A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay đất nước ta đang tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng trong nhiều
lĩnh vực. Với tinh thần là bạn là đối tác tin cậy, nước ta đã và đang đóng góp
tích cực và có trách nhiệm vào nhiều vấn đề quan tâm chung của khu vực và
quốc tế, vai trò vị thế của Việt Nam ngày càng khẳng định và nâng cao. Trong
một môi trường mới của nền kinh tế thị trường, cùng với thời đại khoa học cách
mạng công nghệ 4.0 địi hỏi cán bộ, cơng chức, viên chức khơng những phải có
những kiến thức mới trên tất cả các lĩnh vực mà cịn phải có bản lĩnh chính trị
và phẩm chất đạo đức cách mạng vững vàng để phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế, xã
hội. Vì lẽ đó Đảng ta đã ban hành Chỉ thị số 05 – CT/TW ngày 15/5/2016 về
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Sức lan tỏa
của Cuộc vận động và việc triển khai các chuyên đề học tập hàng năm đã có tác
động rất lớn tới cơng việc cũng như trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người,
trở thành nếp sinh hoạt thường xuyên của mỗi tổ chức, cá nhân.
Tuy nhiên, hiện nay, vẫn cịn một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên vi
phạm, đi ngược lại với những giá trị, chuẩn mực suy thoái về đạo đức và lối
sống, là mầm mống gây tổn hại đến sự an nguy của đất nước, gây mất lòng tin ở
nhân dân. Chính vì lẽ đó việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức là hết sức
cần thiết đối với tất cả các tầng lớp xã hội, đặc biệt với người cán bộ, đảng viên
lại càng phải chú trọng hơn. Với đội ngũ cán bộ, viên chức, người lao động cơ
quan BHXH huyện Thạch Thành cũng không phải ngoại lệ, việc rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức phải được cấp ủy chi bộ, tập thể ban lãnh đạo chú trọng, tuyên
truyền, quán triệt đến tập thể cán bộ, đảng viên và toàn thể người lao động trong
đơn vị. Việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cũng giúp cho cán bộ, đảng
viên và người lao động trong đơn vị có thêm tác phong, lề lối làm việc khoa học,
hiệu quả, nhiệt tình trong cơng tác, chống lại chủ nghĩa cá nhân, vụ lợi.
Từ những lí do trên, trên nền tảng kiến thức đã được học tập, nghiên cứu
trong phần học Tư tưởng Hồ Chí Minh, bằng những kinh nghiệm thực tiễn nơi
1
mình cơng tác cùng với sự tâm đắc về ý nghĩa thiết thực của đề tài, em xin chọn
nội dung: “Nâng cao hiệu quả tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của đội ngũ cán
bộ, viên chức, người lao động Cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện Thạch
Thành, tỉnh Thanh Hóa hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp khóa học Trung cấp LLCT-HC.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng để vận dụng vào việc đánh giá thực trạng và đề xuất các giải
pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cho đội
ngũ cán bộ, viên chức, người lao động cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH) huyện
Thạch Thành, góp phần xây dựng cơ quan vững mạnh, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán
bộ, viên chức, người lao động cơ quan BHXH huyện Thạch Thành
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Cơ quan BHXH huyện Thạch Thành
+ Về thời gian: Giai đoạn 2015 đến nay và định hướng cho những năm
tiếp theo
4. Kết cấu khóa luận
Ngồi phần mở đầu và kết luận, kết cấu nội dung của khóa luận chia làm
bốn phần
I. Cơ sở lý luận của việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, công chức
II. Thực trạng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên
Cơ quan BHXH huyện Thạch Thành từ năm 2015 đến nay
III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức của đội ngũ cán bộ, viên chức, người lao động ở Cơ quan BHXH huyện
Thạch Thành hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
IV. Kiến nghị
2
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận của việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cho cán bộ,
công chức
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về cán bộ và vị trí, vai trị của đạo
đức cách mạng
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, hơn ai hết Chủ tịch Hồ
Chí Minh thấy rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ. Người chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc”. “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt
hoặc kém”. Bất cứ chính sách, cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức
là có lãi. Khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn. Cán bộ là cái dây
chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, khơng chạy thì động cơ dù tốt,
dù chạy tồn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của
Chính phủ, của Đồn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách
hay cũng khơng thể thực hiện được.
Chính bởi có vai trị quan trọng nên những yêu cầu đặt ra đối với người
cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm cả hai mặt phẩm chất đạo đức và
năng lực. Trong mối quan hệ giữa đạo đức với tài năng, Người khẳng định đạo
đức là gốc, nó quyết định sức mạnh tinh thần to lớn của con người, sức mạnh
đoàn kết dân tộc, nhờ đó mà đạo đức góp phần to lớn quyết định sự thành bại
của sự nghiệp cách mạng nước ta. Theo Hồ Chí Minh thì đối với con người, sức
có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Người từng viết: “Cũng như
sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc,
khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện đối với
mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động, đặc biệt là cán bộ, đảng viên.
Người yêu cầu rèn luyện đạo đức trong các mơi trường gia đình, cơng sở, xã
hội. Tấm gương và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, lâu dài
trong phạm vi dân tộc và quốc tế. Người đề cập đạo đức trong nhiều mối quan
3
hệ khác nhau, nhưng chủ yếu là mối quan hệ với mình, với người và với việc.
Từ đó, Người đã khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con
người Việt Nam trong thời đại mới là: Trung với nước, hiếu với dân; yêu
thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; tinh thần quốc tế
trong sáng.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
2.1. Những chuẩn mực đạo đức cách mạng cần tu dưỡng, rèn luyện
Thứ nhất: Trung với nước, hiếu với dân
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm
chất khác.
Từ khái niệm cũ “Trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền
thống của xã hội phong kiến phương Đơng. Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội
dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu
với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
Hồ Chí Minh cho rằng, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì
nước là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của nước; bao nhiêu quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đầy tớ của
dân chứ không phải là "quan cách mạng".
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho
Đảng cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, phục vụ
nhân dân hài lòng. Để làm được như vậy, phải gần dân, kính trọng và học tập
nhân dân, phải dựa vào dân và lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ
Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan
tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
Thứ hai, Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi con
người, đặc biệt là đối với người cán bộ, đảng viên.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm,
liêm, chính, nhưng không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân tuân theo để
4
phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho
cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo là để đem lại hạnh phúc cho dân.
