Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO PHÁP LUẬT DÂN SỰ THỜI THUỘC PHÁP-PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG VÀ SỰ KẾT HỢP PHÁP LUẬT TƯ SẢN PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.04 KB, 72 trang )

PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG VÀ SỰ KẾT
HỢP PHÁP LUẬT TƯ SẢN PHÁP

Các bộ luật thời kì phong kiến ở Việt Nam đều là các bộ luật tổng hợp với
các chế định ở hầu hết các lĩnh vực: dân sự, hình sự, hơn nhân gia đình,… với
các chế tài hình phạt. Các điều khoản trong bộ Luật cũng thể hiện rõ các tư tưởng
chính trị pháp lí ngoại nhập như Nho giáo, Pháp trị từ Trung Quốc nhưng vẫn có
nhiều tư tưởng chính trị pháp lí nội sinh của người Việt Nam như: tư tưởng yêu
nước, các tư tưởng chính trị pháp lí làng xã.
Là những bộ luật được ban hành trong thời quân chủ và phong kiến, các
Bộ luật cổ của Việt Nam cũng phản ánh rất rõ nét bản chất bảo vệ lợi ích của
giai cấp bóc lột và thống trị. Chính vì vậy, qua những quy định của các bộ luật
có thể thấy rất nhiều quy định mang tính bất cơng như: bảo vệ những đặc quyền,
đặc lợi của quan lại; việc đề cao quyền lực và thứ bậc xã hội; bảo vệ sự bất bình
đẳng giữa vợ và chồng; quy định khắt khe đối với người phụ nữ… Mặc dù
những quy định đó đã khơng cịn được ghi nhận trong pháp luật đương đại,
nhưng dấu ấn mà nó để lại vẫn cịn hiện hữu trong một bộ phận cán bộ và nhân
dân, làm cản trở sự phát triển của xã hội đương thời.
Vì vậy có thể nói, các bộ luật ở Việt Nam thời kì phong kiến là những
thành tựu lập pháp rất nổi bật, có nhiều giá trị và thể hiện thể chế chính trị của
nước ta trong một khoảng thời gian dài. Điều này đã đi vào đời sống văn hóa, trở
thành phong tục tập quán của dân ta, nên sau này khi xây dựng Bộ luật Bắc Kì
1931, các nhà làm luật đã cân nhắc, học tập nhiều từ các bộ luật này để ra những
chế định phù
hợp.
Quá trình du nhập pháp luật phương Tây vào Việt Nam theo đoàn quân
viễn chinh Pháp từ cuối thế kỷ thứ 19 lại là một quá trình cưỡng bức. Và sự học
tập đáng kể nữa đó chính là sự truyền nhập của văn hóa cận đại phương Tây
trong bối cảnh nước ta bị thực dân Pháp đơ hộ. Những quy chế pháp lí trên các
vùng đất, những Bộ Luật mà thực dân Pháp cho soạn thảo đều hàm chứa rất



nhiều các


chế định mà trước đây pháp luật Việt Nam chưa từng xuất hiện.
Thành tựu pháp luật Phương Tây được tiếp thu trong Bộ dân luật Bắc Kì
1931 đó chính là Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 (còn gọi là Bộ luật
Napoleon).
Sau cách mạng dân chủ tư sản Pháp năm 1789, chính quyền mới mong
muốn xây dựng một Bộ luật dân sự, nhưng ý định đó đã khơng biến thành hiện
thực. Quốc hội lập hiến (Constitutiante), cũng như Quốc hội lập pháp
(Legislative) đã có dự kiến sẽ ban hành một Bộ luật chung về dân sự để áp dụng
cho toàn thể vương quốc, nhưng cả hai dự án đều không thành. Chính quyền
Quốc ước (Conventionnel) muốn tiếp tục thực hiện dự án này nhưng cũng như
hai dự án trước, Bộ luật vẫn chưa thể ra đời được. Jean Jacques Regis de
Cambecéres, một trong những tác giả của Bộ luật dân sự Napoleon 1804 đã đưa
ra hai bản dự thảo và dưới chế độ Đốc chính (Directoire) cịn đưa ra bản dự thảo
thứ ba, nhưng cả ba bản dự thảo này đều không được chấp nhận. Một số lĩnh
vực đặc biệt là lĩnh vực hơn nhân và gia đình cịn có nhiều bất đồng giữa các
viện của Nghị viện. Sau đó không lâu, hai nhà luật học nổi tiếng lúc bấy giờ là
Jaqueminot và Target còn đưa ra một dự thảo Bộ luật với danh nghĩa cá nhân.
Khi Napoleon Bonaparte trở thành Hoàng đế nước Pháp, ý tưởng xây
dựng Bộ luật dân sự đã có điều kiện chín muồi để trở thành hiện thực. Với ý chí
chính trị mạnh mẽ, Napoleon đã biến những mơ ước về Bộ luật dân sự của mình
từ những ngày trong tù ngục trở thành hiện thực. Ngày 12/8/1800 một uỷ ban
soạn thảo Bộ luật dân sự được thành lập với 4 thành viên, 4 luật gia nổi tiếng
lúc bấy giờ là: Tronchet, Portails, Bigot de Preameneu và Malleville. Dự thảo
Bộ luật được soạn thảo trong hai năm và được trình lên Tồ tư pháp tối cao và
các toà phúc thẩm để xem xét. Các toà án đã đồng ý với các nội dung cơ bản của
dự luật. Cuối cùng, Bộ luật dân sự đã được công bố bởi đạo luật ngày 21/3/1804.

