiềm năng và cơ hội của hệ thống môi trường.
Là hoạt động chủ quan của chủ thể quản lý vì mục tiêu lợi ích của hệ thống,
đảm bảo ch hệ thống môi trường tồn tại, hoạt động và phát triển lâu dài, cân bằng
và ổn định vì lợi ích về vật chất và tinh thần của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai

sau, vì lợi ích của cá nhân, cộng đồng địa phương, vùng, quốc gia, khu vực và
quốc tế.
II. Đối tượng, mục tiêu, nội dung và các nguyên tắc của quản lý nhà nước về môi
trường.
1. Đối tượng của quản lý môi trường.
Quản lý môi trường, trước hết là quản lý một hệ thống bao gồm các phần tử
(yếu tố) tự nhiên và nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người,
có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và tự
nhiên. Đó là một hệ thống bao gồm các phần tử của thế giới vô sinh và hữu sinh
hoạt động theo những qui luật khác nhau và có con người tham dự.


2. Mục tiêu của quản lý môi trường.
Mục tiêu chung, lâu dài và nhất quán của quản lý môi trường là nhằm góp
phần tạo lập sự phát triển bền vững. Đó là cách phát triển “Thoả mãn nhu cầu của
thế hệ hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng thoả mãn nhu cầu của thế hệ
mai sau”. Và được xem là một tiến trình đòi hỏi sự tiến triển đồng thời của cả bốn
lĩnh vực: Kinh tế, xã hội nhân văn, môi trường và kỹ thuật với những mục tiêu cụ
thể của từng lĩnh vực. Giữa bốn lĩnh vực này có mối quan hệ tương tác rất chặt chẽ
và hành động trong lĩnh vực này có thể thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển.
Chẳng hạn néu muốn phát triển kinh tế theo kiểu bền vững, thì không thể không
chú ý đến những khó khăn nan giải về môi trường hoặc dựa vào sự huỷ hoại tài
nguyên thiên nhiên, và sự phát triển cũng không thể thành công, nêu snhư không
có sự phát triển đồng thời tài nguên nhân văn, nó cũng đòi hỏi sự chuyển dịch cơ
sở công nghiệp hiện tại, phát triển và quảng bá những kỹ thuật và công nghệ thân
thiện với môi trường, với hành tinh nói chung.
3. Nội dung của quản lý môi trường.
Quản lý môi trường được tiến hành ở cả cấp vĩ mô và vi mô.
ở cấp vĩ mô, quản lý môi trường bao gồm các nội dung sau đây:
+ Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi

trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường.
+ Xây dựng,chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế
hoạch phòng – chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố
môi trường.
+ Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, công trình có liên
quan đến bảo vệ môi trường.
+ Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện
trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường.


+ Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ
sở sản xuất, kinh doanh.
+ Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường.
+ Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi
trường: giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường, xử lý vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
+ Đào tạo cán bộ về học và quản lý môi trường; giáo dục, tuyên truyền, phổ
biến kiến thức – pháp luật về bảo vệ môi trường.
+ Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường.
+ Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
4. Các nguên tắc quản lý môi trường.
4.1. Khái niệm.
Các nguyên tắc quản lý môi trường là các qui tắc chỉ đạo những tiêu chuẩn
hành vi mà các chủ thể quản lý phải tuân thủ trong suốt quá trình quản lý môi
trường.
4.2. Yêu cầu của các nguyên tắc quản lý môi trường.
+ Thể hiện được yêu cầu của các qui luật khách quan.
+ Phù hợp với mục tiêu quản lý.
+ Phải phản ánh khách quan và đúng đắn tính chất và các mối quan hệ quản

lý.
+ Phải đảm bảo tính hệ thống, tính thống nhất, nhất quán và được bảo đảm
bằng pháp luật.
4.3. Các nguyên tắc quản lý môi trường.


Các nguyên tắc quản lý môi trường phải phản ánh yêu cầu khách quan của
các qui luật tự nhiên, kinh tế xã hội đang chi phối quá trình quản lý môi trường.
Đối với nước ta, quản lý môi trường cần dựa và những nguyên tắc sau đây:
+ Bảo đảm tính hệ thống.
+ Bảo đảm tính tổng hợp.
+ Bảo đảm tính tập trung dân chủ.
+ Kết hợp quản lý theo nghành và quản lý theo lãnh thổ.
+ kết hợp hài hoà các lợi ích.
+ Tiết kiệm và hiệu quả.
III. Các công cụ quản lý môi trường.
1. Khái niên chung về công cụ quản lý môi trường.
Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp và phương tiện giúp cho việc
thực hiện những nội dung của quản lý môi trường được tốt hơn.
Phân loại công cụ quản lý môi trường, theo chức năng có ba loại: Công cụ
điều chỉnh vĩ mô, công cụ hành động và công cụ hỗ trợ. Theo bản chất gồm có các
công cụ luật pháp chính sách, công cụ kinh tế và công cụ kỹ thuật quản lý.
Xét trên giác độ kinh tế và quản lý môi trường về mặt nhà nước có thể phân
thành hai loại công cụ cơ bản:
+ Công cụ pháp lý.
+ Công cụ kinh tế.
2. Cưỡng chế hành chính bằng luật pháp và tiêu chuẩn.
2.1. Mệnh lệnh và kiểm soát (CAC).
Hai phương thức chính để kiểm soát và quản lý chất thải là mệnh lệnh và
kiểm soát và các chiến lược kinh tế. Kể từ khi khởi đầu các chính sách môi trường