Với ý nghĩa như vậy cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư cũng là một biểu
hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất "trung với nước, hiếu với dân".
Cần: Tức là lao động cần cù, siêng năng, thậm chí cố gắng, dẻo dai; lao
động với tinh thần tự lực cánh sinh, khơng lười biếng. Cần cịn là làm việc một
cách thơng minh, sáng tạo, có kế hoạch, khoa học.
Kiệm: Là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của
dân, của nước, của bản thân; phải tiết kiệm từ cái lớn đến cái nhỏ, khơng phơ
trương hình thức, khơng xa xỉ, hoang phí. Cần và kiệm phải đi đôi với nhau như
hai chân của con người. Mặt khác, tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi khơng
đáng tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng khơng nên tiêu, nhưng khi có
việc cần làm lợi cho dân, cho nước thì hao bao nhiêu của, tốn bao nhiêu cơng
cũng vui lịng, như thế mới là kiệm.
Liêm: Là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của cơng, của dân,
khơng tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham
người tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Vì
vậy mà quang minh chính đại, khơng bao giờ hủ hóa. Chữ Liêm và chữ Kiệm
phải đi đơi với nhau bởi có kiệm thì mới có liêm được.
Chính: Là khơng tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì là khơng
đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Nói về Chính, Bác viết: “Trên quả đất có hàng
mn triệu người sống, số người ấy có thể chia thành hai hạng: Người thiện và
người ác. Trong xã hội, tuy có trăm cơng, nghìn việc, song, những cơng việc ấy
có thể chia làm hai thứ: Việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện.
Làm việc tà là người tà”.
Cần, kiệm, liêm, là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại
cần có ngành, lá, hoa, quả, mới là hoàn hảo. Một người cần phải cần, kiệm, liêm
nhưng cịn phải chính mới là người hồn hảo.
Chí cơng vơ tư, là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, khơng ham địa
vị, khơng màng công danh, vinh hoa phú quý; “phải lo trước thiên hạ, vui sau
5
thiên hạ. Thực hành Chí cơng vơ tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến
mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả
giặc ngoại xâm.
Các yếu tố trên có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Nó cần thiết đối với
tất cả mọi người, là thước đo bản chất của một con người; là thước đo sự giàu
có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc.
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư; ngược lại đã chí cơng vơ tư,
một lịng vì nước, vì dân thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính
và có được nhiều đức tính tốt khác
Thứ ba, thương u con người, sống có tình nghĩa
u thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Thương yêu, quý trọng con người trong tư
tưởng Hồ Chí Minh luôn đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, biến
thành hành động cụ thể. Đó là tình u thương không chỉ trong phạm vi dân tộc
mà cả phạm vi nhân loại, trước hết dành cho những người nghèo khổ, những
người bị mất quyền, những người bị áp bức, bị bóc lột khơng phân biệt màu da,
dân tộc.
Thứ tư, tinh thần quốc tế trong sáng.
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo
đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, nhằm
vào mối quan hệ rộng lớn, vượt ra khỏi quốc gia, dân tộc.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và
sâu sắc. Đó là sự tơn trọng, hiểu biết, thương u và đồn kết với giai cấp vơ
sản tồn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người
tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng phân biệt
chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, sơvanh, biệt lập và chủ nghĩa
bành trướng bá quyền... Hồ Chí Minh chủ trương giúp bạn là tự giúp mình.
Đồn kết quốc tế là nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị theo tinh
6
thần: bốn phương vô sản, bốn bề đều là anh em. Trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày cơng xây đắp tình đồn kết hữu nghị giữa nhân
dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối
thoại thay đối đầu nhằm kiến tạo một nền văn hóa hịa bình cho nhân loại.
2.2. Những ngun tắc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng
Một là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu
dưỡng đạo đức của mỗi người. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, phải làm thế nào đó để
mỗi người tự nhận thấy việc trau dồi đạo đức cách mạng là một việc "sung
sướng vẻ vang nhất trên đời". Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức
trong hành động vì độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có
trong hành động, đạo đức cách mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Do
vậy đạo đức cách mạng địi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt
động thực tiễn, trong công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn
thẳng vào mình, khơng tự lừa dối, huyền hoặc: phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái
thiện của mình để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc
phục; phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng
ngày. Hồ Chí Minh đưa ra một lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà
phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong”
Hai là, nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Nói đi đơi với làm Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc
nhất trong xây dựng một nền đạo đức. Đạo làm gương là một nét đẹp của văn
hóa phương Đơng. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, lý luận phải gắn với thực tiễn
nhưng điều quan trọng nhất về mặt đạo đức là lấy hiệu quả làm thước đo. Người
chỉ rõ: trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà
ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có đạo đức.
Nêu gương đạo đức thể hiện ở nhiều môi trường và cấp độ khác nhau.
Nhân dân ta thường nói “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Trong mọi
7
biểu hiện làm gương thì người đứng đầu, cán bộ chủ chốt có vai trị rất quan
trọng. Muốn hướng dẫn cấp dưới và nhân dân thì mình phải làm mực thước cho
người ta bắt chước.
Ba là, xây đi đôi với chống
Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống. Trong đời sống hàng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái
đạo đức và cái vô đạo thường đan xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi
của những con người khác nhau, thậm chí là trong mỗi con người. Chính vì vậy,
việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức rõ ràng không đơn giản. Xây phải đi
đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Đây thực sự là "một cuộc chiến đấu khổng lồ" giữa tiến bộ và lạc hậu,
giữa cách mạng và phản cách mạng. Để giành được thắng lợi trong cuộc chiến
đấu này, điều quan trọng là phải phát hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động
hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh, trong
sạch về đạo đức.
3. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay
Trên cơ sở lý luận về đạo đức trong học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng ta ln có quan điểm đúng và rất chú trọng đến vấn đề đạo
đức. Qua các thời kỳ Đại hội Đảng, Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm quý
báu, trong đó đặc biệt đề cao vấn đề đạo đức đối với cán bộ, đảng viên.