Bộ luật này đã thay thế toàn Bộ hệ thống pháp luật dân sự phong kiến.Bộ luật
Dân sự Pháp (tiếng Pháp: Code Civil) còn gọi là Bộ luật Napoléon là Bộ luật về
dân sự được kiến lập bởi Napoléon Bonaparte vào năm 1804. Với Code Civil có
lẽ Napoléon đã tạo nên một tác phẩm luật quan trọng nhất của thời kỳ hiện đại.
Tại


Pháp, về nhiều phần cơ bản, Bộ luật Napoléon này vẫn còn hiệu lực cho đến
ngày
nay.
Bộ luật cũng được đưa vào áp dụng trong các quốc gia chịu ảnh hưởng
lớn của Pháp trong thời gian từ 1807 đến 1814 (thí dụ như Đại công quốc
Warszawa (tiếng Anh: Warsaw), Đại công quốc Luxembourg, Mexico, Ai Cập,
một số bang của Hoa Kỳ hay Vương quốc Hà Lan). Tại Đức Bộ luật này có hiệu
lực trực tiếp trong các vùng tả ngạn sơng Rhein do nước Pháp chiếm đóng, trong
một số quốc gia của Liên minh Rhein (tiếng Đức: Rheinbund) (Vương quốc
Westfalen, Frankfurt am Main, Berg, AnhaltKöthen) Bộ luật được đưa vào sử
dụng khơng có thay đổi lớn. Chỉ trong vịng vài năm Bộ luật đã có hiệu lực từ
Lissabon đến Vacsava và từ Hà Lan cho đến bờ biển Adria. Thất bại của
Napoléon tại Waterloo đã khơng kìm hãm được việc truyền bá Bộ luật này: đặc
biệt là ở Tây Âu và Nam Âu cũng như là ở Bắc Mỹ và Nam Mỹ các Bộ luật đều
hướng về Code Civil.
Tại Pháp trong số 2.285 điều khoản hiện đang có hiệu lực của Bộ luật là
vẫn còn 1.200 điều khoản phù hợp với tác phẩm nguyên thủy. Năm 2004 tại 22
quốc gia đã có lễ kỷ niệm 200 năm ngày thành lập tác phẩm này.
Bộ luật dân sự Napoleon bao gồm 2283 Điều, chia thành Thiên mở đầu
(Titre Preliminaire) và 3 Quyển (Livre). Các quyển chia làm các Thiên (Titre),
các Thiên chia thành các Chương (Chapitre); các Chương chia làm các Phần
(Section); các phần chia thành các Điều (Article).
Thiên mở đầu (Titre Preliminaire) từ Điều 1 đến Điều 6. Thiên này được