ở phàn lớn các nước công nghiệp hoá, các chính sách đã có xu hướng sử dụng


mệnh lệnh và kiểm soát (Tức là qui định trực tiếp cùng với các hệ thống giám sát
và cưỡng chế) như một chiến lược chính thống trong kiểm soát ô nhiễm và quản lý
chất thải. Phương cách này nói chung, đòi hỏi chính phủ phải đặt ra các mục tiêu
môi trường lấy sức khoẻ con người hoặc sinh thái làm gốc, hoặc qui định các tiêu
chuẩn, lượng các chất ô nhiễm được phép thải bỏ, hoặc công nghệ mà những
người gây ô nhiễm có thể sử dụng để đạt được những mục tiêu ấy. Trong phần lớn
các trường hợp phương thức mệnh lệnh và kiểm soát còn qui định thời gian biểu
cho việc đáp ứng tiêu chuẩn, các thủ tục cấp phép và cưỡng chế thực thi đối với
các phương tiện, qui trach nhiệm pháp lý và những hình phạt đối với những người
vi phạm. trách nhiệm xây dựng và buộc thực hiện các tiêu chuẩn cùng các yêu cầu
khác, được chia sẻ, theo các qui định của pháp luật, giữa các cấp chính quyền quốc
gia và địa phương.
Mặc dù chiến lược mệnh lệnh và kiểm soát đã đạt được các tiến bộ đáng kể
trong nhiệm vụ giảm bớt ô nhiễm, nhưng nó cũng đã bị phê phán là không hoàn
thành được các mệnh lệnh và thời hạn cuối cùng pháp lý khác nhau, không hiệu
quả kinh tế và khó thực thi. Các chiến lược này không có hiệu quả đối với các cơ
quan điều chỉnh cần có các thông tin chi tiết về các qúa trình sản xuất và về sự
thích hợp của các thiết bị kiểm soát ô nhiễm khác nhau. Đối với các nghành công
nghiệp đa dạng, thì việc có được những thông tin và tri thức chuyên sâu cần thiết
đối với từng nghành công nghiệp, là một công việc cực kỳ tốn kém tiền của và thời
gian. Chỗ yếu khác của phương thức này là chi phí cao cho việc kiểm soát ô nhiễm
lên hiếm có cơ hội để tận dụng được qui mô kinh tế. Mặc dù các tiêu chuẩn có thể
được áp dụng khác nhau, tuỳ thuộc vào tuổi và loại phương tiện, phần lớn những
người gây ô nhiễm sử dụng cùng một qúa trình sản xuất, lại cũng phải yêu cầu
phải đáp ứng một tiêu chuẩn. Những người gây ô nhiễm có khả năng giảm ô
nhiễm với chi phí thấp hơn lại không có cơ hội để thực hiện. Hơn nữa, có rất ít sự
linh động đối với những người gây ô nhiễm đã đàu tư vào một kiểu hệ thống kiểm

soát ô nhiễm nào đó. Kết quả là, phương thức mệnh lệnh và kiểm soát ô nhiễm ít
khuyến khích đổi mới trong công nghệ kiểm soát ô nhiễm, một khi tiêu chuẩn đã


đạt được rồi. Hơn nữa, phương thức này là không đủ và không hữu hiệu trong việc
giải quyết nhiều vấn đề kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải mà các nhà quản lý
môi trường gần đây đã gặp phải như: ô nhiễm không khí nguồn điểm (Nonpoint
source pollution) (Như nước thải Nông nghiệp và Đô thị), đổ bỏ chất thải rắn, các
vấn đề môi trường toàn cầu như suy giảm tầng ôzôn và sự thay đổi khí hậu.
Phương thức mệnh lệnh và kiểm soát để kiểm soát ô nhiễm mà quản lý chất
thải, chủ yếu dựa vào các công cụ pháp lý (Các tiêu chuẩn, các giấy phép, kiểm
soát việc sử dụng đất…).
2.2. Các tiêu chuẩn.
Tiêu chuẩn là phương tiện chính để trực tiếp điều chỉnh chất lượng môi
trường ở hầu hêt các nước phát triển. Chúng xác định các mục tiêu môi trường và
đặt ra số lượng hay nồng độ của các chất thải vào khí quyển, đất, nước hay được
phép tồn tại trong các sản phẩm tiêu dùng. Các loại tiêu chuẩn gồm: Các tiêu
chuẩn chất lượng môi trường xung quanh, tiêu chuẩn thải nước, khí, các tiêu chuẩn
dựa vào công nghệ, các tiêu chuẩn vận hành, các tiêu chuẩn sản phẩm và các tiêu
chuẩn về qui trình công nghệ. Các tiêu chuẩn cũng có thể bao gồm các qui cách kỹ
thuật và thiết kế của các kỹ thuật hoặc phương tiện và sự tiêu chuẩn hoá các
phương pháp lấy mẫu hoặc phân tích. Trong một số trường hợp, khi xây dựng các
tiêu chuẩn môi trường hoặc giới hạn thải bỏ đã cân nhắc đến việc chuyển các chất
thải từ một môi trường trung gian này sang sang một môi trường trung gian khác,
cũng như sự đáp ứng môi trường đối với chất ô nhiễm. Một loạt tiêu chuẩn được
dùng làm qui chế cho việc đánh giá hoặc mục tiêu hành động và kiểm soát pháp
lý. Nói chung, tiêu chuẩn là do Chính phủ trung ương xây dựng, tuy nhiên trong
một số trường hợp Chính phủ trung ương chỉ đặt ra những qui định khung để
chính quyền địa phương, khu vực thực hiện. Các tiêu chuẩn cấp bộ nghành nói
chung không kém chặt chẽ trừ các trường hợp thật đặc biệt, một số trường hợp có

thể chặt chẽ hơn tiêu chuẩn quốc gia.