Trước thực trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và yêu cầu cấp thiết của công tác nâng cao giáo dục chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống cho tồn thể cán bộ, đảng viên, từ năm 2006 đến nay,
Đảng ta đã triển khai sâu rộng việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt để tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngày 14/5/2011 Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ
thị số 03-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Chỉ thị xác định rõ mục đích của việc tiếp tục đẩy mạnh học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là: Phát huy kết quả đã đạt
8
được, khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện Cuộc vận động "Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong thời gian qua, tiếp tục làm
cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc những nội dung cơ bản và
giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; tạo chuyển
biến mạnh mẽ và sâu rộng hơn nữa về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo
đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn tham nhũng, tiêu
cực; góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Chỉ thị yêu
cầu tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh phải trở thành nhiệm vụ thường xuyên, là trách nhiệm của các cấp ủy, tổ
chức Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) đã ban
hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Đây là
Nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng Đảng được Trung ương thảo luận
và thống nhất rất cao. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 đề ra 03 vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay và xác định vấn đề thứ nhất: kiên quyết đấu
tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng,
củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng" là trọng tâm,
xuyên suốt và cấp bách nhất.
Gần đây nhất, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của
về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
và Hội nghị TW 4 (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết về tăng cường xây dựng
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Qua đó tiếp tục nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức và phong
cách Hồ Chí Minh.
Những quan điểm chỉ đạo của Đảng là nhân tố tạo nên những thành tựu
bước đầu đối với công tác nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong những
9
năm qua. Nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là dịp
để mỗi người Việt Nam tự nhìn nhận lại chính mình theo tinh thần Bác Hồ đã dặn:
học để hành, để làm người, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự
giai cấp và nhân loại.
II. Thực trạng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên Cơ
quan BHXH huyện Thạch Thành từ năm 2015 đến nay
1. Khái quát đặc điểm tình hình cơ quan BHXH huyện Thạch Thành
Cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH) huyện Thạch Thành được thành lập
theo Quyết định số 135/QĐ-TCCB ngày 15/06/1995 của Tổng Giám đốc
BHXH Việt Nam, là cơ quan trực thuộc BHXH tỉnh Thanh Hóa đặt tại huyện
Thạch Thành. Có chức năng giúp Giám đốc BHXH tỉnh tổ chức thực hiện
chế độ, chính sách BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT); quản lý thu, chi BHXH,
BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) cho người tham gia trên địa bàn huyện
Thạch Thành theo quy định. Thạch Thành là một huyện miền núi của tỉnh
Thanh Hóa; phía đơng giáp huyện Hà Trung, phía tây giáp huyện Cẩm Thủy,
phía tây bắc giáp huyện Lạc Sơn và Bá Thước, phía bắc giáp huyện Nho Quan,
phía nam giáp huyện Vĩnh Lộc. Dân số của huyện khoảng 145.000 người gồm
chủ yếu hai cộng đồng dân tộc là người kinh và người mường. Trụ sở cơ quan
BHXH huyện được đặt tại Khu 4 Thị trấn Kim Tân là thị trấn trung tâm của
huyện.
Hiện nay BHXH huyện Thạch Thành có 15 viên chức và người lao động;
Ban giám đốc gồm 3 đồng chí, các bộ phận chun mơn gồm 12 đồng chí; Về
trình độ chun mơn Thạc sỹ chiếm 4 đồng chí, chiếm 26,7%, trình độ Đại học
cao đẳng 9 đồng chí chiếm 60% và trình độ trung cấp 2 đồng chí chiếm 13,3%
(làm cơng tác bảo vệ); Về giới tính: nữ 5 đồng chí chiếm 33,3% nam 10 đồng
chí chiếm 66,7%.
Trong quá trình hoạt động và phát triển, các nhiệm vụ của cơ quan
BHXH liên tục được bổ sung các chức năng nhiệm vụ mới; đến hiện nay cơ
quan có các chức năng cụ thể sau:
10
- Xây dựng trình Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh kế hoạch phát triển Bảo
hiểm xã hội huyện dài hạn, ngắn hạn và chương trình cơng tác hàng năm;
tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình sau khi được phê duyệt.
- Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chế độ, chính
sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
- Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội Việt
Nam và Bảo hiểm xã hội tỉnh
- Giải quyết các kiến nghị, khiếu nại về việc thực hiện chế độ, chính sách
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đối với các tổ chức, cá
nhân tham gia và các cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế theo quy định.
- Thực hiện chương trình, kế hoạch cải cách hành chính theo chỉ đạo,
hướng dẫn của Bảo hiểm xã hội tỉnh. Tổ chức triển khai hệ thống quản lý chất
lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO vào hoạt động của Bảo hiểm xã hội
huyện.
- Tổ chức thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế theo quy định.
- Quản lý, lưu trữ hồ sơ nghiệp vụ, tài liệu hành chính và hồ sơ hưởng các
chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
- Hướng dẫn nghiệp vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
y tế cho các tổ chức, cá nhân tham gia.
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã
hội trên địa bàn, với các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thất nghiệp, bảo hiểm y tế để giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực
hiện các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế theo quy
định.
- Đề xuất, kiến nghị, phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh
tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
11
- Có quyền khởi kiện vụ án dân sự để u cầu tịa án bảo vệ lợi ích cơng
cộng, lợi ích nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm y tế trên địa bàn.
- Định kỳ cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về việc đóng, quyền được
hưởng các chế độ, thủ tục thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế cho người lao động, người sử dụng lao động hoặc khi
người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức cơng đồn u cầu; Cung cấp
đầy đủ và kịp thời tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
- Thường xuyên phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về lao động ở địa
phương cập nhật thơng tin về tình hình sử dụng lao động trên địa bàn. Phối hợp
cơ quan thuế cập nhật mã số thuế của tổ chức, cá nhân; định kỳ hàng năm, cập
nhật thông tin do cơ quan thuế cung cấp về chi phí tiền lương để tính thuế của
doanh nghiệp hoặc tổ chức.
- Quản lý viên chức, người lao động của Bảo hiểm xã hội huyện.
- Tham gia nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ thông tin, khai
thác và bảo mật dữ liệu công nghệ thông tin; thực hiện chế độ thông tin, thống
kê, báo cáo, thi đua - khen thưởng theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội tỉnh.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh giao.
Về cơ bản BHXH huyện đã được phân cấp toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực thu, chi, quản lý quỹ, giải quyết các chế độ chính sách cho người lao động
và được phân thành các bộ phận chủ yếu sau:
- Bộ phận Thu và phát triển đối tượng;
- Bộ phận Cấp sổ BHXH, cấp thẻ BHYT;
- Bộ phận Kế hoạch tài chính;
- Bộ phận Giám định BHYT;
- Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ;
- Bộ chế độ chính sách;
Ngồi ra cịn có các lĩnh vực chuyên môn khác như công nghệ thông tin,
văn thư lưu trữ, hành chính…
12
* Một số kết quả đạt được.