gọi là: “Công bố luật, hiệu lực của luật và áp dụng luật” (De la publication, des
effets et de l,application des lois en general) chứa đựng một số nguyên tắc cơ
bản về luật:
- Văn bản luật và văn bản hành chính, trong trường hợp được đăng trên
cơng báo của Cộng hồ Pháp, có hiệu lực kể từ ngày quy định tại văn bản đó
hoặc kể từ ngày sau ngày cơng bố nếu văn bản luật, văn bản hành chính khơng
quy định ngày phát sinh hiệu lực. Tuy nhiên, đối với những điều khoản mà việc
thi hành địi hỏi phải có quy định hướng dẫn thì thời điểm có hiệu lực được lùi
lại đến ngày quy định hướng dẫn thi hành đó có hiệu lực. Trong trường hợp khẩn


cấp, văn bản luật


hoặc văn bản hành chính sẽ có hiệu lực pháp luật ngay từ thời điểm cơng bố của
Hồng đế (Tổng thống) đối với văn bản luật, hoặc theo quy định của Chính phủ
đối với văn bản hành chính (Điều 1);
- Luật chỉ có hiệu lực về tương lai, khơng có hiệu lực hồi tố (Điều 2);
- Các luật về tổ chức Bộ máy nhà nước và về hình sự bắt buộc thực hiện
đối với bất kỳ ai sống trên lãnh thổ Pháp;
- Các bất động sản của những người nước ngoài trên lãnh thổ Pháp được
điều chỉnh theo luật của Pháp;
- Địa vị pháp lý và năng lực pháp luật của cơng dân Pháp ở nước ngồi
được xác định theo luật của Pháp (Điều 3);
- Thẩm phán mà từ chối xét xử với lý do pháp luật không quy định, quy
định khơng rõ ràng hay khơng đầy đủ thì có thể bị truy tố vì tội khơng xét xử
(Điều 4);
- Cấm thẩm phán đặt ra các quy định chung và có tính lập quy để tun án
khi giải quyết một vụ việc mà mình được giao xét xử (Điều 5);
- Không được thực hiện bất kỳ một thoả thuận (hợp đồng) nào vi phạm

trật tự và đạo đức xã hội (Điều 6) [34, p.19].
Quyển 1 - Về người (Des personnes) từ Điều 7 đến Điều 515.
Quyển này quy định về chứng thư, hộ tịch (Des actes de l, Etat civil) như
chứng thư khai sinh, chứng thư kết hôn, chứng thư khai tử; nơi cư trú, mất tích,
hơn nhân, ly hơn, quan hệ giữa cha mẹ và con, quan hệ giữa cha mẹ ni và con
ni, quyền của cha mẹ, tình trạng vị thành niên, giám hộ và quyền tự lập, tình
trạng thành niên và những người thành niên được pháp luật bảo hộ.
Quyển 2 - Về tài sản và những thay đổi về sở hữu (Des biens et des
differentes modifications de la propriete) từ Điều 516 đến Điều 710.
Quyển này quy định về phân biệt các loại tài sản (động sản, bất động sản),
về sở hữu, quyền thu hoa lợi, quyền sử dụng và quyền cư dụng (de l,habitation);
dịch quyền (một nghĩa vụ đối với bất động sản tạo điều kiện thuận tiện cho việc
sử dụng bất động sản của người khác) hay địa dịch (des servitudes ou services


fonciers), dịch quyền phát sinh địa thế, dịch quyền xác lập theo quy định của
pháp luật (như các quy định về tường hào chung; hoảng cách giữa các cơng trình
trung gian cần thiết đối với một số cơng trình xây dựng; trổ cửa sổ sang bất
động sản của nhà hàng xóm; máng nước dọc mái nhà); dịch quyền về lối đi;
dịch quyền xác lập theo ý chí của con người; chấm dứt dịch quyền.
Quyển 3 – Các phương thức xác lập quyền sở hữu (Des differentes
manieres dont on acquiert la propriete) từ Điều 711 đến Điều 2281. Quyển này
bao gồm các quy phạm pháp luật liên quan đến các vấn đề thừa kế, tặng cho lúc
còn sống và di chúc; hợp đồng hay nghĩa vụ hợp đồng nói chung; những cam kết
được hình thành khơng thơng qua thỏa thuận; hơn ước và các chế độ tài sản
trong hôn nhân; hợp đồng mua bán; hợp đồng trao đổi; hợp đồng thuê mướn;
hợp thầu khốn xây dựng bất động sản; cơng ty dân sự; những thoả thuận liên
quan đến việc thực hiện những quyền không chia phần; vay mượn; gửi giữ và
quyền trữ; hợp đồng mang tính chất may rủi (đánh bạc và cá cược; hợp đồng về
lợi tức trọn đời); uỷ quyền; bảo lãnh; dàn xếp, thoả thuận trọng tài; cầm cố;