Việc xây dựng tiêu chuẩn dựa trên giả định đã có cơ quan giám sát để giám
sát những hoạt động của những người gây ô nhiễm và có quyền ra lệnh phạt những
người vi phạm. nếu cơ quan phụ trách không có quyền cưỡng chế thi hành thì điều
duy nhất khiến người gây ô nhiễm phải làm đúng tiêu chuẩn sẽ là lương tri xã hội.
Do vậy, nói chung tiêu chuẩn phải gắn với hình phạt (Như phạt tiền đối với người
vi phạm, thu hồi giấy phép), những người gây ô nhiễm cũng có thể bị hoặc đe doạ
bị truy tố trước pháp luật.
***
2.3. Các loại giấy phép.
Việc cấp hoặc không cấp các loại giấy phép hoặc các loại uỷ quyền khác là
một công cụ quan trọng để kiểm soát ô nhiễm. Các loại giấy phép nói chung
thường được gắn kết với các tiêu chuẩn về chất lượng nước hay không khí và có
thể còn phải thoả mãn những điều kiện cụ thể như phù hợp với qui phạm thực
hành, lựa chọn địa điểm thích hợp để giảm tới mức tối thiểu những ảnh hưởng
kinh tế và môi trường, lắp đặt một nhà máy sử lý hay một thiết bị kiểm soát ô
nhiễm trong vòng một thời gian nhất định, hoặc sử dụng các biện pháp bảo vệ môi
trường khác. một lợi thế chính của các loại giấy phép là chúng có thể tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thực thi các chương trình môi trường bằng cách ghi vào văn bản
tất cả những kiểm soát ô nhiễm của cơ sở đó. Những lợi thế khác có thể rút hoặc
tạm treo các giấy phép, tuỳ theo nhu cầu của nền kinh tế quốc dân hay lợi ích xã
hội khác, và thường yêu cầu phải trả lệ phí để trang trải các chi phí cho chương
trình kiểm soát ô nhiễm.
2.4. Công tác kiểm soát việc sử dụng đất và nước.
Kiểm soát việc sử dụng đất (Như khoanh vùng, các qui định về chia nhỏ)
chủ yếu là công cụ của chính quyền địa phương được áp dụng để bảo vệ môi
trường. Khoanh vùng có thể định nghĩa là sự phân chia lãnh thổhay một khu vực
hành chính khác thành quận, huyện và những qui định về việc được phép sử dụng

đất, chiều cao, qui mô của các toà nhà hay cấu trúc khác trong những quận, huện


đó (Ví dụ: Phần trăm tối đa diện tích mặt bằng có thể sử dụng được, so với tổng
diện tích lô đất) kích thước tối thiểu của lô đất được cấp và mật độ dân số. Do vậy,
khoanh vùng có thể ngăn ngừa việc bố trí các nghành công nghiệp gây ô nhiễm tại
các địa điểm không thích hợp làm ảnh hưởng tới địa phương.
Các biện pháp kiểm soát đối với việc sử dụng nước đặc biệt có thể được
tiêu dùng để giới hạn hoặc cấm việc phát triển năng lượng, khai thác tài nguyên
thiên nhiên tại bờ sông, đáy biển, các hoạt động giải trí (Câu cá, bơi, bơi thuyền)
và sử dụng có nhiều khả năng gây ô nhiễm khác, tại các vùng nước qui định.
Trong nhiều trường hợp, những qui định này tạo một bộ phận của các biện pháp
qui hoạch khu vực, hoặc qui hoạch đặc biệt, nhằm mục đích quản lý vùng ven
biển, các vườn quốc gia, các bờ biển và các khu bảo tồn.
3. Giáo dục tuyên truyền nâng cao nhận thức.
3.1. giáo dục.
Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của quần chúng, mang tính xã hội rộng lớn,
đòi hỏi không ngừng nâng cao trình độ dân trí. Thông qua giáo dục, ý thức bảo vệ
môi trường của cá nhân và cộng đồng ngày một nâng cao. Thực tế cho thấy rằng ở
các quốc gia, các vùng, các địa phương khác nhau có những nhạn thức khác nhau
về môi trường và tầm quan trọng của nó. Cho nên, ý thức trách nhiệm bảo vệ môi
trường cũng khác nhau. Môi trường là ngôi nhà chung của nhân loại, là tài sản vô
giá của con người. Để bảo vệ môi trường tốt hơn, nâng cao không ngừng chất
lượng cuộc sống toàn diện của con người hướng tới một xã hội bền vững, cần phải
tiến hành giáo dục thường xuyên, tuyên truyền sâu rộng ở khắp mọi nơi, mọi lúc
về môi trường và bảo vệ môi trường.
Qua qúa trình đi thực tập vừa qua, theo ý kiến chủ quan của tôi thì việc giáo
dục môi trường cho mọi tầng lớp nhân dân ở Việt nam cần phải tập trung vào
những hướng chính sau đây:
+ Giáo dục môi trường và bảo vệ môi trường là môn khoa học bắt buộc đưa