Trong những năm vừa qua, tập thể cán bộ, viên chức, người lao động
trong đơn vị đã phấn đấu đạt được nhiều thành tích cao:
- Về cá nhân:
Tất cả các đồng chí trong cơ quan đều đạt danh hiệu “Lao động tiên tiến”;
nhiều đồng chí đạt danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”; được Bảo hiểm xã hội
Việt Nam tặng bằng khen (03 đồng chí), BHXH tỉnh tặng giấy khen (7 đồng
chí), Đảng bộ huyện tặng giấy khen (1 đồng chí), Cơng đồn huyện và tỉnh tặng
giấy khen (2 đồng chí). Qua đánh giá, xếp loại đảng viên hằng năm, tồn Chi bộ
có 100% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó có 15% hồn
thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần xây dựng Chi bộ liên tục đạt danh hiệu tổ
chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh tiêu biểu, cơ quan luân hoàn thành tốt
và xuất sắc nhiệm vụ được BHXH tỉnh, huyện ủy, HĐND, UBND huyện giao.
- Về tập thể:
Tập thể cơ quan BHXH huyện đạt nhiều thành tích như: Tập thể Lao
động xuất sắc, Cơng đồn vững mạnh xuất sắc, Chi bộ trong sạch vững mạnh
nhiều năm liền, cờ thi đua của BHXH Việt Nam. Cơ quan tiếp tục phấn đấu
nhận cờ thi đua của chính phủ.
2. Thực trạng việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, viên chức,
người lao động cơ quan BHXH huyện Thạch Thành từ năm 2015 đến nay
a. Ưu điểm
Trong những năm vừa qua, cơ quan BHXH huyện đã triển khai đầy đủ,
kịp thời Chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đảng bộ huyện về việc tuyên truyền, học tập các
Chỉ thị, Nghị quyết và thực hiện Kế hoạch, Chương trình cơng tác của cấp ủy
Đảng các cấp. Cơ quan BHXH huyện đã Lãnh đạo tổ chức, quán triệt, triển khai
các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, của huyện: Học tập, quán triệt
và triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, Trung ương 7 (khóa
XII); Xây dựng kế hoạch học tập, quán triệt, tuyên truyền và thực hiện Chỉ thị
số 18-CT/TW, Kết luận số 29- KL/TW của Bộ Chính trị; các Chỉ thị, Quyết
định, Quy định, Kết luận và Thơng báo của Ban Bí thư; Chỉ thị 13-CT/TU và
13
Kết luận số 267-KL/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Quy định số 102-QĐ/TW
ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị quy định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm…
Thực hiện các kế hoạch của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thạch Thành
về việc quán triệt và thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh”, Cơ quan BHXH huyện đã chủ động xây dựng kế hoạch học tập và
tổ chức thực hiện nghiêm túc.
Có thể thấy rõ sau gần 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05 - CT/TW của Bộ
Chính trị gắn với triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bước đầu đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận
thức và hành động trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh của người lao động cơ quan BHXH huyện, đặc biệt là giáo
dục về đạo đức cơng vụ. Từ đó, góp phần hồn thành xuất sắc các nhiệm vụ
chính trị được giao. Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, viên chức,
người lao động cơ quan BHXH huyện được thể hiện cả trong công tác xây dựng
Đảng và công tác chuyên môn, nghiệp vụ, cụ thể như sau:
* Trong công tác xây dựng Đảng
Chi ủy Chi bộ đã làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tuyên truyền
triển khai đầy đủ các Nghị quyết, Chỉ thị, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà
nước đến đảng viên, viên chức và người lao động trong đơn vị; 100% cán bộ, đảng
viên trong Chi bộ tham gia học tập các chỉ thị, nghị quyết. Thường xuyên nắm bắt
tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên; xây dựng tinh thần đoàn kết, hợp tác. Chống
suy thối, dao động về tư tưởng chính trị; nâng cao trách nhiệm, gương mẫu của
người đứng đầu đơn vị. Đến thời điểm hiện nay trong Chi bộ cơ quan khơng đảng
viên nào có biểu hiện suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến” “tự chuyển hóa”.
Trong giai đoạn 2015-2019, Chi bộ thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ, công khai, minh bạch trong tất cả các khâu đối với công tác cán bộ theo
các quyết định, quy định của cấp tren; đã cử 01 đồng chí đi học lớp Cao cấp lý
luận chính trị; 02 đồng chí đi học lớp Trung cấp lý luận chính trị, 02 đồng chí thi
14
và đỗ chuyên viên chính, 04 đồng chí đi học Thạc sĩ, 6 đồng đi học lớp quản lý nhà
nước tại trường Chính trị tỉnh; đã bồi dưỡng, kết nạp 07 quần chúng ưu tú vào
Đảng (bằng 350% so với nghị quyết); đề nghị tặng Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng
cho 02 đảng viên. Trong giai đoạn từ năm 2015- 2019, Chi bộ luôn đạt Tổ chức
đảng trong sạch, vững mạnh; 100% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ (hàng năm
đều có 15% đảng viên hồn thành xuất sắc nhiệm vụ).
Cơng tác phịng chống tham nhũng, lãng phí: Đầu năm Chi bộ đều thực hiện
và ban hành quy chế dân chủ, phối hợp với chuyên môn ban hành quy chế chi tiêu
nội bộ trong đơn vị. Thực hiện các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập theo
quy định của Đảng và Nhà nước tại Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013
của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập. Theo đó, những người thuộc diện
phải kê khai tài sản, kê khai bổ sung, kê khai để phục vụ bổ nhiệm, bổ nhiệm lại
đều thực hiện nghiêm túc theo đúng yêu cầu và hướng dẫn của cấp trên; trình tự,
thủ tục, số lượng bản kê khai và việc lưu giữ bản kê khai được thực hiện theo quy
định, có sự kiểm tra giám sát của Chi ủy Chi bộ. Do làm tốt các nội dung trên,
trong nhiệm kỳ 2015-2019 tại đơn vị không để xảy ra vụ việc tham nhũng.
Trong giai đoạn 2015-2019, thực hiện sự chỉ đạo quyết liệt của Ban giám
đốc cơ quan, các hoạt động chuyên môn trên nhiều lĩnh vực luôn đạt kết quả
cao, đưa BHXH huyện trở thành đơn vị lá cờ đầu trong Ngành BHXH tỉnh
Thanh Hóa được Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam tặng cờ thi đua.
* Trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn
BHXH đã tham mưu cho Ban Thường vụ huyện uỷ đưa chỉ tiêu phát triển
BHYT, BHXH vào Báo cáo văn kiện, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thạch
Thành nhiệm kỳ 2015-2020, Nghị quyết phát triển kinh tế- xã hội- quốc phòng, an
ninh của Hội đồng nhân dân huyện hàng năm. BHXH huyện đã tham mưu cho
UBND huyện ban Quyết định về phê duyệt giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham
gia BHXH, BHYT cho các xã, thị trấn phấn đấu thực hiện đến năm 2020; 06
Quyết định thanh tra liên ngành chấp hành pháp luật về BHXH, BHYT; 06 kết
luận thanh tra, 02 Chỉ thị và 28 cơng văn chỉ đạo thực hiện chính sách BHXH,
BHYT. Phối hợp với Ban Tuyên giáo huyện ủy, Đài Truyền thanh huyện đẩy mạnh
15
hoạt động tuyên truyền gắn với từng giai đoạn để truyền tải chính sách BHXH,
BHYT, BHTN. Ký chương trình phối hợp thực hiện chính sách pháp luật BHXH,
BHYT, BHTN với các Ban, Ngành, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc huyện, Cơng an
huyện, Liên đồn lao động huyện, Ban Dân vận huyện ủy, Hội Liên hiệp phụ nữ
huyện, Chi Cục thuế, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội, Phòng Giáo dục và
Đào tạo. Phát huy tối đa hiệu quả, hiệu lực của việc thực hiện các quy định pháp
luật của Đảng và Nhà nước về BHXH, BHYT; đồng thời đề cao trách nhiệm của
chính quyền các cấp, các ngành, tổ chức và Nhân dân đối với việc thực hiện chính
sách BHXH, BHYT, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội
trên địa bàn.
Thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính
trị về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai
đoạn 2012 – 2020”; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Ban chấp
hành Trung ương về "Cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội”. Với mục tiêu “Xây
dựng ngành BHXH hiện đại, chuyên nghiệp, hướng tới sự hài lòng của người
dân và doanh nghiệp”. Cán bộ, viên chức tồn ngành BHXH nói chung, cơ quan
BHXH huyện Thạch Thành nói riêng ln ln gần gũi với người dân, nâng cao
chất lượng, hiệu quả giải quyết các thủ tục hồ sơ, thực hiện giảm tối đa số giờ
giao dịch, tiết kiệm thời gian và nguồn nhân lực, lựa chọn đúng đối tượng để
thanh tra, kiểm tra; triển khai kịp thời các quy định của Đảng và Nhà nước về
việc phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT.
Cán bộ, viên chức cơ quan BHXH huyện ln có ý thức, trách nhiệm cao
trong công tác cấp, quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT, thực hiện theo quy định, kịp
thời, giảm thời gian, chi phí; tạo thuận lợi cho đơn vị sử dụng lao động các tổ
chức, cá nhân tham gia (cấp mới sổ BHXH cho người lao động từ 30 ngày xuống
còn 5 ngày; cấp mới thẻ từ 10 ngày xuống 3 ngày; cấp lại 5 ngày xuống thành lấy
ngay sau 2 tiếng). Thường xuyên phối hợp với Phòng Lao động Thương binh &
Xã hội, các xã, thị trấn để làm tốt công tác rà sốt thẻ trùng, thẻ khơng đúng đối
tượng. Quản lý, lập danh sách tham gia và phát hành thẻ BHYT cho các đối tượng
16
là người có cơng, người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi, đối
tượng bảo trợ xã hội.
Thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách theo Luật BHXH và các văn bản
hướng dẫn. Các chế độ Hưu trí, tử tuất; ốm đau, thai sản, dưỡng sức, tai nạn lao
động bệnh nghề nghiệp, trợ cấp BHXH một lần, trợ cấp thất nghiệp được giải
quyết đúng chế độ và kịp thời; đảm bảo quyền lợi cho người tham gia.
Phối hợp với BVĐK huyện Thạch Thành, Phòng khám Đa khoa Tâm Tài
thực hiện đúng phương pháp giám định hồ sơ thanh tốn chi phí khám chữa bệnh
(KCB) BHYT theo tỷ lệ. Phát hiện và xử lý nhiều trường hợp vi phạm về Luật
BHYT (như mượn thẻ BHYT đi KCB, lấy thẻ BHYT làm khống bệnh án để lấy
công khám và thuốc). Thực hiện tốt việc kết nối liên thông dữ liệu KCB, truy cập
vào cổng Thông tin giám định của BHXH Việt Nam đạt tỷ lệ 100%. Đảm bảo
quyền lợi cho người tham gia BHYT trên 526 nghìn lượt người, bình qn mỗi
năm trên địa bàn huyện có trên 100 nghìn lượt người đi KCB được quỹ BHYT chi
trả.
Thường xuyên phối hợp với các ngành liên quan, Bưu điện huyện, các xã,
thị trấn chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH an tồn, kịp thời cho người thụ hưởng.
Cơng tác quản lý tài chính thực hiện đúng quy định, quản lý chặt chẽ, khơng xảy ra
tình trạng thất thốt, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Phối hợp chặt chẽ với hệ
thống Ngân hàng, Kho bạc để quản lý và chuyển kịp thời kinh phí thu BHXH,
BHYT, BHTN về BHXH tỉnh.
Cơng tác cải cách thủ tục hành chính được thực hiện công khai, minh bạch
hồ sơ, thủ tục và các quy trình nghiệp vụ. Thay đổi tác phong làm việc từ “hành
chính” sang “phục vụ”, nâng cao chất lượng cơng tác, tinh thần thái độ làm việc,
phong cách ứng xử, giao tiếp của cán bộ, viên chức với các tổ chức, cá nhân. Đa
dạng các hình thức tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả TTHC qua bộ phận “một cửa”,
qua dịch vụ bưu chính, qua giao dịch điện tử.
Cơng tác ứng dụng công nghệ thông tin được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực
như: Tiếp nhận và trả hồ sơ; thực hiện rà soát thẻ BHYT trùng, cấp mã định danh
cho người tham gia; các phần mềm nghiệp vụ được kết nối, liên thơng; tính đến
17
hết năm 2019, 100% đơn vị kê khai, giao dịch hồ sơ điện tử qua mạng, 100% đối
tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT, BHTN được quản lý trên
hệ thống; thực hiện đồng bộ, cấp mã số sổ BHXH duy nhất cho 100% người tham
gia BHXH, BHYT.
