Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
Lời cam đoan
Em xin cam đoan những nội dung của chuyên đề này hoàn toàn không
có sự sao chép, tất cả các kết quả nghiên cứu của các tác giả khác được sử
dụng trong chuyên đề này đều có chú giải rõ ràng và trung thực.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đối với Cô giáo TS. Lê Thanh Tâm, người
đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các cô, các chú, các anh, các chị phòng
Tài chính - Kế toán Công ty điện tử công nghiệp, xin gửi tới cô Lê lời cảm ơn
trân trọng nhất đã hỗ trợ em trong việc sưu tầm tài liệu để em hoàn thành tốt
chuyên đề này.
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
1
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
Lời mở đầu
Trong cơ chế thị trường với sự canh tranh gay gắt về mọi mặt, đòi hỏi
các chủ thể kinh tế ngoài nguồn vốn tự có phải biết huy động vốn để đáp ứng
các yêu cầu của quá trình sản xuất – kinh doanh, đồng thời quan trọng hơn
nữa là việc phân phối, quản lý và sử dụng nguồn vốn kinh doanh một cách
hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất trên cơ sở chấp hành các chế độ, chính sách pháp
luật hiện hành. Hoạt động tài chính doanh nghiệp là hoạt động xuyên suốt tất
cả các khâu của quá trình sản xuất – kinh doanh, từ khâu huy động vốn cho tới
khâu cuối cùng là phân phối lãi thu được từ các hoạt động đó. Kết quả cuối
cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đồng thời là kết quả hoạt động
tài chính của doanh nghiệp. Do vậy mà hoạt động tài chính có vai trò to lớn
đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, đồng thời nó
cũng là một chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất – kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp.
Ngày nay, trong điều kiện các quan hệ kinh tế được mở rộng, tình hình
tài chính của mỗi doanh nghiệp không những được quan tâm bởi các nhà
quản lý doanh nghiệp mà các đối tượng khác có quan tâm như các cổ đông,
các nhà đầu tư, các đối tác, các cơ quan quản lý Nhà nước… cũng rất quan
tâm tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà việc thường
xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp sẽ giúp cho các đối
tượng sử dụng thông tin tài chính của doanh nghiệp nắm bắt được thực trạng
tài chính của doanh nghiệp, xác định được các nguyên nhân và mức độ ảnh
hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính cũng như các hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
2
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
Quá trình phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp chủ yếu dựa
trên các Báo cáo tài chính định kỳ như Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả
kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và các bảng phụ chú khác. Thông qua
việc phân tích các Báo cáo tài chính cho phép đánh giá được thực trạng tài
chính, kết quả cũng như trình độ sử dụng, quản lý vốn và triển vọng kinh tế -
tài chính của doanh nghiệp trong thời gian tới. Từ đó, có cơ sở để đưa ra các
giải pháp nhằm phát huy khả năng của doanh nghiệp, hạn chế những mặt còn
yếu kém nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo
điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp phát triển hơn nữa trong chiến lược sản
xuất kinh doanh của mình.
Ý thức được được tầm quan trọng nêu trên, trong quá trình thực tập tại
Công ty điện tử Công nghiệp, với đề tài “Phân tích tài chính tại Công ty điện
tử Công nghiệp” được em chọn làm chuyên đề thực tập để tiến hành phân tích
và đánh gia tình hình tài chính của Công ty trên cơ sở các Báo cáo tài chính
của Công ty. Cơ cấu của chuyên đề gồm 3 phần như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản của phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng phân tích tài chính của Công ty điện tử công
nghiệp
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện tình hình tài chính của
Công ty điện tử công nghiệp
Do trình độ có hạn, hơn nữa, thời gian nghiên cứu không có nhiều nên
chuyên đề của em không tránh khỏi có sai sót, rất mong được sự quan tâm
giúp đỡ của các Thầy, Cô để chuyên đề của em đạt được kết quả cao hơn.
Thông qua bài viết này, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu,
tận tình của các cô, chú, các anh, chị phòng Tài chính – Kế toán tại Công ty
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
3
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
điện tử công nghiệp. Em cũng xin chân thành cảm ơn Cô giáo Tiến sĩ Lê
Thanh Tâm đã giúp đỡ em hoành thành bài viết này!
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
4
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
Chương 1: Những vấn đề cơ bản của phân tích
tài chính doanh nghiệp
1.1. Những vấn đề cơ bản của tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm cơ bản về tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp (TCDN) được hiểu là những quan hệ giá trị
giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính
doanh nghiệp chủ yếu bao gồm:
Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước. Đây là mối quan hệ phát
sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, khi Nhà
nước góp vốn vào doanh nghiệp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính. Quan hệ này được
thể hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị
trường tài chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn
ngắn hạn, có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài
hạn. Ngược lại, doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho
các nhà tài trợ. Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư
chứng khoán bằng số tiền tạm thời chưa sử dụng.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác. Trong nền kinh tế,
doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác trên thị trường
hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là những thị trường mà tại đó
doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao
động v.v… Điều quan trọng là thông qua thị trường, doan nghiệp có thể xác
định nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
5
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị nhằm thoả
mãn nhu cầu thị trường.
Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp. Đây là quan hệ giữa các bộ phận
sản xuất – kinh doanh giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ,
giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này được thể
hiện thông qua hàng loạt chính sách của doanh nghiệp như: chính sách cổ tức
(phân phối thu nhập), chính sách đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn, chi phí
v.v…
1.1.2. Những nội dung cơ bản quản lý TCDN
Các quan hệ tài chính doanh nghiệp được thực hiện trong cả quá trình
sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.
Để tiến hành sản xuất - kinh doanh, nhà doanh nghiệp phải xử lý các
quan hệ tài chính thông qua phương thức giải quyết ba vấn đề quan trọng sau
đây:
Thứ nhất: Nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với
loại hình sản xuất – kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài
hạn của doanh nghiệp và là cơ sở để dự toán vốn đầu tư.
Thứ hai: Nguồn vốn đầu tư mà nhà doanh nghiệp có thể khai thác là
nguồn nào?
Thứ ba: Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày
như thế nào? Chẳng hạn, việc thu tiền từ khác hàng và trả tiền cho nhà cung
cấp? Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng kiên quan chặt chẽ tới
quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
6
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi vấn đề về tài chính doanh
nghiệp, nhưng đó là ba vấn đề lớn nhất và quan trọng nhất. Nghiên cứu tài
chính doanh nghiệp thực chất là nghiên cứu cách thức giải quyết ba vấn đề đó.
1.1.3. Mục tiêu quản lý TCDN
Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau
như: tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu trong ràng buộc tối đa hoá lợi
nhuận, tối đa hoá hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp v.v…,
song tất cả các mục tiêu cụ thể đó đều nhằm mục tiêu bao trùm nhất là tối đa
hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Bởi lẽ, một doanh nghiệp phải thuộc về
các chủ sở hữu nhất định; chính họ phải nhận thấy giá trị đầu tư của họ tăng
lên; khi doanh nghiệp đặt ra mục tiêu là tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu,
doanh nghiệp đã tính tới sự biến động thị trường, các rủi ro trong hoạt động
kinh doanh. Quản lý tài chính doanh nghiệp chính là nhằm thực hiện được
mục tiêu đó.
Các quyết định tài chính trong doanh nghiệp: Quyết định đầu tư, quyết
định huy động vốn, quyết định về phân phối, ngân quỹ có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Trong quản lý tài chính, nhà quản lý phải cân nhắc các yếu tố
bên trong và các yếu tố bên ngoài để đưa ra các quyết định làm tăng giá trị tài
sản của chủ sở hữu, phù hợp với lợi ích của chủ sở hữu.
1.1.4. Vai trò quản lý TCDN
Quản lý tài chính luôn luôn giữ một vị trí trọng yếu trong hoạt động
quản lý của doanh nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh. Đặc biệt trong xu thế hội nhập khu vực và
quốc tế, trong điều kiện cạnh tranh đang diễn ra khốc liệt trên phạm vi toàn
thế giới, quản lý tài chính trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Bất kỳ ai liên
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
7
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
kết, hợp tác với doanh nghiệp cũng sẽ được hưởng lợi nếu như quản lý tài
chính của doanh nghiệp có hiệu quả, ngược lại, họ sẽ bị thua thiệt khi quản lý
tài chính kém hiệu quả.
Quản lý tài chính là sự tác động của nhà quản lý tới các hoạt động tài
chính của doanh nghiệp. Nó được thực hiện thông qua một cơ chế. Đó là cơ
chế quản lý tài chính doanh nghiệp. Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp
được hiểu là một tổng thể các phương pháp, các hình thức và công cụ được
vận dụng để quản lý các hoạt động của tài chính của doanh nghiệp trong
những điều kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp bao gồm:
Cơ chế quản lý tài sản; cơ chế huy động vốn; cơ chế quản lý doanh thu, chi
phí và lợi nhuận; cơ chế kiểm soát tài chính của doanh nghiệp.
Quản lý tài chính là một hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với mọi hoạt
động của doanh nghiệp. Quản lý tài chính tốt có thể khắc phục được những
khiếm khuyết trong các lĩnh vực khác. Một quyết định tài chính không được
cân nhắc, hoạch định kỹ lưỡng có thể gây nên tổn thất khôn lường cho doanh
nghiệp và cho nền kinh tế. Hơn nữa, do doanh nghiệp hoạt động trong môi
trường nhất định nên các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả sẽ góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bởi vậy, quản lý tài chính doanh nghiệp tốt có
vai trò quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính quốc gia.
1.1.5. Nguyên tắc quản lý TCDN
1.1.5.1. Nguyên tắc đánh đổi rủi ro và lợi nhuận
Quản lý tài chính phải được dựa trên quan hệ rủi ro và lợi nhuận. Nhà
đầu tư có thể lựa chọn những đầu tư khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro
mà họ chấp nhận và lợi nhuận kỳ vọng mà họ mong muốn. Khi họ bỏ tiền vào
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
8
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
những dự án có mức độ rủi ro cao, họ hy vọng dự án sẽ đem lại lợi nhuận kỳ
vọng cao.