vào trong cơ cấu chương trình của môn học bậc phổ thông từ cấp tiểu học cho đến


hết cấp trung học. ở bậc đại học, tuỳ theo đặc trưng của nghành học, mà xây dựng
nội dung chương trình môn học cho phù hợp, nhưng về cơ bản có hai dạng chính
là: Giáo dục môi trường cho giai đoạn đại cương và giáo dụcđào tạo môi trường
chuyên nghành.
+ Giáo dục môi trường cho các nhà quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh và
hoạch định chính sách. Đối với đối tượng này, những kiến thức về kinh tế môi
trường phải là bộ phận bắt buộc trong cơ cấu kiến thức chuyên môn.
+ Đối với quảng đại quần chúng cần có những chương trình chuyên sâu,
liên tục thông qua các chương trình, hoạt động bổ ích thiết thực, tránh hình thức.
Tuy nhiên, hiệu quả của chương trình, hoạt động này phải được hỗ trợ đắc lực của
pháp luật, các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường. Nếu chương trình hoạt động tuyên
truyền, giáo dục công chúng này có kết quả sẽ đạt được mục tiêu kép: một là, nâng
cao được ý thức bảo vệ môi trường của nhân dân, từ đó có thể tiết kiệm được
những chi phí cho việc giám sát sử lý ô nhiễm môi trường; hai là, khi bảo vệ môi
trường đảtở thành ý thức của nhân dân, có thể tạo ra được áp lực ngày càng mạnh
mẽ và sắc bén để bảo vệ môi trường, nhất là trong qúa trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
3.2. Truyền thông môi trường.
Truyền thông môi trường tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi thái
độ hành vi của con người trong cộng đồng, từ đó thúc đẩy họ tự nguyện tham gia
vào hoạt động bảo vệ môi trường từ đơn giản nhất cho đến phức tạp nhất, và
không những chỉ tự mình tham gia vào mà còn lôi cuốn những người khác cùng
tham gia tạo ra các kết quả có tính đại chúng.
Truyền thông môi trường là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho các loại công
cụ khác trong quản lý môi trường. Trong bối cảnh quốc gia nói chung và các tỉnh,
thành phố nói riêng tại Việt nam hiện nay, khi mà công cụ kinh tế môi trường,
công cụ kỹ thuật công nghệ môi trường… đang tìm cách thích ứng để thâm nhập

vào đời sống xã hội một cánh không dễ dàng thì truyền thông môi trường cần phải


được sử dụng và khai thác tối đa hiệu quả các lợi thế của nó, ngay trước mắt cũng
như thường xuyên, lâu dài để khơi dậy mọi nguồn lực trong cộng đồng cùng tham
gia vệ sinh môi trường, tức xã hội hoá công tác môi trường. Tuy nhiên, truyền
thông môi trường rất đặc biệt vì:
+ Môi trường là một hệ thống phức tạp.
+ Tác động và hậu quả của hành vi không phù hợp với môi trường không
dễ dàng thấy được ngay.
+ Nhiều người gây tác động đến môi trường thường không mang lại lợi
nhuận trực tiếp.
+ Đối tượng truyền thông là những người có trình độ học vấn, chuyên
môn, kinh nghiệm sống, vị trí xã hội… rất khác nhau.
Do đó, mục tiêu của truyền thông môi trường phải gắn liền với cộng đồng
qua các nội dung cụ thể sau:
+ Thông tin cho người bị tác động bởi các vấn đề môi trường biết tình
trạng của họ quan tâm đến việc tìm kiếm các giải pháp khắc phục.
+ Huy động, các kinh ngiệm kỹ năng, bí quyết địa phương tham giavào các
chương trình, kế hoạch bảo vệ môi trường.
+ Thương lượng hoà giải các xung đột, khiếu nại, tranh chấp môi trường
giữa các cơ quan, trong nhân dân.
+ Tạo cơ hội cho mọi thành phần trong xã hội tham gia vào việc bảo vệ
môi trường – xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường.
+ Thông qua đối thoại thường xuyên trong xã hội khả năng thay đổi các
hành vi sẽ được hữu hiệu hơn.

Ta có sơ đồ diễn tả mối liên hệ truyền thông môi trường như sau:




Sau đây là sơ đồ của các bước truyền thông hữu hiệu:

3.3. Hiện nay, Ngân hàng thế giới đã phát triển và cổ vũ cho một cách tiếp cận
mới: Sử dụng thông tin như là một công cụ quản lý để hỗ trợ cho các phương pháp
quản lý môi trường bằng công cụ pháp qui và công cụ kinh tế, đã trở lên quen
thuộcvới doanh nghiệp và Chính phủ.
Sự tham gia của
cộng đồng địa
phương

Tài liệu
hoá và
giám sát
Phân tích
tình hình
và xác
đ
ịnh vấn
Phân tích
khâu thính
giả và kiến
thức, tập
quán c
ủa h


Mục tiêu
truyền
thông


Xây dựng
chương
trình
truy
ền
Trình diễn
của các
phương tiện
truyền thông
và áp d
ụng

Tạo sản
phẩm và
làm th


Thiết kế
thông
đi
ệp

Lựa chọn
phương tiện
truyền thông
và kết hợp
Đánh giá Lập kế hoạch Tạo sản phẩm
Hoạt động và phân phối
1


2

3

4

5

6

7

8

9

Tác
đ
ộng

Điều
ch
ỉnh

Cộng đồng
có liên
quan.

Truyền

thông môi
trư
ờng

Vấn đề
môi
trư
ờng.



