Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bài tập lớp Tư tưởng Hồ Chí Minh: Đạo đức cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.58 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH DOANH THƯƠNG MẠI

BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG

HỒ CHÍ MINH

ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy phân tích luận điểm sau đây của Hồ Chí Minh:
"Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong". Giá trị của luận điểm nêu trên đối với việc giáo dục đạo đức cho cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hiện nay?
Họ và tên sinh viên:
MSV:
Lớp tín chỉ:
Giảng viên:

HÀ NỘI - 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.................................3
1.

Khái niệm “đạo đức cách mạng”................................................................3

2.

Vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng.............................................4



3.

Những chuẩn mực đạo đức cách mạng.....................................................5

Chương 2: Luận điểm của Hồ Chí Minh về tu dưỡng đạo đức suốt đời............8
1. Việc tu dưỡng đạo đức phải được tiến hành thường xuyên, bền bỉ, suốt
cả cuộc đời............................................................................................................8
2.

Việc tu dưỡng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện của mỗi người......9

3. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện thông qua các hoạt động thực
tiễn của mỗi người.............................................................................................10
Chương 3: Vận dụng luận điểm của Hồ Chí Minh để đưa ra các phải pháp
giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong giai
đoạn hiện nay.........................................................................................................10
1. Thực trạng đạo đức cách mạng của các bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân.............................................................................................................10
2. Giải pháp giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân trong giai đoạn hiện nay.............................................................................12
KẾT LUẬN.............................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................17


MỞ ĐẦU
Trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc” xuất bản năm 1947, Bác Hồ đã viết về đạo đức cách
mạng: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải
có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”. Bác ví đạo đức đối với người

cách mạng như hình ảnh cái gốc của cây, ngọn nguồn của sơng nước, từ đó có thể thấy
đạo đức giữ vai trò quan trọng giống như nền tảng và sức mạnh của người cách mạng.
Làm cách mạng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian
khổ vì thế người cách mạng cần phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn
thành được nhiệm vụ cao cả ấy. Đồng thời, Bác đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa
đạo đức và tài năng; người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân, không làm được cách mạng. Xem xét như thế, có
thể thấy đạo đức cách mạng là điều kiện căn bản nhất mà mỗi người nhất thiết phải có thì
mới hoạt động cách mạng được.
Cùng với đó, cách mạng nước ta đang bước vào một thời kỳ mới: thời kỳ hội nhập nền
kinh tế - văn hóa thế giới. Những phẩm chất về đạo đức mới lại càng cần thiết hơn bao
giờ hết. Để có thể làm được điều này thì khơng thể thiếu sự bồi đắp tư tưởng và rèn luyện
đạo đức cách mạng một cách thường xuyên, bền bỉ trong mọi hoạt động từ lý luận cho
đến thực tiễn. Tuy nhiên, trong nội bộ quần chúng nhân dân, đã và đang xuất hiện tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Song song là những biểu hiện "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa", tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí đang ăn mòn một bộ phận
cán bộ, đảng viên. Hơn nữa, âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch tìm cách chống
phá trên mọi lĩnh vực khiến việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng đối với cán bộ
đảng viên và quần chúng càng cần phải được để ý và nâng cao.
Chính vì vậy, để làm rõ hơn các vấn đề trên, bài viết phân tích luận điểm sau đây của Hồ
Chí Minh: "Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện
bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong" và liên hệ thực tiễn với công cuộc giáo dục đạo đức cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân hiện nay. Bài viết được chia ra làm ba phần chính: Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, luận điểm của Hồ Chí Minh về tu dưỡng đạo
đức suốt đời và vận dụng luận điểm của Hồ Chí Minh để đưa ra các phải pháp giáo dục
đạo đức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong giai đoạn hiện nay.


Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng

Để phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh, ta cần phải tìm hiểu tư tưởng của Người về vấn
đề được đặt ra trong luận điểm là đạo đức cách mạng.
1. Khái niệm “đạo đức cách mạng”
a. Khái niệm đạo đức
Hồ Chí Minh khơng định nghĩa cụ thể khái niệm đạo đức, tuy nhiên, trong đời sống, thuật
ngữ đạo đức thường được sử dụng theo các góc độ sau: Rộng, hẹp, và rất hẹp.
Nghĩa rộng: Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh
hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính người trong các quan hệ xã
hội, kể cả trong các quan hệ chính trị, tư tưởng.
Nghĩa hẹp: Đạo đức là các qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh hành vi con người
trong quan hệ giữa người với người trong hoạt động sống.
Nghĩa rất hẹp: Đó là hành vi đạo đức, hành vi đạo đức là hành động cá nhân thể
hiện quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác, thể hiện
lương tâm hoặc bổn phận cá nhân trong những hồn cảnh đặc thù khơng lặp lại.
Hồ Chí Minh tập trung bàn về đạo đức theo nghĩa hẹp với ba mối quan hệ cơ bản của
mỗi con người (với mình, với người và với việc).
b. Khái niệm “đạo đức cách mạng”
Trong bài viết Đạo đức cách mạng, đăng trên tạp chí Học tập số 12 -1958, Hồ Chí Minh
đã khái qt:
“Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính
sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá
nhân. Hết lịng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình,
gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng
cao tư tưởng và cải tiến cơng tác và cùng đồng chí mình tiến bộ.”
Sau này, Bác đã giải thích rõ hơn bốn chuẩn mực trên để làm rõ nội hàm của khái niệm
đạo đức cách mạng.