quyền ưu tiên và quyền thế chấp; cưỡng chế chuyển quyền sở hữu và thứ tự giữa
những người có quyền; thời hiệu và chiếm hữu.
F. Engels coi Bộ luật Napoleon là “Bộ luật tư sản hiện đại nhất, mà cơ sở
của nó là những thành quả xã hội của cuộc đại cách mạng tư sản Pháp” bởi
những lí do sau:
- Tinh thần của Bộ luật phù hợp với truyền thống của dân tộc và yêu cầu
của thời đại;
- Ngôn ngữ sử dụng giản dị, trong sáng, dễ hiểu, câu văn khúc chiết, tư
duy


logic
- Kết hợp khéo léo giữa tính tổng quát và tính cụ thể làm cho Bộ luật có
thể áp dụng trực tiếp mà khơng cần phải bình luận, giải thích hay hướng dẫn thi
hành;
- Bộ luật kế thừa được những tinh tuý của Bộ luật La Mã cổ đại.
- Bộ luật ln ln được bổ sung, sửa đổi và hồn thiện theo sự phát triển


của các quan hệ xã hội.
Cách thức bổ sung sửa đổi, đưa vào Bộ luật những nội dung mới nhưng
không phá vỡ cấu trúc và không làm thay đổi trật tự các điều luật trong Bộ luật
là một điều kỳ diệu, làm cho Bộ luật dân sự Napoleon sau hơn 200 năm tồn tại
vẫn còn nguyên 2283 điều.
Theo thời gian, Bộ luật Napoleon vẫn là Bộ luật mẫu mực nhất trong số
các Bộ luật của xã hội tư sản. Chính vì thế mà Bộ luật Napoleon đã ảnh hưởng
rất lớn đến sự hình thành luật dân sự ở nhiều nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, do thực tế lịch sử Pháp xâm chiếm nước ta và thiết lập các
quy chế chính trị lên từng vùng của đất nước. Sau đó xây dựng hệ thống pháp
luật phù hợp cho từng vùng. Ở Bắc Kì, với việc xây dựng Bộ dân luật Bắc Kì

1931 thì các nhà làm luật cũng đã tiếp thu những tinh hoa trong Bộ Dân Luật
Pháp khi làm ra các chế định pháp luật. Vì vậy có thể thấy rất nhiều các chế
định lần đầu tiên xuất hiện trong Bộ luật thực thi tại Việt Nam. Đây chính là một
bước tiến rất dài trong quá trình tiếp thu pháp luật nước ngoài từ một đất nước
tiến Bộ trên thế giới để áp dụng xây dựng pháp luật.
Có thể nói, hài hồ hố các giá trị văn hố pháp lý trong điều kiện hội
nhập với thế giới là mục đích, yêu cầu khách quan thực tế đối với của chúng ta.
Việc cân đối giữa “cái ta đã có” để kết hợp với “cái ta đang cần” nhằm tạo nên
diện mạo mới của nền văn hoá pháp lý nước nhà được coi là nội dung cốt yếu
nhất của phương hướng xây dựng nền văn hoá pháp lý Việt Nam hiện nay.
Trong quá trình xây dựng các Bộ luật, thì hai yếu tố văn hóa pháp luật bản
địa và pháp luật phương Tây được kết hợp một cách hợp lí. Bộ luật dân sự Bắc
Kì 1931 là ví dụ điển hình về sự kết hợp này.
Bộ luật này chính là kết quả rõ rệt nhất của sự kế thừa văn hóa chính trị
pháp lý của các khu vực, vừa là do hoàn cảnh lịch sử tất yếu mà Việt Nam buộc
phải trải qua khi bị thực dân Pháp đô hộ.
1.2.
1931