Thông tin về mức độ tuân thủ môi trường của các doanh nghiệp được thu
thập đầy đủ, chính xác , toàn diện nhiều mặt mang tính hỗ trợ bổ sung cho nhau.
Và thông tin này được phổ biến cộng đồng một cách phù hợp với hoàn cảnh địa
phương và phương thức ứng xử theo truyền thống văn hoá cộng đồng tại địa
phương.
Cộng đồng có ý thức về môi trường và hiểu biết về sử dụng thông tin từ đó
chủ động tham gia vào các hoạt động tại địa phương tạo ra những thách thức cho
các doanh nghiệp phải thay đổi hành vi về môi trường trong hoạt động kinh doanh
của mình.
4. Các công cụ kinh tế.
Khác với cách tiếp cận của công cụ pháp chế. Các công cụ kinh tế lấy
nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường làm cơ sở để cân bằng phát triển sản xuất
và bảo vệ môi trường, tạo điều kiện để công tác bảo vệ môi trường trở thành động
lực phát triển sản xuất. Các công cụ kinh tế sử dụng để đạt được mục tiêu môi
trường bằng cách tạo cơ hội và điều kiện để nhà sản xuất chuyển chi phí bảo vệ
môi trường gián tiếp cho người tiêu dùng. Bằng cách đó sẽ khuyến khích các nhà
sản xuất đầu tư bảo vệ môi trường xứng với mức đầu tư phát triển sản xuất.
Để hiểu rõ hơn và phù hợp với vai trò của công cụ kinh tế trong đề tài này.
Ta đi tìm hiểu về công cụ kinh tế trong quản lý môi trường.

I\/: Công cụ kinh tế trong quản lý môi trường.
1. Công cụ kinh tế là gì? Tại sao phải áp dụng công cụ kinh tế?
1.1. Công cụ kinh tế là gì?.
Công cụ kinh tế là những chính sách nhằm thay đổi chi phí và lợi ích của
những hành động của hoạt động kinh tế thường xuyên xảy ra tác động tới môi
trường, tăng cường ý thức trách nhiệm trước việc gây ra huỷ hoại môi trường.


Công cụ kinh tế sử dụng sức mạnh thị trường để đề ra các quyết định nhằm
đạt tới mục tiêu môi trường, từ đó sẽ có cách ứng sử hiệu quả chi phí cho bảo vệ
môi trường.
Công cụ kinh tế đơn giản là con đườngmà Chính phủ có thể thay đổi hành
vi ứng xử của mọi người. Thông qua việc lựa chọn những phương thức kinh tế
khác nhau hoặc giảm thiểu chi phí trên thị trường nhằmđạt mục tiêu môi trường.
Công cụ kinh tế là biên pháp cung cấp “Những tín hiệu thị trường để giúp
cho những người ra quyết định ghi nhận hiệu quả môi trường trong việc lựa chọn
của họ”.
Từ các địng nghĩa trên, ta có thể rút ra hai điểm làm sáng tỏ thêm nội dung
của công cụ kinh tế của phương tiện chính sách.
1) Công cụ kinh tế hoạt động thông qua giá cả, chúng nâng giá của các
hành động làm tổn hại đến môi trường hoặc hạ giá cả của các hành động bảo vệ
môi trường xuống.
2) Công cụ kinh tế dành khả năng lựa chọn cho các công ty và cá nhânhành
động sao cho phù hợp với điều kiện của họ.
Như vậy, công cụ kinh tế tương phản thường xuyên với các qui định “Mệnh
lệnh và kiểm soát – CAC”. Đó là hai mặt của phương tiện chính sách “Mệnh lệnh
và kiểm soát – CAC” được tiến hành thông qua những cơ chế ra lệnh cho các hành
động môi trường xử phạt nếu không tuân thủ các qui định của nhà nước. Ngược
lại, các công cụ kinh tế duy trì một tập hợp tương đối rộng rãi các hành động môi
trường có tính pháp lý, nhưng có xác định những hậu quả khác nhau đối với những

sự lựa chọn khác nhau.
Từ những trình bày trên ta thấy:
+ Công cụ kinh tế là một trong những phương tiện chính sách được sử dụng
để đạt tới mục tiêu môi trường thành công.


+ Công cụ kinh tế không phải là phương tiện chính sách riêng biệt mà
chúng được sử dụng thường xuyên cung với các phương tiện chính sách khác như
đã qui định pháp lý về “Mệnh lệnh và kiểm soát – CAC”.
1.2. Tại sao phải sử dụng công cụ kinh tế?
ở Việt nam, quan niệm công cụ kinh tế như là một phương tiện chính sách
quản lý môi trường là điều hoàn toàn mới mẻ. Trước thời kỳ đổi mới, quản lý đất
nước chủ yếu bằng mệnh lệnh, chỉ huy từ một trung tâm gần giống như CAC ở các
nước tư bản. Từ khi đổi mới đến nay, mặc dù tàn dư của chế độ cũ còn khá nặng
nề nhưng chúng ta đã từng bước đổi mới, nhìn nhận khôn khéo và khách quanhơn
trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế đất nước.
Trong hoạt động bảo vệ môi trường, khoảng 30 năm trước đây các nước tư
bản phương tây cũng chỉ áp dụng như công cụ quản lý “Mệnh lệnh và kiểm soát –
CAC” để quản lý môi trường, nhưng thực tế cho thấy chỉ bằng “Mệnh lệnh và
kiểm soát – CAC” đã không đạt được hiệu quả mong muốn. Bởi vì sự cắt giảm
dần năng lực quản lý môi trường, thêm vào đó là sự quan tâm tới môi trường mang
tính cứng nhắc, thiếu linh hoạt, CAC trở thành ưu tiên cao hơn phương tiện chính
sách thông qua giá cả.
Câu hỏi đặt ra là: Tại sao phương tiện chính sách thông qua cơ chế tài chính
lại có linh hoạt và mềm dẻo để cho mọi cá nhân, các doanh nghiệp và các công ty
có thể hưởng ứng giá mong muốn. Đó là vì ba điều thuận lợi chủ yếu:
+ Tăng hiệu quả đầu tư.
+ Khuyến khích nhiều hơn cho việc đổi mới.
+ Khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin tốt hơn.
2. Các nguyên tắc.