Trong bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước (24-7-1962) bàn
về việc “mở một cuộc vận động nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế,
tài chính, chống tham ơ, lãng phí, quan liêu”, Bác nêu ra quan điểm cuộc vận động chính
là một cuộc cách mạng nội bộ, có sự đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và
cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư và kẻ địch là
tham ơ lãng phí, quan liêu.
2. Vai trị và sức mạnh của đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, vị lãnh tụ trên thế giới quan tâm và bàn
nhiều về vấn đề đạo đức. Trong suốt cuộc đời cách mạng vẻ vang của mình, từ tác phẩm
Đường Kách mệnh (năm 1927) đến bản Di chúc cuối cùng (hoàn chỉnh vào tháng
5/1969), Bác luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, cho rằng đạo
đức là “cái gốc” của người cách mạng. Đạo đức cách mạng trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh ln có sự nhất qn và liên kết về tinh thần cách mạng cũng như phương pháp tư
duy, nhất là phương pháp tư duy khoa học, tư duy biện chứng của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Từ những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc cùng với chắt lọc tinh hoa đạo
đức của nhân loại, Người còn phát triển và sáng tạo những giá trị tư tưởng đạo đức mới
phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Thứ nhất, đạo đức là gốc, nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng.
Khi bàn về vai trị quan trọng của đạo đức, Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức là yếu tố
không thể thiếu trong đời sống xã hội loài người và đối với cá nhân con người. Đối với
người cách mạng, đạo đức có nắm giữ một vị trí vơ cùng quan trọng, muốn giải phóng
cho dân tộc, lồi người mà tự mình lại khơng có đạo đức, mất đi cái cơ bản, tự mình hủ
hóa, xấu xa thì làm sao có thể hồn thành việc gì.
Với cán bộ, đảng viên càng phải yêu cầu cao về đạo đức, cán bộ muốn được dân tin
tưởng, u mến thì khơng thể viết lên trán hai chữ “cộng sản” mà phải có tư cách, đạo
đức. Như vậy, tiêu chuẩn đầu tiên của người cán bộ là phẩm chất đạo đức, lấy đạo đức
làm gốc người cán bộ phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức mới có thể trở
thành người cán bộ chân chính, “mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm

nhuần đạo đức cách mạng, hay là khơng”.
Nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức đối với người cách mạng cho nên ngay từ đầu
cũng như trong suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Hồ Chí Minh đã ln để
tâm đến xây dựng đạo đức mới – đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên và nhân dân
ta.
Thứ hai, đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn cuả chủ nghĩa xã hội
Theo Bác Hồ, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội trước hết được thể hiện qua đạo đức, lý
tưởng cách mạng, nhân cách, lối sống gương mẫu của người cán bộ đảng viên. Chính tấm


gương đạo đức, lối sống cao đẹp của từng cán bộ, đảng viên đã tạo nên sự riêng biệt, đặc
thù của chế độ mới mà ở các chế độ khác khơng hề có, điều mà khơng tìm thấy được ở
những con người của chế độ cũ.
Hồ Chí Minh mang quan điểm phong trào cộng sản công nhân quốc tế là lực lượng quyết
định vận mệnh lồi người khơng chỉ do chiến lược của cách mạng vơ sản mà cịn nằm ở
phẩm chất đạo đức cao quý, điều mang lại sức mạnh khơng gì sánh bằng.
Nhờ những tấm gương đạo đức cách mạng, nhân cách, lý tưởng cao đẹp cùng lối sống
giản dị, gần gũi với nhân dân lao động, chế độ chủ nghĩa xã hội được nhân dân ta và thế
giới tin theo, là nguồn cổ vũ, động viên cho toàn thể dân tộc Việt Nam và nhân dân thế
giới trong cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
3. Những chuẩn mực đạo đức cách mạng
Đạo đức cách mạng thể hiện ở các phẩm chất: trung với nước, hiếu với dân; u thương
con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Những
phẩm chất đó khơng chỉ có mối quan hệ tác động qua lại biện chứng với nhau mà trong
từng nội dung của mỗi phẩm chất cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chỉ cần thiếu
một phẩm chất thì cán bộ, đảng viên khơng thể làm trịn nhiệm vụ của mình.
Trung với nước, hiếu với dân
Đây là phẩm chất bao trùm, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu và chi phối các phẩm chất
khác, là tiêu chuẩn để đánh giá đạo đức của mỗi con người, chiến sỹ cách mạng. Người
cán bộ cần có đạo đức cách mạng và phải giữ đạo đức cách mạng mới là người cán bộ

cách mạng chân chính. Theo Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là:
nhận rõ phải trái, giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”.
“Trung với nước”, “hiếu với dân” được coi là nội dung cơ bản và bao trùm nhất trong tư
tưởng đạo đức cách mạng của Người, thể hiện mối quan hệ giữa con người với Tổ quốc
và Nhân dân. Trung và hiếu là những quan niệm đã có từ xa xưa theo truyền thống của
dân tộc Việt Nam, phẩm chất này đã được Hồ Chí Minh sử dụng với sự mở rộng và đổi
mới, tạo nên một cuộc cách mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức.
“Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, phải
đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết và quyết tâm đấu tranh cho sự phát
triển của đất nước, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Tóm lại, quyền hạn
và lực lượng đều nằm ở nhân dân, Đảng và Chính phủ là đầy tớ của nhân vân, vì dân mà
phục vụ, chứ không phải lợi dụng chức vụ để dẫm lên lợi ích của nhân dân. Quan niệm
này đã đảo lộn quan niệm trước giờ về nước và dân, thể hiện rõ sự độc đáo và vượt trội
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, Người cũng cho rằng “trung với nước” cũng
là “trung với Đảng”, trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, với sự


nghiệp cách mạng của dân tộc do Đảng lãnh đạo, đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
“Hiếu với dân” là phải tơn trọng, u kính nhân dân, thương dân, tin dân, học hỏi dân,
gắn bó máu thịt với nhân dân, khẳng định sức mạnh to lớn của nhân dân và phải coi dân
là gốc, là nền tảng vững chắc của sự nghiệp cách mạng. Vì “dân” ở trong quan niệm của
Hồ Chí Minh gắn liền với nước, dân là chủ của đất nước, có quyền quyết định vận mệnh
quốc gia. Vì vậy, hiếu với dân là phải một lòng, một dạ phụng sự nhân dân, phải yêu kính
nhân dân, phải tơn trọng quyền làm chủ của nhân dân, không được lên mặt, ra oai với
dân. Cuộc đời của Người chính là minh chứng cụ thể về sự tận trung với nước, tận hiếu
với dân. Có thể thấy ở Hồ Chí Minh, lý luận gắn liền với thực tiễn, lời nói đi đơi với việc
làm.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Đây chính là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí

Minh. Bác cho rằng “Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng. Đất có bốn phương: Đơng,
Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì khơng
thành trời. Thiếu một phương, thì khơng thành đất. Thiếu một đức, thì khơng thành
người”.
Theo Hồ Chí Minh, “cần” là phải lao động cần cù, siêng năng, sáng tạo, năng suất, hiệu
quả cao, không lười biếng, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biến,
không ỉ lại, không dựa dẫm, cần thấy được lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta, chứ không phải sự bắt ép, bó buộc; “kiệm” là
phải tiết kiệm sức lao động, thời gian, tài sản, tiền bạc của dân, của nước, của bản thân
mình, khơng xa xỉ, phơ trương, hình thức…; “liêm” là phải ln tơn trọng giữ gìn của
cơng, khơng tham địa vị, tiền tài, danh vọng…; “chính” là khơng tà, thẳng thắn, đúng
đắn, chân thành, khiêm tốn, không tự cao, tự đại, không dối trá, lừa lọc; việc thiện dù nhỏ
mấy cũng làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh. Cần, kiệm, liêm, chính cịn là thang đo
cho sự văn minh, tiến bộ của một dân tộc. Theo Người: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết
liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến
bộ”.
“Chí cơng vơ tư” là đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của Tổ quốc và của nhân dân
lên trên lợi ích của bản thân; ln vì mục đích chung, khơng màng đến tư lợi cá nhân; lo
trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ. Do vậy, chí cơng vơ tư cũng chính
là đối lập với chủ nghĩ cá nhân, làm việc gì cũng khơng nghĩ đến mình trước. Trong bản
Di chúc để lại, Người vẫn dặn dò cẩn thận: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”.


Tóm lại, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư có mối quan hệ gần gũi với nhau, tạo nên
sự thống nhất trong phẩm chất đạo đức của người cách mạng. Đây là phẩm chất được
Người đề cập nhiều nhất, thường xuyên nhất với một nội dung mới rất cách mạng mà vẫn
dựa trên nền tảng của các quan điểm đạo đức cũ. Chí cơng vơ tư thực ra là sự tiếp nối của

cần, kiệm, liêm, chính. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư và ngược lại. Để
trở thành một người có phẩm chất tốt cần hội tụ đủ các yếu tố cần, kiệm, liêm chính,
giống như bốn mùa của trời đất thì đó là những đức tính cơ bản của con người.
Yêu thương con người, sống có tình nghĩa
Hồ Chí Minh cho rằng u thương con người là một phần không thể thiếu của người cách
mạng. Sự yêu thương ấy dành cho những người cùng khổ, bị áp bức không phân biệt màu
da, sắc tộc, tơn giáo…; khơng những thế cịn hiển diện trong các mối quan hệ: bạn bè,
đồng chí, anh em. Người cách mạng cần nghiêm khắc với chính mình, nhưng rộng lượng
với người khác. Mỗi con người đều có thiện và ác vì vậy cần tơn trọng, nâng đỡ con
người để “làm cho phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”.
Tuy nhiên, yêu thương con người không phải là sự nuông chiều, thả mặc, không quan
tâm, không để ý mà phải tập trung giúp họ trên tinh thần đấu tranh phê và tự phê bình,
chứ khơng phải là tư tưởng “dĩ hồ vi q”, “nín thở cho qua”, bao che cho khuyết điểm
của họ.
Người luôn giữ vững niềm tin vào mỗi con người, tin vào sức mạnh, phẩm giá và tính
sáng tạo bên trong họ, dù có thể họ cịn nhất thời thấp bé, sai lầm, lạc lối. Ai cũng có tốt,
có xấu, có thiện, có ác trong lịng. Nhưng “Dù là xấu, tốt, văn minh hay giã man đều có
tình”. Con người ta có xu hướng vươn lên cái chân - thiện - mỹ. Hồ Chí Minh xem xét
tính đa dạng của con người, nên dù “có thế này, thế khác” nhưng vẫn tin ở họ. Vì vậy,
phải có lịng khoan dung, độ lượng và biết nâng đỡ làm cho phần tốt trong mỗi con người
nảy nở như hoa, xét mỗi người trong từng hồn cảnh, tính đa dạng của đời sống xã hội. Ở
Hồ Chí Minh, ln có thể dễ dàng nhìn thấy yêu thương con người luôn luôn gắn liền với
niềm tin, Người tin tưởng rằng con người có thể tự giải phóng lấy mình, làm chủ xã hội,
làm chủ bản thân mình.
Tinh thần quốc tế trong sáng
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức của mỗi người trong mối
quan hệ rộng lớn, vượt qua ngoài ranh giới quốc gia. Tinh thần ấy trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh được khởi đầu từ bản chất quốc tế của giai cấp cơng nhân và tính ưu việt
của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh coi cách mạng Việt Nam là bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới,

theo Người: “Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả. Đã là
đồng chí, thì sung sướng cực khổ phải có nhau”. Đó là do trong q trình đi tìm đường


cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nơi, trải nghiệm nhiều cuộc sống khác nhau. Người
đã chứng kiến tất thảy những khó khăn mà giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động gặp
phải, cũng nhìn rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản. Quá trình hoạt động thực tiễn đã giúp
Người đồng cảm và hiểu rõ dù ở đâu cũng có người nghèo giống như nước mình, dù là
thuộc địa hay chính quốc, họ đều phải chịu cảnh áp bức bởi chủ nghĩa thực dân. Người
khẳng định: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người
bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thơi:
tình hữu ái vơ sản". Đó là sự khởi đầu của tư tưởng đồn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đồn
kết với những người lao động trên thế giới, tin rằng lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi
ích quốc gia với lợi ích quốc tế ln song hành cùng nhau. Điều này tạo điểm tựa vững
chắc cho mối quan hệ thủy chung, lâu dài giữa các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao
động trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, vì nền độc lập của mỗi quốc
gia dân tộc và quyền tự do, hạnh phúc của mỗi con người.
Bên cạnh đó, tinh thần quốc tế trong sáng cần có sự phối hợp giữa chủ nghĩa u nước
chân chính và chủ nghĩa quốc tế vơ sản, gắn kết mục tiêu cách mạng của mỗi nước với
mục tiêu chung của thời đại: hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hiểu rõ
điều này, Hồ Chí Minh ln ưu tiên vào tập trung giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản cho
nhân dân ta. Người cũng nhấn mạnh rằng tinh thần yêu nước chân chính khơng giống với
với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động, mà là một bộ phận của tinh thần quốc
tế. Vì thế, Người đã chủ động tạo mối quan hệ với các quốc gia dân tộc và các tổ chức
trên thế giới để thêm bạn, bớt thù. Có thể nói quan điểm dân tộc đã được thổi vào thời
đại, đã vượt qua biên giới quốc gia, hướng tới mục tiêu độc lập, dân chủ, hịa bình, hữu
nghị và hợp tác.

Chương 2: Luận điểm của Hồ Chí Minh về tu dưỡng đạo đức suốt đời
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu

tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Có thể thấy tu dưỡng đạo đức không thể trong
ngày một ngày hai mà là cả một cuộc cách mạng trường kỳ, đầy gian lao và thử thách,
địi hỏi sự kiên trì và khổ luyện. Suốt đời tu dưỡng rèn luyện đạo đức để thấm nhuần và
thực hành đạo đức cách mạng, đây vừa là nguyên tắc, vừa là phương pháp trong xây
dựng đạo đức mới. Mỗi người đều phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức qua hoạt động thực
tiễn, cả trong thực hiện nhiệm vụ và công việc được giao.
1. Việc tu dưỡng đạo đức phải được tiến hành thường xuyên, bền bỉ, suốt cả cuộc đời.
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng; và cái gốc này là do tự tu dưỡng, tự rèn luyện
chứ không phải tự nhiên mà có. Nghĩa là, đạo đức cách mạng của mỗi người không phải
“trên trời sa xuống”, cũng không tồn tại vĩnh viễn. Nếu không được tu dưỡng, rèn luyện
bền bỉ, thường xun, đạo đức ấy có thể suy thối và mất dần đi.


Mỗi người phải coi việc tu dưỡng đạo đức giống như việc rửa mặt hàng ngày, phải làm
thường xuyên, kiên trì, bền bỉ suốt cả cuộc đời, khơng thể chủ quan tự mãn dù chỉ một
ngày. Thực tế cho thấy có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành,
không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, sẵn sàng xơng pha đối đầu với qn địch mạnh,
có cơng với cách mạng nhưng đến khi có ít quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo,
khơng có điểm dừng, tham ơ, lãng phí, quan liêu, dần trở thành người có tội với cách
mạng. Họ cho rằng miền Bắc khơng cịn thực dân và phong kiến nữa, có nghĩa là cách
mạng thành cơng rồi. Vì vậy, họ để chủ nghĩa cá nhân mọc rễ nảy mầm, họ đòi hỏi hưởng
thụ, nghỉ ngơi, họ muốn lựa chọn công tác theo ý thích của cá nhân mình, khơng muốn
làm cơng tác mà đồn thể giao phó cho họ. Họ mong muốn địa vị cao, nhưng lại sợ trách
nhiệm nặng. Để rồi tinh thần đấu tranh, sự anh dũng và phẩm chất tốt đẹp của người cách
mạng bị bào mòn; họ quên rằng tiêu chuẩn số một của người cách mạng là quyết tâm suốt
đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Một dân tộc, một đảng và mỗi con người có thể
hơm qua là vĩ đại, không nhất định hôm nay và ngày mai cũng như vậy, nếu lịng dạ
khơng trong sáng nữa, nếu xa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên, để giữ gìn được đạo đức
cách mạng, khơng thể chủ quan mà phải luôn tự nhắc nhở bản thân, không ngừng nâng

cao đạo đức cách mạng. Cũng như cơm ăn, nước uống hằng ngày; tu dưỡng đạo đức một
ngày cũng khơng thể thiếu.
Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh tu dưỡng đạo đức là một quá trình đấu tranh quyết
liệt, lâu dài trong nội tâm của mỗi con người. Do vậy, mỗi cán bộ phải cần có tinh thần
đấu tranh với chính mình và phải cố gắng kiên trì, nỗ lực tu dưỡng suốt đời. Người đã
minh họa quá trình này một cách sâu sắc và cụ thể khi ví trong bản thân mỗi con người
đều có phe thiện và một phe ác đấu tranh với nhau. Nếu đấu tranh để phe thiện thắng thì
phe ác phải bại mà nếu khơng đấu tranh để cho phe thiện bại, thì là hỏng. Thực vậy, cái
ác, cái xấu là kẻ thù của đạo đức, nhưng nó khơng hiện rõ ra bên ngồi mà thường mọc rễ
bên trong con người, thậm chí nằm ngay trong cái vỏ đạo đức. Nó là "giặc nội xâm", là
kẻ thù bên trong nên vừa nguy hiểm, vừa khó phát hiện. Phương thuốc hiệu quả nhất để
phịng và chống kẻ thù biến hóa khơn lường này là phải luôn tu dưỡng đạo đức. Bởi vậy,
mỗi người chúng ta phải tự ý thức việc rèn luyện của bản thân; coi nó như rửa mặt hằng
ngày.
Sự thối hóa trong đạo đức dễ nảy sinh từ sự thiếu rèn luyện, không kỉ luật với bản thân,
nhất là trong điều kiện khó khăn hoặc những môi trường dễ nảy sinh tiêu cực (có chức, có
quyền, có địa vị trong tay; có thể sai khiến người khác...). Vì thế việc tu dưỡng đạo đức
cách mạng phải gắn liền với thực tiễn hoạt động cách mạng, phải kéo dài, ở mọi lúc, mọi
nơi, trong mọi hồn cảnh. Theo Hồ Chí Minh thì tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân
như lúa với cỏ dại. Lúa cần phải chăm bón kĩ càng, khó nhọc thì mới tốt được cịn cỏ dại
khơng cần chăm sóc cũng dễ dàng tươi tốt. Tư tưởng cộng sản phải khổ luyện mới có
được, tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ. Cho nên, xây dựng,


rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân là phải được tiến
hành đồng thời, thường xuyên, bền bỉ, suốt đời trong quá trình hoạt động cách mạng.
2. Việc tu dưỡng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện của mỗi người.
Tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người là cơ sở không thể thiếu của một nền đạo đức
mới. Hồ Chí Minh khẳng định con người ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt.
Điều cần thiết trước tên là dám nhìn thẳng vào con người mình, khơng tự lừa dối, làm

ngơ; thấy được cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy, cái dở, cái xấu, cái ác thì phải tìm
cách sửa đổi. Mọi người tự nhận thấy việc tu dưỡng đạo đức cách mạng là một việc phải
kiên trì, thường xuyên, liên tục, không cần phải nhắc, phảo bảo mới nhận ra. Khổng Tử
cho rằng “chính tâm, tu thân” để “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, từ luận điểm này, Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Chính tâm, tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ,
vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi con người. Bồi dưỡng tư tưởng mới
để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới
không phải là việc dễ dàng… Dù khó khăn gian khổ, nhưng muốn cải tạo thì nhất định
thành cơng”. Nếu người làm cách mạng khơng làm được như vậy, thì dù đang mang đạo
đức tốt đẹp, nhưng sau đó lại có thể thối hóa, biến chất, hư hỏng.
Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tu dưỡng đạo đức là một quá trình đấu tranh quyết
liệt, lâu dài trong nội tâm của mỗi con người. Vậy nên, sự tu dưỡng phải xuất phát từ suy
nghĩ của mỗi người, vì mục tiêu xây dựng đất nước, phục vụ nhân dân. Không vượt qua
được bản thân, khơng đánh bại được giặc trong lịng thì khơng thể có đạo đức cách mạng.
3. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện thông qua các hoạt động thực tiễn của mỗi
người.
Việc tu dưỡng đạo đức không thể chỉ dựa trên lý thuyết sng mà cịn phải được thực
hành trong các hoạt động thực tiễn, trong đời sống hàng ngày cũng như trong sinh hoạt,
học tập, lao động, chiến đấu. Mỗi người cần rèn luyện bản thân trong tất cả các mối quan
hệ từ gia đình, nhà trường, xã hội đến quan hệ bạn bè, đồng chí, với Đảng, với nước, với
dân và cả trong các mối quan hệ quốc tế.
Các cương vị khác nhau đòi hỏi sự điều chỉnh trong hành vi, cách ứng xử và phẩm chất
đạo đức của mỗi người được thể hiện rất cụ thể, phong phú và đa dạng. Thông qua hoạt
động thực tiễn và quá trình rèn luyện bền bỉ thì đạo đức cách mạng ngày càng được bồi
đắp, nâng cao, hoàn thiện.

Chương 3: Vận dụng luận điểm của Hồ Chí Minh để đưa ra các phải pháp
giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong giai
đoạn hiện nay
1. Thực trạng đạo đức cách mạng của các bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân

Tiếp thu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã xây dựng, bồi dưỡng được đại
đa số cán bộ, đảng viên phát huy được phẩm chất, đạo đức cách mạng. Các cán bộ, đảng


viên luôn trau dồi và phát huy đạo đức cách mạng, các phẩm chất đáng quý như yêu
nước, yêu dân, gương mẫu, ln giữ cho mình lối sống trong sạch, lành mạnh. Trước
những thay đổi của thời đại, các cán bộ, đảng viên vẫn luôn vững vàng, kiên định với
mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội, mở đường trong cơng cuộc đổi mới, hồn thành tốt các
nhiệm
vụ
được
giao
phó.
Nhiều đồng chí đã ln gương mẫu, có ý thức rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối
sống, hết lịng, ln nỗ lực học tập, trau dồi kiến thức, kỹ năng và hơn hết ln vì Đảng,
vì nhân dân mà hết lịng, hết sức hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Ngay cả khi sống và làm
việc trong các môi trường phức tạp, đầy khó khăn, nguy hiểm, họ vẫn giữ vẫn tinh thần
cầu tiến, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, ln nghiêm khắc, thường xun tự phê
bình và phê bình, dám chịu trách nhiệm trước dân, trước Đảng, được quần chúng tin yêu,
ca ngợi, góp phần quan trọng trong việc tăng cường và củng cố niềm tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo Đảng. Đó chính là những con người luôn lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ, luôn đi đầu trên mọi trận tuyến, thời chiến cũng như trong thời bình, vừa giữ vai trị
lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Những tấm gương đáng quý luôn hiện hữu trong tất cả vùng miền từ nông thôn đến thành
phố, từ đồng bằng tới miền núi, đâu đâu cũng có những con người đang âm thầm đóng
góp cho cách mạng. Có thể kể đến những cán bộ, đảng viên một lịng bảo vệ, giữ gìn an
ninh biên giới. Nơi ấy có những con người vẫn ln thầm lặng vì cách mạng quên tuổi
thanh xuân như già làng KSor H’BLâm ở xã Ia Mơr, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai
khi tình nguyện tham gia cách mạng vào tuổi mười bảy rồi đến khi đã về nghỉ hưu vẫn
tuyên truyền vận động bà con tham gia bảo vệ an ninh biên giới, đồng hành cùng bộ đội