Bố cục và nội dung của Bộ dân luật Bắc Kì


Ngày 28 tháng 8 năm 1930 thống sứ Bắc Kì lập một ban dự thảo Bộ Dân
luật Bắc Kì 1931, Thống sứ Bắc Kỳ ra Nghị định ban hành Bộ Dân luật Bắc Kì
thi hành trên tồn Bắc kì từ ngày 1 tháng 7 năm 1931.
Bộ dân luật Bắc Kì gồm có thiên đầu và bốn quyển, mỗi quyển lại được
chia thành nhiều thiên, mỗi thiên lại được chia thành nhiều chương ngắn, tổng
cộng có 1.455 điều.
- Thiên đầu, nêu các nguyên tắc cơ bản của dân luật như nguyên tắc công
bố luật, nguyên tắc bất hồi tố, nguyên tắc bình đẳng, tự do cá nhân và tơn trọng

quyền tư hữu...
- Quyển thứ nhất: Nói về người, bao gồm các quy định về quốc tịch, hộ
tịch (khai sinh, khai tử, trú qn, thất tung - mất tích...), về hơn nhân và gia đình,
chế độ tài sản của vợ chồng, thừa kế;
- Quyển thứ hai: Nói về tài sản, bao gồm các quy định về phân biệt các tài
sản (động sản và bất động sản), về quyền sở hữu, về các hình thức sở hữu, về
quyền của chủ sở hữu, về chuyển dịch sở hữu...
- Quyển thứ ba: Nói về nghĩa vụ khế ước;
- Quyển thứ tư: Nói về cách viện chứng, bao gồm các quy định về cách
thu nhận, đánh giá và viện dẫn các chứng cứ trong các vụ kiện dân sự.
Dù ở ba xứ Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì đều được ban hành ba bộ dân luật
nhưng đáng chú ý hơn cả là Bộ Dân luật Bắc Kì, vì đây là Bộ luật phản ánh một
phần các phong tục, tập quán của người Việt Nam, kỹ thuật lập pháp khá tinh vi,
với cách thể hiện khá nôm na và dễ hiểu.



Kết luận chương 1
Tư tưởng pháp luật truyền thống Việt Nam là sự thể hiện tiếp nối truyền
thống tư tưởng của dân tộc được kết tinh hàng ngàn năm trong suốt chiều dài
dựng nước và giữ nước. Còn tư tưởng pháp luật phương Tây là tinh hoa tiên tiến
của văn hóa nhân loại. Trên cơ sở những giá trị văn hố truyền thống có sức
sống mãnh liệt, có đặc sắc riêng của dân tộc, nhà lập pháp thời Pháp thuộc đã
chắt lọc, tiếp thu và vận dụng và kết hợp với những điểm mới trong pháp luật
phương Tây để xây dựng Bộ dân luật Bắc Kì 1931. Thế kỷ XIX, trong bối cảnh
đất nước ta phải chịu ách đô hộ của thực dân Pháp,một đất nước có sự phát triển
mạnh mẽ của chế độ tư bản chủ nghĩa, thì các nhà làm luật thời kì Pháp thuộc,
trên cơ sở vẫn tiếp thu và giữ các giá trị tư tưởng truyền thống vì từng điều luật
có trong thời kì phong kiến đều có chứa đựng nhiều giá trị quý báu về tư tưởng
và kinh nghiệm lập pháp của cha ông ta trong việc nhìn nhận, đánh giá vị trí, vai

trị của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Từ trong nhu
cầu đô hộ cai trị dân tộc ta, và trong xu thế phát triển của thế giới mà nội dung
của nó được quy định bởi các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hố – xã hội đã
cho ra đời một bộ luật độc đáo khơng chỉ có những yếu tố thuần Việt mà cịn có
sự tiếp nhận những yếu tố nước ngồi đã được Việt hoá theo những tiêu chuẩn
mà người Việt coi trọng.
Bộ dân luật Bắc Kì 1931 được xem là một trong những Bộ luật tiêu biểu của luật
pháp Việt Nam thời thuộc Pháp. Khác với hai bộ Dân luật Trung Kì và Bộ Dân
luật giản yếu Nam Kì, Bộ luật Dân sự Bắc Kì có nhiều chế định phù hợp và tiến
bộ hơn khi kết hợp được rất hợp lí hai yếu tố tư tưởng pháp luật cổ truyền và tư
tưởng pháp luật phương Tây. Điều này đã làm nên nét đặc trưng của bộ Luật
này. Bởi khi thực dân Pháp đô hộ nước ta, những nguyên tắc ứng xử của tư
tưởng pháp luật phong kiến vẫn được chính quyền thực dân sử dụng để giải
quyết nhiều vấn đề liên quan đến đời sống dân sự. Và các nhà làm luật cũng
phải học tập những điểm mới từ tư tưởng pháp luật phương Tây để có thể theo
kịp với xu thế của thời kì mới.
Dù cả ba Bộ luật, Bộ luật dân sự Bắc kì, Bộ luật dân sự Trung Kì và Bộ