2.1. nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP).
Nguyên tắc PPP có nguồn gốc từ sáng kiến của tổ chức hợp tác kinh tế và
phát triển (OEDC) đề ra năm 1972 và 1974.


PPP tiêu chuẩn năm 1972 cho rằng, những tác nhân gây ô nhiễm phải trả
mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng chống ô nhiễm.
PPP “Mở rộng” năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ra ô nhiễm thì
ngoài việc phải tuân thủ các chi phí khắc phục ô nhiễm gây ra còn phải chịu mọi
khoản chi phí để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền tổ
chức thực hiện, nhằm khắc phục và hoàn trả.
Ví dụ: Giả sử có một công ty sản xuất giấy từ các vật liệu thô. Trong qúa
trình sản xuất, họ tự tiện thải các chất thải gây ô nhiễm vào sông dưới dạng các sản
phẩm thải loại, mà không phải trả một đồng nào cả. như vậy là công ty đã gây ra
thiệt hại cho môi trường, nhưng lại không bị thu phí để bồi thường thiệt hại này.
Nguyên tắc PPP cho rằng công ty đó phải dặt thiết bị giảm thiểu ô nhiễm hoặc
phải bồi thường cho những người sống ở cuối dòng sông, tức là những người bị
thiệt hại do việc làm ô nhiễm dòng sông gây ra.
Xuất phát từ những luận điểm của Pigou về kinh tế phúc lợi. Nội dung quan
trọng nhất đối với một nền kinh tế lý tưởng là giá cả các loại hàng hoá và dịch vụ
có thể phản ánh đầy đủ các chi phí xã hội, kể cả các chi phí môi trường (Chi phí
chống ô nhiễm, khai thác tài nguyên cũng nhưca dạng chi phí sản xuất và tiêu
dùng hàng hoá dịch vụ. Nếu không, sẽ dẫn đến viêc sử dụng bừa bãi các nguồn tài
nguyên, làm cho ô nhiễm môi trường trở lên trầm trọng hơn so với mức tối ưu đối
với xã hội. Việc buộc người gây ô nhiễm phải trả tiền là một trong những cách tốt
nhất để làm giảm bớt các tác động của ngoại ứng gây tác động xấu tới môi trường.
Có những trường hợp nguyên tắc PPP bị phản đối. Bởi vì:
+ Thứ nhất: Các tác nhân gây ô nhiễm có thể được cung cấp, trợ giúp về tài
chính kỹ thuật, trong khi đó nguyên tắc PPP đòi hỏi phải được áp dụng nhằm đạt
được các mục tiêu môi trường rộng rãi và sâu sắc.

+ Thứ hai: Nếu thực hiện nguyên tắc PPP được dự kiến là dán đoạn quá
trình phát triển kinh tế xã hội trong một thời gian ngắn, thì những người gây ô
nhiễm vẫn có thể được trợ giúp tương tự như trên.


Mặc dù nguyên tắc PPP tự nó sẽ còn phát triển tiếp tục nhưng gần đây, nó
đã được củng cố bởi bốn nguyên tắc cơ bản khác nhằm tạo ra các nguyên tắc chủ
đạo cho việc hoạch định các chính sách môi trường “ nguyên tắc phòng ngừa”, “
nguyên tắc hiệu quả kinh tế, tiết kiệm chi phí”, “nguyên tắc cấp dưới” và “nguyên
tắc hiệu quả về luật pháp”. Những nguyên tắc này đã bổ xung cho các thiếu sót của
nguuyên tắc PPP.
2.2 Nguyên tắc người hưởng thụ phải trả tiền (BPP).
Nguyên tắc này chủ trương tạo lập một cơ chế nhằm đạt được các mục tiêu
về môi trường. Đối nghịch với việc trực tiếp gây ô nhiễm phải trả tiền, người
hưởng thụ một môi trường đã được cải thiện cũng phải trả một khoản chi phí. Nói
cách khác là trong tất cả những ai hưởng lợi do có được môi trường trong lành,
không bị ô nhiễm thì đều phải nộp phí.
Nguyên tắc đưa ra các giải pháp bảo vệ môi trường với cách nhìn nhận
tương đối là việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được hỗ trợ từ
phía những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cao chất
thải gây ô nhiễm môi trường.
Về thực chất, nguyên tắc BPP có thể được sử dụng như là một định hướng
hỗ trợ nhằm đạt được các mục tiêu môi trường, cho dù là mục tiêu bảo vệ hay là
phục hồi môi trường. Nếu mức phí có thể thu đủ để dành cho các mục tiêu môi
trường, thì lúc đó chính sách này có thể coi là chính sách có hiệu quả về môi
trường. Mục tiêu của BPP là nhằm bảo vệ môi trường, do đó nó được công chúng
ủng hộ rộng rãi.
Xét về mặt hiệu quả kinh tế, thì nguyên tắc BPP là nguyên tắc có tính phù
hợp cao, ví rằng hiệu quả kinh tế chỉ có thể đạt được nếu các nguồn lợi được sử
dụng tối ưu. Do vậy, hiệu quả kinh tế có thể đạt được nếu việc xác định mức phí,

lệ phí môi trường đưa ra ở mức tối ưu và khoản phí, lệ phí thu được chủ yếu phục
vụ cho các biện pháp cụ thể liên quan đến bảo vệ môi trường.