biên phòng. Trong các cơng tác phịng chống thiên tai, dịch bệnh đã các tấm gương sẳn
sàng xả thân vì sức khỏe, tính mạng của nhân dân có thể kể tới 13 chiến sĩ ở thủy điện
Rào Trăng 3; 22 chiến sĩ của Đồn Kinh tế Quốc phịng 337 và nhiều cán bộ, đảng viên
đã hy sinh khi giúp dân phòng hống lũ lụt. Đặc biệt trong dịch Covid – 19 đã xuất hiện
nhiều tấm gương tiêu biểu, điển hình về đạo đức cách mạng của cán bộ đảng viên và
quần chúng nhân dân, nhất là trong đội ngũ y bác sỹ, lực lượng vũ trang, lực lượng tuyến
đầu chống dịch. Trong đợt dịch lần thứ tư, tổng nhân lực y tế tham gia phịng chống dịch
ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam là gần 24.000 người, khoảng 2.300 nhân
viên y tế bị lây nhiễm, trong đó có 2 điều dưỡng và 1 bác sĩ ra đi mãi mãi. Theo lời thủ
tướng Phạm Minh Chính, họ là những bông hoa đẹp, truyền cảm hứng về sự hy sinh,
trách nhiệm, tạo lên niềm tin và động lực mạnh mẽ để vượt lên nghịch cảnh, truyền năng
lượng tích cực để đi qua những ngày khó khăn của dịch bệnh. Cùng với đó, lực lượng
chức năng cùng với người dân đã tiếp sức, hỗ trợ cho bà con di chuyển bằng xe máy từ
Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam về quê đã lan tỏa những điều tốt đẹp,
phẩm chất cao cả của con người Việt Nam, khẳng định thêm sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc.


Tuy nhiên, trong q trình đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
trước những tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, sự
chống phá của các thế lực thù địch, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã có những biểu hiện
suy thối trầm trọng về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Lợi ích vật chất, cùng với sự lơi là
trong quản lý, kiểm tra của các cấp và sự thiếu ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đã khiến
một số đảng viên, trong đó có cả các cương vị chủ chốt, là lãnh đạo, chỉ huy của các cơ
quan, đơn vị, thậm chí có cả những cán bộ cấp cao, là tướng lĩnh có biểu hiện suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, ích
kỷ, chạy theo danh lợi cá nhân, cục bộ, lãng phí..., dẫn đến vi phạm phải xử lý kỷ luật.
Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên vẫn chưa được đẩy lùi, thậm chí cịn có hiện tượng diễn biến tinh vi, phức tạp
hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tồn tại sâu trong bộ máy nhà

nước. Bên cạnh đó, do tính chất đặc thù của nhiệm vụ, phải cơng tác xa gia đình, gặp
nhiều khó khăn, khắc nghiệt, gian khổ, thậm chí cả hy sinh tính mạng..., cho nên trong
một bộ phận đảng viên quân đội dễ nảy sinh tâm lý so sánh thiệt hơn, ngại tu dưỡng, rèn
luyện phấn đấu, thậm chí dẫn đến những suy nghĩ không đúng đắn, hành động tiêu cực.
2. Giải pháp giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong
giai đoạn hiện nay
a, Đối với cán bộ, đảng viên
Một là, phải chú trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức phẩm chất, lối sống cho cán bộ, đảng
viên.
Chính quyền cần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về ý nghĩa, vai trò, tầm quan
trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Nội dung bồi dưỡng đạo đức cách mạng cần
phù hợp với từng đối tượng, có chỉ đạo cụ thể, rõ ràng với từng cấp, từng ngành. Trong
đó cần tập trung xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên: tuyệt đối trung
thành với lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước lên trên hết; hết lòng,
hết sức bảo vệ và phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thực sự là người đầy tớ của dân;
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, dứt khốt đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân,
cơ hội. Mỗi cán bộ đảng viên cần nhận thức rõ, đạo đức cách mạng sẽ là nền tảng để giữ
vững phẩm cách của mình trước mọi cám dỗ và khó khăn, giúp xây dựng phương pháp,
phát huy tác phong làm việc khoa học, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc.
Hai là, mỗi cán bộ đảng viên cần không ngừng rèn luyện đạo đức, lối sống, cần chủ động
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Như luận điểm: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,


vàng càng luyện càng trong”, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ đảng viên vừa
phải tích cực, bền bỉ, vừa phải đi liền với mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng và kết quả
hoàn thành nhiệm vụ trên cương vị, chức trách được giao phó.