1.1.5.2. Nguyên tắc giá trị thời gian của tiền
Để đo lường giá trị tài sản của chủ sở hữu, cần sử dụng khái niệm giá trị
thời gian của tiền, tức là phải đưa lợi ích và chi phí của dự án về một thời
điểm hiện tại. Theo quan điểm của nhà đầu tư, dự án được chấp nhận khi lợi
ích lớn hơn chi phí. Trong trường hợp này, chi phí cơ hội của vốn được đề cập
như là tỷ lệ chiết khấu.
1.1.5.3. Nguyên tắc chi trả
Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải đảm bảo mức ngân
quỹ tối thiểu để thực hiện chi trả. Do vậy, điều đáng quan tâm ở các doanh
nghiệp là các dòng tiền chứ không phải là lợi nhuận kế toán. Dòng tiền ra và
dòng tiền vào được tái đầu tư phản ánh tính chất thời gian của lợi nhuận và chi
phí. Không những thế, khi đưa ra các quyết định kinh doanh, nhà doanh
nghiệp cần tính đến dòng tiền tăng thêm, đặc biệt cần tính đến các dòng tiền
sau thuế.
1.1.5.4. Nguyên tắc sinh lợi
Nguyên tắc quan trọng đối với nhà quản lý tài chính không chỉ đánh giá
các dòng tiền mà dự án đem lại mà còn là tạo ra các dòng tiền, tức là tìm kiếm
các dự án sinh lợi. Trong thị trường cạnh tranh, nhà đầu tư khó có thể kiếm
được nhiều lợi nhuận trong một thời gian dài, khó có thể kiếm được nhiều dự
án tốt. Muốn vậy, cần phải biết các dự án sinh lợi tồn tại như thế nào và ở đâu
trong môi trường cạnh tranh. Tiếp đến, khi đầu tư, nhà đầu tư phải biết làm
giảm tính cạnh tranh của thị trường thông qua việc tạo ra những sản phẩm
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
9
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
khác biệt với sản phẩm cạnh tranh và bằng cách đảm bảo mức chi phí thấp
hơn mức chi phí cạnh tranh.
1.1.5.5. Nguyên tắc thị trường có hiệu quả
Trong kinh doanh, những quyết định nhằm tối đa hoá giá trị tài sản của
các chủ sở hữu làm thị giá cổ phiếu tăng. Như vậy, khi đưa ra các quyết định
tài chính hoặc định giá chứng khoán, cần hiểu rõ khái niệm thị trường có hiệu
quả. Thị trường có hiệu quả là thị trường mà ở đó giá trị của các tài sản tại bất
kỳ một thời điểm nào đều phản ánh đầy đủ các thông tin một cách công khai.
Trong thị trường có hiệu quả, giá cả được xác định chính xác. Thị giá cổ phiếu
phản ánh tất cả thông tin sẵn có và công khai về giá trị của một doanh nghiệp.
Điều đó có nghĩa là mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của các cổ đông có thể
đạt được trong những điều kiện nhất định bằng cách nghiên cứu tác động của
các quyết định tới thị giá cổ phiếu.
1.1.5.6. Gắn kết lợi ích của người quản lý với lợi ích của cổ
đông
Nhà quản lý tài chính chịu trách nhiệm phân tích, kế hoạch hoá tài
chính, quản lý ngân quỹ, chi tiêu cho đầu tư và kiểm soát. Do đó, nhà quản lý
tài chính thường giữ vị trí cao trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp và thẩm
quyền tài chính ít khi được phân quyền hoặc uỷ quyền cho cấp dưới.
Nhà quản lý tài chính chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và
thường đưa ra các quyết định tài chính trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính
thường ngày do các nhân viên cấp thấp hơn phụ trách. Các quyết định và hoạt
động của nhà quản lý tài chính đều nhằm vào các mục tiêu của doanh nghiệp.
Đó là sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh được sự căng thẳng về
tài chính và phá sản, có khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối đa
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
10
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
trên thương trường, tối thiểu hoá chi phí và tăng thu nhập của chủ sở hữu một
cách vững chắc. Nhà quản lý tài chính đưa ra các quyết định vì lợi ích của các
cổ đông của doanh nghiệp. Nhà quản lý tài chính hành động vì lợi ích tốt nhất
của cổ đông bằng các quyết định làm tăng giá trị thị trường cổ phiếu. Mục tiêu
của quản lý tài chính là tối đa hoá giá trị hiện hành trên một cổ phiếu, là tăng
giá trị của doanh nghiệp. Do đó, phải xác định được kế hoạch đầu tư và tài trợ
sao cho giá trị cổ phiếu có thể được tăng lên.
1.1.5.7. Tác động của thuế
Trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định tài chính nào, nhà quản lý tài
chính luôn tính tới tác động của thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp.
Khi xem xét một quyết định đẩu tư, doanh nghiệp phải tính tới lợi ích thu
được trên cơ sở dòng tiền sau thuế do dự án tạo ra. Hơn nữa, tác động của
thuế cần được phân tích kỹ lưỡng khi thiết lập cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Bởi lẽ, khoản nợ có một lợi thế nhất định về chi phí so với vốn chủ sở hữu.
Đối với doanh nghiệp, chi phí trả lãi là chi phí giảm thuế. Vì thuế là một công
cụ quản lý vĩ mô của Chính phủ nên thông qua thuế, Chính phủ có thể khuyến
khích hoặc hạn chế tiêu dùng và đầu tư. Các doanh nghiệp cần cân nhắc, tính
toán để điều chỉnh các quyết định tài chính cho phù hợp, đảm bảo được lợi ích
của các cổ đông.