Nếu xét theo tính công bằng kinh tế, thì nguyên tắc BPP không đáp ứng
được bởi lẽ công bằng kinh tế đòi hỏi mọi người phải trả đầy đủ chi phí hàng hoá
và dịch vụ mà họ sử dụng. Vì các công ty có thể sử dụng nguồn lợi môi trường để
sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ, mà họ không phải trả tiền và ngược lại người
khác phải chịu chi phí đó. Như vậy là họ đã không trả đủ chi phí cho hàng hoá và
dịch vụ mà họ tiêu thụ trên thị trường, chẳng hạn như ở ví dụ trên về công ty sản
xuất giấy từ vật liệu thô, công ty đã gây thiệt hại về môi trường nhưng chính người
khác lại phải trả tiền cho việc bảo vệ hoặc phục hồi môi trường. “Những người
khác này” có thể là người tiêu dùng giấy hoặc là những người sống ở cuối dòng
sông, muốn được cải thiện môi trường.
3. Cơ sở pháp lý để áp dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt
Nam.
3.1 Luật bảo vệ môi trường.
Được Quốc hội nước CHXHCN Việt nam thông qua 12/1993 là bộ luật
cơ bản và quan trọng nhất về bảo vệ môi trường ở Việt nam.
Điều 7 chương I của luật bảo vệ môi trường tạo cơ sở cho việc nghiên cứu,
hoạch định các chính sách phù hợp nhằm áp dụng các công cụ kinh tế vào lĩnh vực
bảo vệ môi trường.
Luật bảo vệ môi trường đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý cho thực hiên
chính sách môi trường có hiệu quả. Công cụ kinh tế là loại công cụ linh hoạt, mềm
dẻo hỗ trợ việc thực hiệnluật bảo vệ môi trường.
3.2. Nghị định 175/CP về hướng dẫn thực hiện luật bảo vệ môi trường.
Điều 8
(2)
qui định, các cơ sở kinh doanh hoặc sản xuất chịu sự kiểm soát
của luật bảo vệ môi trường cần có trách nhiệm: “… Đóng góp tài chính cho công

tác bảo vệ môi trường, đền bù cho những người thiệt hại về môi trường phù hợp
với điều khoản được nêu trong luật”.
Điều 34 nêu rõ các đối tượng phải trả cho công tác bảo vệ môi trường.


Các điều khoản của nghị định 175/CP đã chi tiết hoá và cụ thể hoá các điều
khoản luật bảo vệ môi trường. Đó là cơ sở cho việc nghiên cứu công cụ kinh tế và
công tác bảo vệ môi trường ở Việt nam.
3.3. Các văn bản liên quan khác.
Liên quan đến việc thực hiện áp dụng các công cụ kinh tế vào quản lý môi
trường ở Việt nam còn có nhiều văn bản khác của nhà nướcv các bộ liên quan như:
+ Quyết định số 276 ngày 28/7/1992nêu rằng tất cả các loại phí và lệ phí do
các cơ quan nhà nước thu cần được đăng ký tại cục thuế.
+ Thông tư 48TC/TCT về đăng ký thu phí và lệ phí ban hành 9/1992.
+ Nghị định số 26/CP ra ngày 26/4/1996 của chính phủ qui định sử phạt vi
phạm hành chínhvề bảo vệ môi trường.
Trong điều kiện 1 về nguyên tắc sử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi
trường, tại mục 1 và 5 nêu rõ.
“ Mọi hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các qui tấc quản lý nhà nước về bảo
vệ môi trường dưới đây gọi là vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường của các tổ
chức, cá nhân mà chưa đến mức truy cứu tách nhiệm hình sự theo qui định của
pháp luật phải xử phạt hành chính”.
“ Việc sử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường phải căn cứ vào
tính chất mức độ thân nhân và những tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng để
quyết định hình thức xử phạt và các biện pháp xử lý thích hợp theo quyết định của
nghị định này”.
Các văn bản đã nêu trên tạo thêm những điều kiện thuận lợi cho việc nghiên
cứu, thực thi và áp dụng các công cụ kinh tế vào hoàn cảnh của Việt nam cho giai
đoạn từ nay đến năm 2020.
4. Các loại công cụ kinh tế.

4.1. Tiền phí và tiền thuế.(Charges and taxes)


Làm tăng thêm cái giá phải trả cho những hoạt động có ảnh hưởng lớn
(Tham gia và cản trở) đến mục tiêu bảo vệ môi trường và thu thập chung của xã
hội. Một cách tổng quát, ta có thể chia những khoản tiền nói trên thành các loại
sau đây: Thuế đầu vào và đầu ra của sản phẩm, tiền thù lao (Hay tiền công) cho
việc phân phối, vận chuyển hàng hoá, tiền khuyến khích người sử dụng (Khuyến
mại) và lệ phí luân chuyển (Quay vòng), lệ phí đặt cọc trước.
4.2. Các chương trình thương mại.
Các chương trình thương mại có liên quan đến việc bảo vệ môi trường được
phản ánh bằng nhiều cách khác nhau thông qua những hạn nghạch (Quotas) có thể
trao đổi, mua bán  đặt công việc thu gom đồ phế thải gây ô nhiễm môi trường
và qui định mức ô nhiễm cho mỗi cá nhân. Trong giới hạn cho phép, những người
chủ gây ra ô nhiễm có thể buôn bán, trao đổi mức độ ô nhiễm đã được qui định
cho họ sao cho nó có thể đạt được tổng giá chi trả ít nhất (hay nhờ vào công cụ này
mà những người chủ gây ra ô nhiễm chịu mức chi phí thấp nhất cho việc bảo vệ
môi trường).
Liên quan đến việc phát thải còn có cả việc phát tán lẫn việc thu gom, vận
chuyển. Nguồn phế thải ghi trong chương trình thương mại có thể là điểm, các
nguồn di động hoặc cả hai nguồn đó.
Ngoài việc buôn bán giấy phép thu gom, xử lý chất thải còn có thể bán
nhiều loại giấy phép khác như: Giấy phép hoạt động tiêu thụ các chất độc hại, giấy
phép vật nuôi…
4.3. Hệ thống đặt cọc hoàn trả.
Là hệ thống áp đặt mọi sự đặt tiền trước ở vào lúc hàng hoá được mua và số
tiền đó sẽ được trả lại khi hàng hoá đã được quay vòng sử dụng.
Mặc dù thường mang tính truyền thống đối với các đồ uống (Giải khát)
nhưng nội dung của hệ thống đặt cọc hoàn trả đã được giảm bớt đi đối vớinhững
thứ có giá trị hơn. Hệ thống có thể được áp dụng cho bất kỳ sản phẩm nào mà