Ba là, nâng cao trình độ, năng lực tồn diện cho cán bộ, đảng viên.
Bất cứ một quốc gia, dân tộc nào cũng cần phải quan tâm đào tạo và phát triển con người.
Cán bộ đảng viên phải nâng tầm hiểu biết, nắm vững khoa học công nghệ, thành thạo
chuyên môn nghiệp vụ. Trong xã hội hiện nay khi mà đất nước hội nhập sâu rộng với thế
giới, năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất, đạo đức đối với mỗi người cán bộ đảng
viên là điều không thể thiếu. Do vậy, để tránh tụt hậu, đáp ứng được yêu cầu của thời đại,
mỗi người cần có tinh thần vượt khó, khơng ngừng cố gắng, nỗ lực học tập để tự hoàn
thiện bản thân. Như vậy, đội ngũ cán bộ mới có thể tự tin đáp ứng yêu cầu của đổi mới,
góp phần đưa đất nước phát triển bền vững.
Bốn là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức mạnh, kỷ cương của các tổ chức đảng, thực hiện
tự phê bình và phê bình, tăng cường kỷ luật, xây dựng môi trường dân chủ lành mạnh
trong Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng nước ta. Vì vậy, cần nghiêm túc củng cố và chỉnh đốn Đảng, làm cho “Đảng ta là
đạo đức, là văn minh”. Đảng đã xác định xây dựng chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Để
làm được điều này, cần chủ trương tự phê bình và phê bình một cách thường xuyên, thẳng
thắn, gắn liền với tăng cường công tác quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng viên; kiên quyết
khai trừ các phần tử mang tư tưởng chủ nghĩa cá nhân, thoái hoá biến chất, thiếu đạo đức
cách mạng; mạnh tay trong xử lý vi phạm của những cán bộ, đảng viên.
Năm là, cần có phương pháp đánh giá chính xác lực lượng cán bộ, đảng viên, linh hoạt
trong đào tạo và sử dụng cán bộ.
Trong bối cảnh hiện nay, Đảng cần thiết lập cơ chế, chính sách, chủ trương đúng đắn, phù
hợp trong việc đánh giá, bồi dưỡng, quy hoạch và sử dụng cán bộ. Chuẩn hóa tiêu chuẩn
chức danh cán bộ; bố trí, đề bạt, sử dụng cán bộ phải đúng người, đúng việc, đúng chỗ,
đúng sở trường, phẩm chất, năng lực để có thể đạt hiệu quả cao nhất trong cơng việc,
tránh được những bất mãn khơng đáng có. Đồng thời, phải chú trọng đến việc khai trừ
người thoái hóa biến chất theo đúng tinh thần: “Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng
cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thối hóa”.
Sáu là, cần quyết liệt loại bỏ những hành vi thiếu đạo đức cách mạng.

Muốn xây dựng được con người mới, phải bền bỉ tu dưỡng đạo đức cách mạng, phịng
chống những biểu hiện thối hóa đạo đức, khắc phục sự suy thối về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Những biểu hiện cụ thể của suy


thối có thể đến như: hồi nghi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thiếu
tin tưởng với đường lối, chính sách của Đảng; tham ơ, lãng phí, bè cánh, hủ hố, thực
dụng, quan liêu, trù dập, thiếu dân chủ, vi phạm pháp luật; không thực hiện cần, kiệm,
liêm chính, chí cơng vơ tư, khơng u thương con người.
Bên cạnh đó, cần chú trọng định hướng cán bộ, đảng viên giữ vững và phát huy tinh thần
dũng cảm ngăn chặn những biểu hiện sai trái, tiêu cực trong cuộc sống và những hành
động chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Cần đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp đấu tranh; chủ động đoàn
kết phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tham gia có hiệu quả vào cuộc đấu tranh chống
chiến lược “diễn biến hịa bình”, đập tan mọi âm mưu phá hoại và gây bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch, đảng viên, đó là sự chuẩn bị tốt về mọi mặt để bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bảy là, quan tâm đến mặt trận tư tưởng, lý luận, nắm được và làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn chống, phá của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội về chính trị.
Các thế lực thù địch bên ngồi vẫn luôn lăm le bắt tay với các phần tử phản động trong
nước thực hiện các hoạt động diễn biến hòa bình chống phá quyết liệt trên lĩnh vực tư
tưởng, chính trị, thúc đẩy tự diễn biến, tự chuyển hóa từ bên trong. Chúng không ngừng
thực hiện tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận thành quả của cách mạng Việt Nam; hạ thấp,
bơi nhọ vai trị lãnh đạo của Đảng, thổi phồng khuyết điểm; kích động, chia rẽ nội bộ làm
cho một bộ phận cán bộ, đảng viên hoài nghi, dao động, mất niềm tin và suy thối về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; nghiêm trọng hơn cso người đã tự chuyển hóa trở
thành những phần tử chống đối. Các cấp chính quyền phải nắm rõ tình hình, tăng cường
cơng tác dự báo tư tưởng, lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức,
các lực lượng tạo thành sức mạnh tổng hợp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Cán bộ, đảng viên cần được phổ thơng tin

thời sự về tình hình trong nước và quốc tế, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng.
b, Đối với quần chúng nhân dân
Một là, quần chúng nhân dân cần có ý thức tự rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức
cách mạng trong đời sống hàng ngày và cả trong công việc.
Từng người đều phải xây dựng một lối sống tốt đẹp, tình nghĩa, nhân hậu, thủy chung,
đoàn kết, bao dung, che trở lẫn nhau bằng chính những hành động của mình trong cuộc
sống hàng ngày. Mỗi người cần giữ thái độ nghiêm khắc với chính mình; khoan dung, độ
lượng và tơn trọng đối với mọi người. Ai cũng cần tận tụy trong công việc, khơng lười
biếng, khơng lãng phí của cơng, sống trung thực thẳng thắn đối với mọi người, hết lòng,
hết sức phục vụ sự nghiệp chung, tránh lối sống vị kỷ và chủ nghĩa cá nhân. Mỗi người
dân đều cần có sự cố gắng vươn lên, khơng quản ngại khó khăn, đưa đất nước thốt khỏi
đói nghèo, lạc hậu, trở thành một đất nước văn minh, tiến bộ; giữ vững và phát huy tinh