1.1.6. Bộ máy quản lý TCDN
Quản lý tài chính là hoạt động có tầm quan trọng số một trong hoạt
động của doanh nghiệp. Quản lý tài chính thường thuộc về nhà lãnh đạo cấp
cao của doanh nghiệp như phó tổng giám đốc thứ nhất hoặc giám đốc tài
chính. Đôi khi chính tổng giám đốc làm nhiệm vụ của nhà quản lý tài chính.
Trong các doanh nghiệp lớn, các quyết định quan trọng về tài chính thường do
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
11
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
một uỷ ban tài chính đưa ra. Trong các doanh nghiệp nhỏ, chính chủ nhân –
tổng giám đốc đảm nhận quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Phòng, ban tài chính có nhiệm vụ:
Trên cơ sở luật và chế độ quản lý tài chính của Nhà nước, xây dựng chế
độ quản lý tài chính thích hợp với doanh nghiệp, cụ thể:
- Lập kế hoạch tài chính đồng thời và thống nhất với kết quả sản xuất
– kinh doanh của doanh nghiệp.
- Lựa chọn các phương thức huy động vốn và đầu tư có hiệu quả nhất.
- Tổ chức thanh toán kịp thời, đầy đủ, đúng hạn và đúng chế độ các
khoản nợ và đôn đốc thu nợ.
- Tổ chức phân tích tài chính doanh nghiệp và kiểm tra tài chính.
- Tham gia xây dựng giá bán và thiết lập các hợp đồng kinh tế với
khách hàng.
1.2. Những vấn đề cơ bản của phân tích TCDN
1.2.1. Khái niệm về phân tích TCDN
Phân tích tài chính là một quá trình kiểm tra, xem xét các số liệu về tài
chính hiện hành và trong quá khứ nhằm mục đích đánh giá thực trạng tài
chính, dự tính các rủi ro và tiềm năng trong tương lai của một doanh nghiệp,
trên cơ sở đó giúp các nhà phân tích ra các quyết định tài chính có liên quan
tới lợi ích của họ trong doanh nghiệp đó.
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
12
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
1.2.2. Mục tiêu phân tích TCDN
1.2.2.1. Phân tích tài chính đối với nhà quản trị
Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ
sở để định hướng các quyết định của ban tổng giám đốc, gím đốc tài chính, dự
báo tài chính: kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các hoạt động quản lý.
1.2.2.2. Phân tích tài chính đối với nhà đầu tư
Nhà đầu tư cần biết tình hính thu nhập của chủ sở hữu – lợi tức cổ phần
và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm tới phân tích tài chính để
nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ
giúp họ ra quyết bỏ vốn vào donah nghiệp hay không?
1.2.2.3. Phân tích tài chính đối với người cho vay
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ
của khách hàng. Chẳng hạn, để quết định cho vay, một trong những vấn đề mà
người cho vay cần xem xét là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu vay hay
không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào?
Ngoài ra, phân tích tài hcính cũng rất cần thiết đối với người hưởng
lương trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật
sư, … Dù họ công tác ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng họ đều muốn hiểu biết
về hoạt động của doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ.
Như vậy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là
đánh giá khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu
hiện của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hạot động
cũng như khả năng sinh lãi của donh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nàh phân tích
tài chính tiếp tục nghiên cữu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
13
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
nối chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp tronh tương lai. Nói
cách khác, phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính. Phân tích tài
chính có thế được ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau: với mục đích tác
nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ), với mục đích nghiên cứu, thông tin
hoặc theo vị trí của nhà phân tích (trong doanh nghiệp hoặc nghoài doanh
nghiệp). Tuy nhiên, trình tự phân tích và dự đoán tài chính đều phải tuân theo
các nghiệp phân tích thích ứng với từng giai đoạn dự đoán.
1.2.3. Các Báo cáo tài chính chủ yếu trong việc phân tích TCDN
1.2.3.1. Bảng CĐKT
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát
toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành nên tài sản đó của doanh
nghiệp tại một thời điểm nhất định.
Kết cấu của bảng cân đối kế toán gồm 2 phần:
- Phần tài sản:
Phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp, bao gồm: tài
sản ngắn hạn (Loại A) và tài sản dài hạn (loại B). Mỗi loại đó lại bao gồm
nhiều chỉ tiêu khác nhau được sắp xếp theo theo một trình tự phù hợp với yêu
cầu của công tác quản lý trong từng giai đoạn. Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu
ở phần này phản ánh số tài sản hiện có của doanh nghiệp ở thời điểm lập báo
cáo; còn xét về mặt pháp lý, nó phản ánh vốn thuộc quyền sở hữu hoặc quyền
quản lý lâu dài của doanh nghiệp.
- Phần nguồn vốn:
Phản ánh nguồn hình thành nên các tài sản, bao gồm: Nợ phải trả (loại
A) và nguồn vốn chủ sở hữu (loại B). Mỗi loại A và B lại bao gồm các chỉ
tiêu khác nhau và cũng được sắp xếp theo một trình tự thích hợp với yêu cầu
của công tác quản lý.
Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần nguồn vốn phản ánh các
nguồn hình thành nên tài sản có của doanh nghiệp; còn xét về phương diện
pháp lý, các chỉ tiêu này phản ánh trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối
với các đối tượng đầu tư vốn (Nhà nước, ngân hàng, cổ đông), cũng như với
khách hàng thông qua công nợ phải trả.
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
14
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
Bảng cân đối kế toán có những đặc điểm như sau:
+) Các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán được phản ánh dưới hình thái
giá trị. Cho nên, ta có thể tổng hợp được toàn bộ tài sản của doanh nghiệp tại
một thời điểm. Từ đó, cho phép ta đánh giá khái quát tình hình tài chính qua
các chỉ tiêu trên.
+) Các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán được phản ánh tại một thời
điểm nhất định, thời điểm đó thường là vào ngày cuối cùng của kỳ hạch toán.
Căn cứ vào hai số liệu ở hai thời điểm đầu năm và cuối kỳ cho phép ta đánh
giá những biến động của tài sản và nguồn vốn giữa các kỳ kế toán.
+) Bảng cân đối kế toán có kết cấu 2 phần, thực chất là phản ánh 2 mặt
của một lượng tài sản, cho nên tổng tài sản luôn luôn bằng tổng nguồn vốn,
tức là:
Tài sản = Nguồn vốn
Hay: Tài sản = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
Hoặc: Vốn chủ sở hữu = Tài sản - Nợ phải trả.
Như vậy, thông qua bảng cân đối kế toán, ta có thể biết được toàn bộ tài
sản hiện có của doanh nghiệp, hình thái vật chất, cơ cấu của tài sản, nguồn
vốn và cơ cấu nguồn vốn. Do đó, bảng cân đối kế toán là một tài liệu quan
trọng để nghiên cứu đánh giá một cách tổng quát tình hình và kết quả kinh
doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh
nghiệp.
Bảng cân đối kế toán: biểu B01-DN
1.2.3.2. Báo cáo kết quả KD
Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân
tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo Kết quả kinh doanh. Khác
với Bảng cân đối kế toán, báo cáo Kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển
của tiền trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép
dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo Kết
quả kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực
nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ; so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền
thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
15
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
thể xác định được kết quả sản xuất – kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Như
vậy, báo cáo Kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất – kinh
doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất
định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng
các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất – kinh
doanh của doanh nghiệp.
Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên báo cáo Kết quả kinh
doanh: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh; doanh thu từ hoạt động
tài chính; doanh thu từ hạot động bất thường và chi phí tương ứng với từng
hoạt đó.
Những loại thuế như: VAT, thuế TTĐB, về bản chất, không phải là
doanh thu và không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không được phản
ánh trên báo cáo Kết quả kinh doanh. Toàn bộ các khoản thuế đối với doanh
nghiệp và các khoản phải nộp khác được phản ánh trong phần: Tình hình thực
hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
Về kết cấu : Mẫu số B02- DN
1.2.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Lưu chuyển tiền tệ: là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kì báo cáo của DN.
- Mục đích của báo cáo lưu chuyển tiền tệ: báo cáo các khoản thu, chi
tiền được phân loại theo các hoạt động.
- Ý nghĩa của báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
+) Xác định lượng tiền do các hoạt động kinh doanh mang lại trong kì
và dự đoán các dòng tiền trong tương lai.
+) Đánh giá khả năng thanh toán nợ vay và khả năng trả lãi cổ phần
bằng tiền.
+) Chỉ ra mối liên hệ giữa lãi, lỗ ròng và việc thay đổi tiền của DN.
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
16
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
+) Là công cụ lập kế hoạch
- Cấu trúc của báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Theo chế độ kế toán quốc tế cũng như chế độ kế toán Việt Nam qui
định một báo cáo lưu chuyển tiền tệ phải được chia làm 3 phần:
+) Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh phản ánh toàn bộ dòng tiền
thu vào hoặc chi ra liên quan đến hoạt động kinh doanh của DN.
+) Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư: phản ánh toàn bộ dòng tiền thu
vào hoặc chi ra liên quan đến hoạt động đầu tư của DN.
+) Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính: phản ánh toàn bộ dòng tiền
thu vào hoặc chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động tài chính của DN.
Mẫu số B03 – DN
1.2.3.4. Thuyết minh báo cáo tài chính
- Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo
cáo tài chính của DN, được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình
hoạt động sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính của DN trong kì báo cáo
mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết được.
- Nội dung của báo cáo:
+) Trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của DN.
+) Nội dung một số chế độ kế toán được DN lựa chọn để áp dụng.
+) Tình hình và lí do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn
vốn đối tượng quan trọng.
+) Phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và kiến nghị của DN.