chúng đòi hỏi một sự tập trung cao để tái sử dụng, tái quay vòng nhằm đảm bảo an


toàn cho việc đặt cọc và hạn chế bớt những hàng hoá ít giá trị. Có thể dẫn ra
những chuyến tàu thuỷ vận chuyển ôtô, những công-ten-nơ thuốc trừ sâu, dầu hoả
và những hàng hoá trang thiết bị khác dễ xảy ra tai nạn thất thường để làm ví dụ.
4.4. Những chính sách khuyến khích về tài chính.
Những chính sách này nhằm khuyến khích sự giảm bớt chi tiêu trong việc
bảo vệ môi trường do chính phủ đề ra từ ngân sách nhà nước. Chẳng hạn như việc
trợ cấp, ban hành kỳ phiếu vay và cho vay, việc trợ cấp tỷ lệ lãi suất, việc bãi bỏ
hoặc giảm thuế cho một số mặt hàng nào đó.
4.5. Đầu tư cho bảo vệ môi trường.
Đây là công cụ quan trọng tạo ra nguồn kinh phí cơ hội tốt nhất cho sự phát
triển bền vững. Thực tiễn cho thấy quốc gia nào nhìn nhận sớm vấn đề này sẽ
tránh được những thiệt hại không đáng có do ô nhiễm môi trường và suy thoái môi
trường gây ra.
Đầu tư cho bảo vệ môi trường có thể được phân thành hai nhóm cơ bản:
+ Đầu tư quốc tế: Tức là đầu tư của các quốc gia, các tổ chức quốc tế và cá
nhân nước ngoài cho nước sở tại với mục tiêu bảo vệ môi trường. Ví dụ
như nguồn của UNDP, ODA, WB…
+ Đầu tư trong nước: Bao gồm việc huy động từ ngân sách nhà nước, vốn
trong dân cho mục tiêu bảo vệ môi trường, vốn từ các tổ chức phi chính
phủ ủng hộ cho mục tiêu bảo vệ môi trường. Có thể lấy ví dụ như chương
trình 327 của Việt nam là một hình thức sử dụng vốn của nhà nước cho bảo
vệ môi trường.
4.6. Các cơ chế thị trường khác.
4.6.1. Đảm bảo tài chính.
Được áp dụng khi chính phủ yêu cầu một công ty nào đó phải đảm bảo
trước chính phủ một tài sản, một giao kèo hoặc một khoản tiền mặt. Số thế chấp
(Đặt cọc) này chỉ được trả lại khi có đầy đủ chứng cớ chứng tỏ rằng công ty đã



chấp hành tốt chương trình bảo vệ môi trường. Nừu công ty không thi hành đúng
cam kết chương trình bảo vệ môi trường thì số tiền hoặc tài sản ký cược sẽ bị tịch
thu và xung vào công quỹ. Sau đó, có thể sử dụng tài sản ký cược này để chi trả
cho những phí tổn nhằm khôi phục lại môi trường, khắc phục những tổn hại mà
công ty đã gây ra, hoặc đền bù những thiệt hại cho nhân dân.
Đây là việc làm hợp lý vì một công ty nào đó có thể không chịu thực thi
chương trình, kế hoạch bảo vệ môi trường mà họ đã cam kết. Ngoài ra, đảm bảo
tài chính còn nhằm vào các mục đích:
+ Tăng cường sự thoả thuận giữa hai bên với những luật lệ kiểm tra nghiêm
ngặt.
+ Bảo vệ đất ngập nước ở gần đó khỏi sự buôn bán hoặc phát triển nhà ở.
+ Đảm bảo sự cải tạo sau khi khai thác mỏ một cách thích hợp.
+ Đảm bảo sự an toàn lao động, tăng cường quản lý đất hoang, đặc biệt là
quản lý việc lập đất, khôi phục quĩ đất.
4.6.2. Trách nhiệm pháp lý đối với môi trường.
Trách nhiệm pháp lý trước hết, qui định những người gây ô nhiễm phải trả
tiền do đã làm tổn hại đến môi trường, hoặc phải chi trả một số tiền để tu tạo lại
cảnh quan môi trường. Theo chế độ pháp lý này, những người gây ô nhiễm chỉ
phải chi trả tiền khi mà trước toà họ đã nhận là có lỗi.
Hai là, chế độ pháp lý gắn trách nhiệm bồi thường của bản thân người gây ô
nhiễm với những rủi ro môi trường do hành vi phạm luật của họ gây nên.


4.6.3. Cung cấp thông tin.
Là một thứ công cụ nhằm khai thác sức mạnh của thị trường để đạt tới các
kế hoạch bảo vệ môi trường một cách cần thiết. Bởi vì, việc cung cấp thông tin về

×