thần đồn kết, có ý thức tập thể, ln hợp tác, tương trợ lẫn nhau trong học tập, nghiên
cứu, tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị- xã hội, nhân đạo, từ thiện.
Hai là, nâng cao nhận thức về vai trị, vị trí của quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh ln khẳng định dân chiếm một vị trí to lớn, chủ đạo đối với sự nghiệp cách
mạng. Chính quyền các cấp cần quan tâm đến đời sống nhân dân, phát huy nguồn lực con
người. Chăm lo, phát triển cho nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực đảm bảo cho sự
ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Bên cạnh đó, cần phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong xây dựng chính quyền. Đồng thời, nhân dân cũng cần phải hǎng hái
làm tròn nghĩa vụ của mình trong cơng cuộc bảo vệ và xây dựng nước nhà”. Phát huy dân
chủ phải gắn liền với kỷ cương và đề cao trách nhiệm công dân. Nhân dân có quyền làm
chủ nhưng phải có nghĩa vụ làm trịn bổn phận cơng dân, “Làm chủ sao cho ra làm chủ,
không phải làm chủ muốn ăn bao nhiêu thì ăn, muốn làm bao nhiêu thì làm”.
Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân hiểu rõ đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đây là giải pháp cơ bản nhằm đưa các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
vấn đề dân tộc, tơn giáo vào cuộc sống. Chính là làm cho dân thấy rõ được các âm mưu,

thủ đoạn của thế lực thù địch, phản động trong việc phủ nhận đường lối, chính sách của
Đảng, kích động mâu thuẫn giữa nhân dân với chính quyền các cấp, chia rẽ nội bộ đất
nước. Các cấp chính quyền, tổ chức đảng cần đa dạng hóa hình thức, phương pháp tun
truyền, giáo dục; nội dung cần dễ hiểu, linh hoạt với từng đối tượng và điều kiện thực
tiễn. Tăng cường giáo dục cho người dân hiểu rõ, nắm chắc về lịch sử, truyền thống văn
hóa dân tộc; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nâng cao
nhận thức, trách nhiệm, sức đề kháng, khả năng chủ động đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội; khắc phục sự thờ ơ, cho đây là nhiệm
vụ của cơ quan chuyên mơn. Từ đó, xây dựng, bồi đắp lịng u nước, tự hào, tự tơn dân
tộc, gia tăng sức mạnh chính trị - tinh thần cho nhân dân, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.


KẾT LUẬN
Đạo đức cách mạng vẫn luôn là một đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa, là sức
mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, liên quan đến sự thành bại của cách
mạng. Thiếu vắng đạo đức, con người khơng có nhân tính đầy đủ; suy thối đạo đức, xã
hội khơng thể phát triển bền vững trên mọi lĩnh vực. Đạo đức luôn là một động lực mấu
chốt, không thể thiếu trong một xã hội phát triển. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn
luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, coi đạo đức là
“cái gốc” của người cách mạng.
Đặc biệt, trong thời kì hội nhập mạnh mẽ như hiện nay, càng địi hỏi phải xây dựng đạo
đức xã hội và giáo dục tu dưỡng đạo đức cá nhân. Thực hành đạo đức cách mạng, chống
chủ nghĩa cá nhân, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh và noi theo tấm gương sáng của Người
trở nên vơ cùng cấp thiết. Đó là vấn đề cơ bản, lâu dài, cần tiến hành sâu rộng trong nội
bộ tổ chức Đảng và quần chúng nhân dân, để đảm sự phát triển, hiện đại hóa xã hội ở
nước ta.
Tóm lại, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân khơng thể dừng lại ở việc tích
lũy kiến thức, phát triển tài năng mà còn cần tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, tránh
hiện tượng tha hóa, lệch lạc. Mỗi người cần loại bỏ ngay mầm mống làm suy thối, biến

chất q trình phát triển của từng cá nhân và cộng đồng. Vì thế, mọi người cần đẩy mạnh
rèn luyện đạo đức, biết vươn lên làm chủ tri thức hiện đại, trở thành những con người đủ
đức, đủ tài. Hơn nữa, rèn luyện đạo đức không phải là một quá trình ngắn hạn, mà cần sự
chú tâm, kiên trì, bền bỉ suốt cuộc đời. Có như vậy, cán bộ, đảng viên và mỗi người dân
mới có thể giữ vững đạo đức cách mạng, cống hiến hết mình cho quốc gia, dân tộc.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo (2019). Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh: Dành cho
bậc đại học - khơng chun lý luận chính trị.
2. Hồ Chí Minh tồn tập, tập 9. NXB Chính trị Quốc gia năm 2000.
3. Hồ Chí Minh tồn tập, tập 13, 15. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật năm 2011.
4. Hồ Chí Minh (1947). Sửa đổi lối làm việc, Nhà xuất bản Sự Thật.
5. Nguyễn Khắc Bộ. "Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống". Tạp chí Tổ
chức Nhà nước Số 4/2008.
6. PGS, TS Phạm Hồng Chương (2019). Về khái niệm “đạo đức cách mạng” và việc
nghiên cứu, học tập đạo đức trong đảng hiện nay. Tạp chí Tuyên giáo.
7. PGS.TS. Nguyễn Cúc (2020). “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng”,
Tạp chí Quản lý nhà nước.
8. TS. Nguyễn Thị Thu Cúc (2021). “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của nhân dân
trong xây dựng chính quyền”, Tạp chí cộng sản.
9. TS. Dương Quang Hiển (2015), “Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Cổng thơng tin điện tử Bộ Nội vụ,
, truy
cập ngày 10/12/2022.
10. Sở Nội vụ tỉnh Đắk Nông (2015), “Thực trạng về đạo đức và trách nhiệm của cán
bộ, công chức, viên chức tỉnh Đắk Nông”, Cổng thông tin điện tử Bộ Nội vụ,
truy
cập ngày 12/12/2022.
11. Đặng Ngọc Mai (2020), “Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đạo đức là cái gốc của cán bộ,

đảng viên”, Báo Hà Giang, truy cập ngày 12/12/2022.
12. Lê Thị Phương (2021), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng”, Cổng
thông tin điện tử Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp,
/>itemid=3532, truy cập ngày 7/12/2022.



×