Công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư tiếp tục được chỉ đạo thực hiện kịp
thời, đúng quy định. Giai đoạn từ năm 2015 đến 2019 đã tiếp 280 lượt công dân
đến hỏi, đề nghị và kiến nghị trong lĩnh vực BHXH, BHYT; tiếp nhận 55 đơn đề
nghị điều chỉnh lại chế độ BHXH. Giám đốc BHXH huyện đã tập trung chỉ đạo
giải quyết 06 đơn theo thẩm quyền; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp dân đã
được thực hiện kịp thời, đảm bảo đúng quy định của Pháp luật.
b. Hạn chế.
Bên cạnh những ưu điểm trên, đội ngũ cán bộ, viên chức, người lao động
quan BHXH huyện Thạch Thành vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm cần phải
khắc phục như:
Một số ít đồng chí chưa phát huy hết tính tiền phong gương mẫu trong
thực hiện nhiệm vụ, đơi khi chưa tích cực tiếp cận đổi mới, làm việc theo kiểu
“Tối ngày đầy công”, chờ người cầm tay, chỉ việc, có tư tưởng trung bình chủ
nghĩa, làm việc cầm chừng, kém nhiệt tình, say mê trong cơng tác, ý chí phấn
đấu vươn lên kém, khơng làm trịn bổ phận, chức trách nhiệm vụ được giao, an
phận thủ thường, làm việc tắc trách, thiếu ý thức trách nhiệm. Thậm chí cịn có
đảng viên ỷ lại, dựa dẫm, đùn đẩy trách nhiệm.
Tuy khơng có tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
với các biểu hiện như hướng dẫn của Ban tổ chức Trung ương, song trong Chi
bộ một vài đồng chí trong sinh hoạt đảng, sinh hoạt chun mơn cịn ngại phát
biểu, ngại va chạm, chưa mạnh dạn đấu tranh; nói khơng đi đơi với làm, nhận
thức chưa đầy đủ về yêu cầu, nhiệm vụ cơng tác giáo dục trong tình hình mới.
Vẫn cịn có một vài đồng chí chưa thực hiện tốt nội quy của đơn vị, của
ngành, tác phong, lề lối làm việc chưa thực sự chấp hành tốt như: còn đi chậm,
ra sớm, vào muộn, vẫn cịn tình trạng tụ tập chuyện trị trong giờ làm việc, đơi
khi vẫn cịn biểu hiện lơ là với công việc, chủ quan, đơn giản trong quá trình
18
cơng tác.
Một số đảng viên ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm, ngại học tập, nghiên
cứu để trau dồi trình độ chun mơn, nghiệp vụ và nâng cao trình độ lý luận;
việc đổi mới phương pháp làm việc còn chậm chưa đáp ứng được nhu cấu đổi
mới hiện nay. Một số đồng chí chưa thực sự tự giác trong việc tự học nâng cao
trình độ tin học, đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào chuyên môn với các lý
do như tuổi cao, trình độ tiếp cận hạn chế.
Vẫn cịn tình trạng thiếu quan tâm đến đời sống chính trị - xã hội của đất
nước, chỉ chú trọng hoàn thành nhiệm vụ công tác chuyên môn, ngại học tập
đường lối, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước để nâng cao nhận
thức chính trị, củng cố lý tưởng, niềm tin vào con đường đi lên XHCN, dẫn đến
tầm nhìn hạn hẹp, thiếu nhạy bén chính trị, khơng đi sâu tìm tịi, suy nghĩ, kém
tham mưu, đề xuất từ trong cơng việc hàng ngày của mình.
Sinh thời Hồ Chủ tịch đã nói: "Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ
trung thành của nhân dân", tuy nhiên trong thực tế vẫn cịn có cán bộ, đảng
viên, người lao động chưa thực sự đúng nghĩa là “công bộc” của dân, chưa
đúng nghĩa là quan hệ giữa người phục vụ và người được phục vụ mà cịn đặt
nặng tính thủ tục, nguyên tắc cứng nhắc, thiếu tôn trọng.
c. Nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế
* Nguyên nhân của ưu điểm
Cán bộ, đảng viên, người lao động trong đơn vị đã nhận thức đúng đắn và
thực hiện nghiêm túc đường lối đổi mới của Đảng; Được sự quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo của BHXH tỉnh Thanh Hóa; Huyện Ủy, HĐND, UBND huyện Thạch
Thành, biệt chú trọng đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên thể hiện qua việc học tập và làm theo
tấm gương tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Phát huy dân chủ trong đơn vị, trong sinh hoạt chi bộ. Cơng tác đấu tranh
tự phê bình và phê bình, trong xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên được thực hiện
một cách kịp thời, nghiêm túc, dân chủ, thẳng thắn, chân thành. Giữ gìn và tăng
cường sự đồn kết, thống nhất trong Đảng, trong đơn vị.
19
Có sự đồn kết nhất trí cao của tập thể cán bộ, đảng viên trong việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; sự phối hợp chặt chẽ giữa chuyên môn với
các tổ chức khác trong đơn vị. Sự năng động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo
của Ban chấp hành chi uỷ; Sự điều hành tập trung, chặt chẽ, khoa học của Ban
giám đốc cơ quan.
Cán bộ, đảng viên trong đơn vị luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, luôn
phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cách mạng; phát
huy tính tiền phong gương mẫu của mình trong cơng việc, trong học tập và rèn
luyện.
* Nguyên nhân của những hạn chế khuyết điểm:
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên là do có những nguyên nhân chủ
quan và khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Về khách quan: Mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự bùng nổ của khoa
học công nghệ thông tin, sự tiếp thu thiếu chọn lọc của văn hố và lối sống bên
ngồi, những tác động của lối sống, phong tục tập quán cũ…đã tác động tiêu
cực đến lập trường tư tưởng; tác động đến việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên, người lao động nhất là khi chính sách tiền lương,
chính sách đãi ngộ, thu hút của ngành cịn chưa tương xứng với ngày, giờ công
lao động, từ đo dễ dẫn đến việc cán bộ, đảng viên, người lao động thiếu tâm
huyết với nghề.