Mẫu số B 04 - DN
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
17
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
1.2.4. Phương pháp và nội dung phân tích TCDN
1.2.4.1. Phương pháp phân tích TCDN
Để có thể tiến hành phân tích hoạt động tài chính người ta có thể sử các
phương pháp sau:
1.2.4.1.1. Phương pháp so sánh
Là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích hoạt động tài
chính để xác định xu hương, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Để có
thể tiến hành so sánh, trước hết cần phải giải quyết những vấn đề cơ bản như
xác định số gốc để so sánh, điều kiện để so sánh và phải xác định được mục
tiêu so sánh. Ngoài việc so sánh theo thời gian, khi phân tích tài chính người
ta còn tiến hành so sánh kết quả kinh doanh giữa các đơn vị. Các điều kiện so
sánh cần phải được quan tâm khác nhau khi so sánh theo thời gian và không
gian. Các điều kiện cần chú ý khi so sánh là:
- Đảm bảo tính thống nhất về nội dung của các chỉ tiêu.
- Đảm bảo tính thống nhất về phương pháp tính các chỉ tiêu.
- Đảm bảo tính thống nhất về đơn vị tính.
Phương pháp so sánh được thực hiện cụ thể thông qua các cách thức
sau:
+ So sánh bằng số tuyệt đối: Việc so sánh này giúp nhà phân tích biết
được quy mô mà doanh nghiệp đã đạt được tăng (+) hay giảm (-) kế hoạch
qua kỳ phân tích với kỳ gốc và được thể hiện thông qua giá trị.
+ So sánh bằng số tương đối: Phương pháp so sánh này phản ánh kết
cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển hay mức độ của chỉ tiêu phân tích. Phương
pháp này được thể hiện qua:
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
18
ti: Phân tích tài chính tại Công ty điện tử công nghiệp
* S tng i k hoch: Phn ỏnh mc m doanh nghip cn t
ti.
* S tng i phn ỏnh tỡnh hỡnh thc hin k hoch.
* S tng i ng thỏi: Phn ỏnh nhp bin ng hay tc tng
trng ca ch tiờu phõn tớch v thng c s dng di hai dng:
. C nh k gc.
. K gc liờn hon.
* S tng i kt cu: Phn ỏnh t trng ca tng b phn chim trong
tng s.
* S tng i hiu sut (cng ): Phn ỏnh tng quỏt cht lng ti
chớnh.
+ So sỏnh bng s tng i bỡnh quõn: S tng i bỡnh quõn phn
ỏnh c im in hỡnh ca n v. Khi so sỏnh bng ch tiờu ny s cho nh
phõn tớch thy mc m doanh nghip t c so vi mc bỡnh quõn ca
tng th.
1.2.4.1.2. Phng phỏp chi tit
Mọi kết quả kinh doanh đều cần thiết và có thể chi tiết theo những hớng
khác nhau. Khi sử dụng phơng pháp này ngời sử dụng thông tin sẽ nắm đợc các
thông tin cần thiết một cách rõ ràng, chi tiết, thuận lợi cho việc đánh giá. Khi
tiến hành phân tích theo phơng pháp chi tiết, nhà phân tích có thể thực hiện theo
những hớng sau:
- Chi tiết theo các bộ phận cấu thành của các chỉ tiêu:
Mọi kết quả kinh doanh đợc thể hiện trên các chỉ tiêu đều bao gồm nhiều
bộ phận. Chi tiết các chỉ tiêu theo các bộ phận cùng với sự biểu hiện về lợng của
Thỏi Sinh - Chuyờn ngnh TCDN - Khoa Ngõn hng - Ti chớnh
19
ti: Phân tích tài chính tại Công ty điện tử công nghiệp
các bộ phận đó sẽ rất thuận lợi cho việc đánh giá chính xác kết quả mà doanh
nghiệp đạt đợc.
- Chi tiết theo thời gian:
Mọi kết quả của hoạt động tài chính bao giờ cũng là kết quả của một qúa
trình. Do nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khác quan khác nhau nên tiến độ
thực hiện các quá trình đó trong từng đơn vị thời gian thờng không đồng đều.
Chi tiết theo thời gian sẽ giúp ích cho việc đánh giá kết quả đạt đợc sát và đúng,
tìm đợc giải pháp có hiệu quả.
- Chi tiết theo địa điểm:
Phơng pháp này thờng đợc sử dụng để đánh giá kết quả thực hiện hạch
toán kinh doanh nội bộ, ví dụ nh trong các phân xởng, trong các đội, tổ...; hoặc
sử dụng để phát hiện ra các đơn vị tiên tiến hay lạc hậu trong việc thực hiện các
mục tiêu của doanh nghiệp; hoặc sử dụng để khai thác các khả năng tiềm tàng
về sử dụng vật t, lao động, vốn...
1.2.4.1.3. Phng phỏp loi tr
Là phơng pháp xác định và mức độ ảnh hởng của từng nhân tố đến kết
quả của hoạt động bằng cách loại trừ ảnh hởng của các nhân tố khác. Để nghiên
cứu ảnh hởng của một nhân tố, phải loại trừ mức độ ảnh hởng của nhân tố khác
bằng cách trực tiếp dựa vào mức độ biến động ở từng nhân tố, hoặc dựa cũng có
thể vào từng phơng pháp sau:
- Phơng pháp số chênh lệch:
Theo phơng pháp này, với mỗi sự thay đổi một chỉ tiêu ta có thể xác định
đợc sự thay đổi của kết quả cần nghiên cứu bằng cách dựa trên mối tơng quan
giữa các nhân tố để lập phơng trình tính toán.