luật dân sự giản yếu Nam Kì đều để lại những thành tựu đáng kể trong quá trình
xây dựng pháp luật về sau, Và mỗi Bộ luật lại phản ánh sự tiếp thu và kết hợp
khác nhau của yếu tố pháp luật dân tộc và yếu tố ngoại bang theo từng mức độ
nhưng bộ dân luật Bắc Kì 1931 được đánh giá là tiêu biểu nhất trong hệ thống
pháp luật ở thời kì Pháp thuộc. Trong phạm vi luận văn thạc sĩ này, tôi chỉ xin
dừng lại ở việc phân tích để làm rõ về đặc trưng cơ bản nhất của bộ luật này đó
là “Sự kết hợp tư tưởng pháp luật phương Tây và tư tưởng pháp luật truyền
thống Việt Nam trong Bộ Dân luật Bắc Kì 1931”.


Chương 2

SỰ KẾT HỢP TƯ TƯỞNG PHÁP LUẬT PHƯƠNG TÂY VÀ TƯ
TƯỞNG PHÁP LUẬT TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM – ĐẶC TRƯNG
CƠ BẢN CỦA BỘ DÂN LUẬT BẮC KÌ 1931.
2.1. Biểu hiện sự kết hợp tư tưởng pháp luật phương Tây và tư tưởng pháp
luật truyền thống Việt Nam trong bộ dân luật 1931 trên một số chế định cơ
bản
2.1.1.Sự kết hợp trong các vấn đề nguyên tắc cơ bản của dân Luật
Khi soạn thảo một BDL, các nhà lập pháp luôn chú trọng đến việc chế
định các nguyên tắc của BDL đó, bởi lẽ các nguyên tắc này là những tư tưởng,
quan điểm pháp lý cơ bản mang tính chỉ đạo mà một BDL cần phải có để bao
quát, định hướng tất cả các điều khoản, các chế định nằm trong chính BDL.
Ngồi ra, khi cơ quan tài phán giải thích một điều luật khơng rõ nghĩa hoặc có
thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau mà khơng thể tìm thấy đáp án thích
hợp ở chính điều luật đó hoặc ở chế định bao hàm điều luật đó thì cơ quan tài
phán có thể viện dẫn các tục lệ và các nguyên tắc căn bản của BDL để giải thích
điều luật.
Cần phải khẳng định rằng, không phải mọi BDL đều quy định một cách
rõ ràng, tách bạch về các nguyên tắc chung; hay nói khác đi là trong tiến trình
lập pháp, ở mỗi thời điểm khác nhau, do các phương pháp làm luật khác nhau
nên dù cùng ở nước ta, các Bộ luật cũng có cách thức thể hiện các nguyên tắc
khác nhau.
Trong hai Bộ luật cổ ở Việt Nam là Bộ Quốc Triều Hình Luật và Bộ
Hồng Việt luật lệ, dù có những nguyên tắc chủ đạo xuyên suốt cả Bộ luật
nhưng các nguyên tắc đó chưa được viết cụ thể và qui định rõ ràng ở các
chương đầu tiên giống như các Bộ luật ở thời kì hiện đại.
Bộ dân luật Bắc Kì 1931 do có sự ảnh hưởng từ Bộ Dân luật Pháp. Mà Bộ
Dân Luật Pháp là một trong những Bộ Luật đi theo xu hướng là một trong
những BDL có ghi nhận sự tồn tại một cách rõ ràng của nguyên tắc cơ bản.
Thiên mở đầu của BDL Napoleon trứ danh (BDL Pháp) gồm 6 điều quy