Bên cạnh đó áp lực trong cơng tác chun mơn rất lớn, hồn cảnh gia
đình cũng tác động trực tiếp đến chất lượng công tác chuyên môn. Số người có
tuổi đời từ 45 trở lên, tuy chuẩn về trình độ chun mơn song khả năng tiếp cận
tin học cịn hạn chế. Số người có tuổi đời từ 35 trở xuống thì tuổi nghề cịn ít,
trình độ kỹ năng giao tiếp chưa thực sự vững vàng; mặt khác hồn cảnh gia đình
khó khăn: con nhỏ, đơn thân, hoặc vợ chồng công tác xa cũng ảnh hưởng rất lớn
đến việc dành thời gian đầu tư nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Về chủ quan: Công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống
cách mạng cho cán bộ, đảng viên, người lao động ở chi bộ chưa được thường
20
xuyên, hiệu quả. Việc tổ chức sinh hoạt định kỳ ở chi bộ chưa có nhiều đổi mới
về nội dung và phương pháp.
Các đồng chí trong cấp ủy chi bộ đều được giao các nhiệm vụ chuyên
môn quan trọng nên thiếu thời gian đầu tư nghiên cứu nghiệp vụ công tác đảng
phần nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng sinh hoạt cho bộ nói chung và cơng
tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nói riêng.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đấu tranh tự phê bình và phê
bình chưa nghiêm, đơi khi cịn nể nang, né tránh.
Công tác kiểm tra, giám sát, giữ vững kỷ cương, kỷ luật thực hiện chưa
nghiêm đối với những cán bộ, đảng viên, người lao động thiếu tu dưỡng rèn
luyện đạo đức lối sống, những biểu hiện vi phạm lại không được phê phán, xử
lý nghiêm minh, hoặc chỉ nhắc nhở qua loa.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng rèn luyện, giảm sút ý chí,
quên đi trách nhiệm hoặc chưa nêu cao vai trò trách nhiệm của mình trước tập
thể, chỉ quan tâm đến lợi riêng của cá nhân mình mà khơng nghĩ đến lợi ích của
tập thể đơn vị.
d. Liên hệ bản thân
Đối với bản thân trên cương vị là chi ủy viên chi bộ, Phó giám đốc cơ
quan, Bí thư đồn TNCS HCM, Ủy viên BCH cơng đồn cơ quan bản thân ln
nỗ lực cố gắng trau dồi chuyên môn, thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công,
đồng thời không ngừng tu dưỡng rèn luyện đạo đức theo tấm gương đạo đức
của Bác luôn là tấm gương sáng về đạo đức, được đồng nghiệp tin tưởng quý
mền. Đối với công việc bản thân là người tận tâm, tận lực với công việc luôn
chấp hành nghiêm túc các chỉ đạo hướng dẫn của cấp trên, tác phong cơng việc
nhạy bén hiệu quả, nói đi đôi với làm. Kết quả nhiều năm liền bản thân ln
“hồn thành xuất sắc nhiệm vụ”, được tặng thưởng Bằng khen, giấy khen của
BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh Thanh Hóa, Cơng đồn BHXH tỉnh, tỉnh đồn
Thanh Hóa, Huyện ủy, UBND huyện Thạch Thành. Cùng với việc thay đổi của
xã hội việc học tập rèn luyện và tu dưỡng về đạo đức và trau dồi nâng cao trình
độ lý luận chính trị, năng lực công tác chuyên môn là công việc thường xuyên
21
liên tục vì vậy trong các giai đoạn tiếp theo để thực sự trở thành một người cán
bộ của nhân dân bản thân nhận thấy mình cần phải cố gắng nỗ lực nhiều hơn
nữa trên tất cả các mặt công tác.
III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức của đội ngũ cán bộ, viên chức, người lao động ở Cơ quan
BHXH huyện Thạch Thành hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng,
phức tạp, khó lường, những tác động tích cực và tiêu cực, thuận lợi và khó
khăn, cơ hội và thách thức, đan xen hết sức phức tạp, đòi hỏi phải xây dựng
được đội ngũ cán bộ, viên chức có chất lượng, ngang tầm, tồn tâm, tồn ý phục
vụ sự nghiệp cách mạng, đào tạo được một lực lượng lao động có chất lượng
cao. Để góp phần nâng cao đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ
viên chức, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị nhằm nâng cao trình độ
lý ḷn chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phải được tiến hành với nhiều nội
dung, nhiều hình thức phong phú, đa dạng nhằm nâng cao nhận thức chính trị,
giác ngộ giai cấp, giác ngộ cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn
xã. Chú trọng giáo dục về Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – kim
chỉ nam, nền tảng tư tưởng của Đảng; giáo dục về mục đích, lý tưởng của Đảng.
Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng phải hướng tới sự tự giác ngộ
trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, nhân cách của cán bộ, đảng viên bằng
hành động cụ thể; luôn cảnh giác trước những cám dỗ về danh lợi, về vật chất,
tránh rơi vào chủ nghĩa cá nhân, thống nhất giữa nói và làm, gương mẫu trong
cuộc sống; đồng thời ln cảnh giác trước các thế lực thù địch. Trọng tâm là tiếp
tục thực hiện tốt Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về "Tiếp tục học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh" và mới đây nhất là học tập nghị quyết về việc “Học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đây là một cuộc
sinh hoạt chính trị sâu rộng, có ý nghĩa sâu sắc đối với toàn Đảng, toàn dân. Mỗi
cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân phải tự giác học tập, rèn luyện bằng
22
những chương trình hành động cụ thể, thiết thực, tạo được bước chuyển biến sâu
sắc về nhận thức, quyết tâm sửa mình theo tấm gương của Bác. Cơng tác này phải
được thực hiện thường xuyên, sâu rộng, thiết thực, hiệu quả trong tồn bộ đời sống
xã hội, tránh tình trạng làm phơ trương, hình thức, thành tích, chiếu lệ.
Hai là, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể trong việc thực hành đạo
đức cách mạng gắn với chức danh, vị trí việc làm của cán bộ, viên chức;
đồng thời phát huy vai trò của tổ chức, nhất là người đứng đầu trong giáo
dục nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, người lao động.
Điểm mới quan trọng trong Chỉ thị 05 – CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh, ngồi việc u cầu tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật có liên
quan đến đạo đức cơng vụ là tính trọng tâm về đối tượng thể hiện rõ tư tưởng
chỉ đạo “trong trước, ngồi sau”, nhất là ở khu vực hành chính sự nghiệp về xây
dựng chuẩn mực đạo đức, đó là: Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị…”; nâng
tầm nhưng vẫn cụ thể về mặt lãnh đạo, chỉ đạo được thể hiện trong Chỉ thị: …
với phương châm “sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện…”;
yêu cầu cao hơn đối với việc xây dựng và sử dụng chuẩn mực đạo đức trong
hoạt động công vụ: “… và đánh giá việc thực hiện”.