Thỏi Sinh - Chuyờn ngnh TCDN - Khoa Ngõn hng - Ti chớnh
20
ti: Phân tích tài chính tại Công ty điện tử công nghiệp
- Phơng pháp thay thế liên hoàn:
Theo phơng pháp này ta có thể xác định đợc ảnh hởng của các nhân tố
qua việc thay thế lần lợt và liên tiếp các nhân tố để xác định trị số của chỉ tiêu
khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó lấy kết quả trừ đi chỉ tiêu cha có biến đổi của
nhân tố nghiên cứu sẽ xác định đợc ảnh hởng của nhân tố này.
1.2.4.1.4. Phng phỏp liờn h
Khi sử dụng phơng pháp này để đánh giá đợc chỉ tiêu ta có thể xem xét
chỉ tiêu trên cơ sở lợng hoá các mối liên hệ giữa các mặt, các bộ phận. Cụ thể,
phơng pháp này gồm các phơng pháp nhỏ sau:
- Phơng pháp liên hệ cân đối:
Trên cơ sở sự cân bằng về lợng giữa hai mặt của các nhân yếu tố sẽ dẫn
đến sự cân bằng cả về mức độ biến động (chênh lệch) về lợng giữa các mặt của
các yếu tố. Đây cũng chính là nguyên tắc xác định của phơng pháp này.
- Phơng pháp liên hệ trực tuyến:
Là mối liên hệ theo một hớng xác định giữa các chỉ tiêu phân tích. Trong
mối liên hệ này, theo mức độ phụ thuộc của các chỉ tiêu có thể phân thành hai
loại liên hệ chủ yếu:
+ Liên hệ trực tiếp
+ Liên hệ gián tiếp
Nh vậy, có rất nhiều phơng pháp phân tích, phải tuỳ thuộc theo từng lĩnh
vực đặc thù và mục đích của việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp mà
nhà phân tích cần phải lựa chọn phơng pháp phân tích sao cho phù hợp, đảm bảo
cho kết quả của việc phân tích là chính xác và mang tính chất khách quan.
1.2.4.2. Ni dung phõn tớch TCDN
1.2.4.2.1. Phõn tớch c cu ti chớnh v tỡnh hỡnh u t
Thỏi Sinh - Chuyờn ngnh TCDN - Khoa Ngõn hng - Ti chớnh
21
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
1.2.4.2.1.1. Các chỉ tiêu phân tích cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư
a) Hệ số nợ và tỷ suất tự tài trợ
Hệ số nợ: được đo bằng tỷ số giữa tổng số nợ phải trả với tổng tài sản
hay tổng nguồn vốn của DN:
Tổng số nợ phải trả
Hệ số nợ =
Tổng NV của DN
Hệ số nợ nói lên trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn vốn từ
bên ngoài (từ các chủ nợ) là bao nhiêu phần hay trong tổng số tài sản hiện có
của doanh nghiệp, có bao nhiêu phần do vay nợ mà có.
Tỷ suất tự tài trợ: Chỉ tiêu tỷ suất tự tài trợ để đo lường sự góp vốn của
chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được tính
như sau:
NV CSH
Tỷ suất tự tài trợ = = 1 – Hệ số nợ
Tổng NV
Nếu hệ số nợ càng thấp (hay tỷ suất tự tài trợ càng cao) thì sự phụ thuộc
của doanh nghiệp vào người cho vay càng ít, món nợ của người cho vay càng
được đảm bảo và do vậy việc cho vay càng an toàn và ngược lại sẽ kém an
toàn.
b) Hệ số nợ dài hạn
Nợ dài hạn
=
NV CSH
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ phụ thuộc của DN đối với chủ nợ. Chỉ
tiêu này càng cao thì rủi ro của DN càng tăng. Chỉ tiêu này cao hay thấp cũng
tuỳ theo từng ngành hoạt động. Chẳng hạn: ngành có tài sản cố định chiếm tỷ
trọng lớn thường có hệ số này cao hơn. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm ở một số
nước, để hạn chế rủi ro tài chính, thường người cho vay chỉ chỉ chấp nhận chỉ
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
22
Nợ dài hạn trên
Nguồn vốn CSH
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
tiêu này ở mức < 1 hay nợ dài hạn không vượt quá nguồn vốn chủ sở hữu. Khi
chỉ tiêu này càng gần 1, doanh nghiệp càng ít có khả năng được vay thêm các
khoản vay dài hạn.
c) Tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết mức độ tài trợ tài sản cố định và đầu tư dài hạn bằng
nguồn vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
NV CSH
=
TSCĐ và ĐTDH
Tỷ suất này lớn hơn 1, thể hiện khả năng tài chính vững vàng. Ngược
lại, nếu nhỏ hơn 1 có nghĩa là có một phần tài sản cố định được tài trợ bằng
nguồn vốn vay.