Mỗi người lao động khi sinh hoạt trong một cơ quan đơn vị đều phải xem
đó là ngơi nhà thứ hai của mình. Vì vậy, tổ chức có vai trị đặc biệt quan trọng
trong việc giáo dục, quản lý cán bộ, viên chức, góp phần hình thành và giữ gìn
đạo đức cách mạng cho mỗi người. Nếu cán bộ, đảng viên, người lao động được
hoạt động trong một tổ chức tốt, nghĩa là tổ chức với chức năng nhiệm vụ rõ
ràng, quy chế quy định chặt chẽ, kiểm tra thường xun, kỷ luật nghiêm minh,
đồn kết, thân ái thì cán bộ có mơi trường cơng tác tốt, ít xảy ra tiêu cực, vi
phạm pháp luật, đạo đức, lối sống. Bởi vậy, Ban Giám đốc, Chi bộ cơ quan phải
nắm vững tình hình tư tưởng, tâm tư, hồn cảnh của từng người lao động, từ đó
có những biện pháp bồi dưỡng, giáo dục thích hợp.
23
Để giáo dục đạo đức mới có hiệu quả, cần tích cực nghiên cứu, học tập và
làm theo tư tưởng tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong việc giáo dục tấm
gương đạo đức cách mạng, cần coi trọng việc nêu gương của người đứng đầu và
các lãnh đạo chủ chốt của mỗi cơ quan, tập thể cấp uỷ. Đó là người có bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ được
giao; uy tín trong Đảng, trong xã hội; tư duy đổi mới, khả năng tiếp cận, nắm
bắt, xử lý vấn đề mới và vấn đề phức tạp nảy sinh; khả năng đoàn kết, quy tụ;
phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát, nói đi đơi với làm, dám nghĩ,
dám làm,dám chịu trách nhiệm.
Ba là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong
sinh hoạt Đảng.
Tự phê bình, phê bình là quy luật tồn tại phát triển của Đảng, thể hiện
tính Đảng, tính chiến đấu của người cán bộ, đảng viên và là vũ khí sắc bén để
giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, giúp cho cán bộ đảng viên sửa chữa
khuyết điểm, phát huy ưu điểm, tiến bộ không ngừng, trau dồi phẩm chất đạo
đức cách mạng. Tuy nhiên, thực tế ở chi bộ cho thấy, bên cạnh số đông cán bộ,
đảng viên luôn nêu cao và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê
bình, trong các cuộc họp đã dám nói thẳng, nói thật ưu, khuyết điểm giúp đồng
chí mình phát huy, sửa chữa thì vẫn còn một số cán bộ chưa phát huy tốt tinh
thần phê và tự phê. Vì vậy, chi bộ cần phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
này.
Thực hiện tự phê bình và phê bình địi hỏi phải tiến hành thường xun,
phê bình từ trên xuống và từ dưới lên và đạt tới cái đích là làm rõ đúng, sai , bảo
đảm tính khách quan, trung thực, thẳng thắn và chân tình. Khi tiến hành tự phê
bình và phê bình phải đảm bảo đúng nguyên tắc, song cách thức tiến hành phải
mềm dẻo, khéo léo. Nếu chỉ dùng phương pháp cứng rắn, mệnh lệnh, ép buộc
thì rất khó tiếp thu. Việc phê bình khơng đúng lúc, đúng chỗ, khơng khơn khéo
sẽ có tác dụng ngược lại thậm chí cịn gây ra hậu quả khó lường. Người được
24
phê bình phải có thái độ thành khẩn, vui lịng để sửa đổi, khơng nên vì bị phê
bình mà nản chí hoặc ốn ghét.
Bốn là, thực hiện nghiêm túc việc đánh giá cán bộ.
Đây là khâu có ý nghĩa quyết định trong công tác cán bộ, là cơ sở để tiến
hành việc bố trí, sử dụng và thực hiện các chính sách cán bộ, thực hiện việc bổ
nhiệm, và miễn nhiệm. Đánh giá đúng cán bộ sẽ phát huy được tiềm năng của
từng người và của cả đội ngũ cán bộ. Đánh giá không đúng bản chất của cán bộ
sẽ dẫn đến việc bố trí, sử dụng sai cán bộ, sẽ hỏng người, hỏng việc, mà quan
trọng hơn là làm mai một dần động lực phát triển, có khi thui chột những tài
năng, làm cho chân lý bị lu mờ, vàng thau lẫn lộn, xói mịn niềm tin của đảng
viên, quần chúng đối với lãnh đạo, ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Hiện nay, việc đánh giá cán bộ vẫn thường được tiến hành hàng năm hoặc
tại những thời điểm bổ nhiệm; thực tế đánh giá thường cịn nặng về cảm tính,
thiếu tính khách quan, cơng tâm hoặc theo mục đích đã định sẵn (như đánh giá
cán bộ để đề nghị bổ nhiệm thì nhấn mạnh và nêu nhiều ưu điểm; Phần khuyết
điểm thường khơng nhắc đến hoặc nêu rất ít, thường chỉ nêu chung chung
những biểu hiện bề ngồi, như “cịn nóng nảy”, “cịn nể nang”, …), dẫn đến
việc đánh giá khơng chính xác, mang nặng tính hình thức.
Để đánh giá cán bộ được chính xác mỗi cán bộ, đảng viên, mà trước hết
là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải thực hiện tự kiểm điểm bản thân, liên
hệ theo chức trách nhiệm vụ được giao, căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn chức
danh, chú trọng hiệu quả hoạt động thực tiễn, xem xét trong cả một quá trình.
Tổ chức cho mọi người tham gia góp ý thẳng thắn, dân chủ, cơng khai, nghiêm
túc, chân thành và lấy phiếu tín nhiệm. Tùy thuộc vào từng đối tượng mà lựa
chọn thành phần lấy phiếu tín nhiệm cho phù hợp.
Năm là, thực hiện tốt việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên, xây
dựng môi trường tạo động lực thực hành đạo đức cách mạng.
Cần chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, đảng viên,
người lao động gắn với bồi dưỡng tình yêu và đạo đức nghề nghiệp. Đảm bảo
25