Nếu nguồn vốn đó là vốn ngắn hạn thể hiện doanh nghiệp đang kinh
doanh trong cơ cấu vốn mạo hiểm.
d) Hệ số khả năng thanh toán lãi tiền vay
LN trước thuế + Lãi tiền vay phải trả
=
Lãi tiền vay phải trả
Hệ số này nói lên trong kỳ DN đã tạo ra lợi nhuận gấp bao nhiêu lần lãi
phải trả về tiền vay. Hệ số này càng cao thì rủi ro mất khả năng chi trả lãi tiền
vay càng thấp và ngược lại. Thông thường hệ số này được các chủ nợ chấp
nhận nhận ở mức hợp lý khi nó ≥ 2.
e) Tỷ suất đầu tư
TSCĐ
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
23
Tỷ suất tự tài trợ
TSCĐ
Tỷ suất tự tài trợ
TSCĐ
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
Tỷ suất đầu tư TSCĐ =
Tổng tài sản
Thực chất của chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng của tài sản cố định của
doanh nghiệp trong tổng tài sản nói chung. Chỉ tiêu này càng lớn và xu hướng
ngày một tăng thể hiện tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh
nghiệp tăng lên, điều này tạo năng lực sản xuất và xu hướng phát triển kinh
doanh lâu dài, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Tuy nhiên, để có kết luận chỉ tiêu này là tốt hay xấu, đã đáp ứng yêu
cầu sản xuất của doanh nghiệp hay chưa còn tuỳ thuộc vào ngành kinh doanh
của doanh nghiệp trong một thời gian cụ thể. Chẳng hạn tỷ lệ hợp lý cho một
số ngành như sau:
- Ngành công nghiệp thăm dò và khai thác mỏ: 90%
- Ngành công nghiệp luyện kim: 70%
- Ngành công nghiệp chế biến: 10 – 15% ...
1.2.4.2.1.2. Phương pháp phân tích
So sánh các chỉ tiêu cuối kỳ với đầu năm hoặc so sánh các chỉ tiêu của
doanh nghiệp với các chỉ tiêu bình quân của ngành.
1.2.4.2.2. Phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn
1.2.4.2.2.1. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán ngắn hạn
Đây là những hệ số được rất nhiều người quan tâm như: các nhà ngân
hàng, nhà đầu tư, người cung cấp... Trong mọi quan hệ với doanh nghiệp, họ
luôn đặt ra câu hỏi: liệu doanh nghiệp có đủ khả năng chi trả các khoản nợ đến
hạn không? Để trả lời câu hỏi trên, các chỉ tiêu sau đây thường được sử dụng:
a) Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
TSLĐ và ĐTNH
=
Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn đo lường khả năng mà các tài
sản NH có thể chuyển đổi thành tiền để hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn. Nếu
hệ số này cao, có thể đem lại sự an toàn về khả năng bù đắp cho sự giảm giá
trị của TSNH. Điều đó thể hiện tiềm năng thanh toán cao so với nghĩa vụ phải
thanh toán. Tuy nhiên, một DN có hệ số KNTT nợ ngắn hạn quá cao cũng có
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
24
Hệ số khả năng thanh
toán nợ ngắn hạn
Đề tài: Ph©n tÝch tµi chÝnh t¹i C«ng ty ®iÖn tö c«ng nghiÖp
thể DN đó đã đầu tư quá đáng vào tài sản hiện hành, một sự đầu tư không
mang lại hiệu quả. Mặt khác, trong toàn bộ tài sản NH của doanh nghiệp, khả
năng chuyển hoá thành tiền của các bộ phận là khác nhau. Khả năng chuyển
hoá thành tiền của bộ phận hàng tồn kho thường được coi là kém nhất. Do
vậy, để đánh giá khả năng thanh toán một cách khắt khe hơn, có thể sử dụng
hệ số khả năng thanh toán nhanh.
b) Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số khả năng thanh toán nhanh đo lường khả năng thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp bằng việc chuyển đổi các tài sản lưu
động, không kể hàng tồn kho. Hệ số này được tính như sau:
Tiền + ĐTTC ngắn hạn + Phải thu
=
Nợ ngắn hạn
Nhiều trường hợp, tuy doanh nghiệp có hệ số khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn và hệ số khả năng thanh toán nhanh cao nhưng vẫn không có khả
năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đến hạn thanh toán do các khoản phải
thu chưa thu hồi được hàng tồn kho chưa chuyển hoá được thành tiền. Bởi
vậy, muốn biết khả năng thanh toán ngay của doanh nghiệp tại thời điểm xem
xét, nhà phân tích còn có thể sử dụng chỉ tiêu sau:
Tiền + ĐTTC ngắn hạn
=
Nợ ngắn hạn
Nhiều chủ nợ cho rằng nhìn chung hệ số khả năng thanh toán hiện hành
nên ở mức bằng 2, hệ số khả năng thanh toán nhanh nên ở mức bằng 1 và hệ
số khả năng thanh toán ngay nên ở mức 0,5 là hợp lí. Tuy nhiên, trong thực tế,
các hệ số này được chấp nhận là cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào đặc điểm,
tính chất kinh doanh, mặt hàng kinh doanh của mỗi ngành kinh doanh, cơ cấu,
chất lượng của tài sản NH, hệ số quay vòng của tài sản NH trong mỗi loại
hình doanh nghiệp... Do vậy, cách xem xét tốt nhất là so sánh các hệ số khả
năng thanh toán của doanh nghiệp với hệ số khả năng thanh toán trung bình
Thái Sinh - Chuyên ngành TCDN - Khoa Ngân hàng - Tài chính
25
Hệ số khả năng
thanh toán nhanh
Hệ số khả năng
thanh toán ngay