định tất cả những vấn đề chung nhất, mang tính cốt lõi, nền tảng của tồn Bộ
BDL nói riêng cũng như nền pháp chế luật thành văn Pháp nói chung. Các quy
tắc như mức độ điều chỉnh của cảnh luật, luật cho bất động sản và quy chế về
nhân trạng và năng lực cho những người pháp ở nước ngoài tại Điều 3 được sử
dụng làm khuôn mẫu cho các BDL của nhiều nước, nhất là các xứ thuộc Pháp.
Điều 4 và Điều 5 mang tính song trùng và thực sự không thể tách rời nhau, là
hai mặt của một đồng tiền. Điều 4 loại trừ khả năng khước từ thụ lý xét xử một
vụ việc của thẩm phán với lý do là luật khơng điều chỉnh, thậm chí điều này còn
áp chế tài thật nặng (truy tố về tội không thụ lý) cho thẩm phán khi thẩm phán
thực hành hành vi này. Thực tế là, khi thẩm phán xét xử mà không cần tham
chiếu các điều khoản của luật thành văn thì lẽ dĩ nhiên là các án văn này sẽ
mang tính mới, và điều này có thể dẫn đến việc thiết lập các án lệ, làm mất màu
sắc của nền pháp lý Pháp. Các nhà lập pháp của BDL Napoleon đã ngay lập tức
đề ra một “cơ chế phòng bị” là Điều 5 khi khẳng định là các nguyên tắc, tư
tưởng áp dụng cho một vụ việc thì chỉ có hiệu lực với chính vụ việc đó mà thôi,
tuyệt đối cấm áp dụng cho vụ việc khác. Cuối cùng, Điều 6 nêu lên giới hạn của
các giao dịch dân sự khi tuyên bố rằng những thỏa thuận dân sự nào mà trái trật
tự cơng hoặc đạo đức thì đương nhiên bị bãi bỏ.
Bộ Dân Luật Bắc Kì ngay tại chương đầu tiên của Bộ luật cũng đã nêu lên
những nguyên tắc cơ bản được chỉ đạo xuyên suốt trong tất cả các điều dân luật
được qui định trong Bộ luật này.
Đó là những qui định như nêu các nguyên tắc cơ bản của dân luật như
nguyên tắc công bố luật, nguyên tắc bất hồi tố, nguyên tắc bình đẳng, tự do cá
nhân và tơn trọng quyền tư hữu...
Ví dụ như các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc Bất hồi tố được qui định ở điều thứ 3 trong Bộ dân
luật Bắc Kì 1931
Đó là việc chỉ áp dụng luật về tương lai, khơng áp dụng về q khứ, nó
được thừa nhận rộng rãi cả ở cả hệ thống luật thành văn và hệ thống thông luật.



Nguyên tắc bất hồi tố này bắt nguồn từ luật hình với câu nói nổi tiếng của
Fuerbach là nullum crimen sine lege, nulla poena sine lege (không là tội phạm
mà khơng có luật, khơng có hình phạt mà khơng có luật), dần dà nguyên tắc này
cũng được chuyển sang địa hạt dân luật.
Nguyên tắc này thể hiện rất rõ tính nhân văn và hợp lý của một nền pháp
chế, vì, một cách tất yếu, người ta không thể bị điều chỉnh bởi hành vi trong quá
khứ khi sự điều chỉnh này lại đến từ pháp luật hiện tại. Nguyên tắc bất hồi tối
được một số BDL như BDL Pháp (Điều 2) minh định một cách rõ ràng.
- Nguyên tắc áp dụng tập quán khi luật khiếm khuyết qui định ở
điều thứ 4 trong Bộ dân luật Bắc Kì 1931
Một nền pháp luật theo hệ thống dân luật thường có hai nguồn cơ bản là
luật thành văn và tập quán pháp. Khi các cơ quan tố tụng tiến hành hoạt động xét
xử, có những trường hợp trên thực tế họ khơng tìm thấy một quy định pháp luật
phù hợp nào có thể điều chỉnh vụ việc mà mình đang xử lý, thẩm phán sẽ cầu
viện đến các tập quán pháp để điều chỉnh vấn đề đó. Thực tiễn cuộc sống vơ
cùng phong phú với tầng tầng lớp lớp các quan hệ đan xen chằng chịt, một nền
pháp chế nói chung cũng như một BDL nói riêng dù có hồn thiện đến mấy
cũng sẽ bỏ sót một số quan hệ nhất định, thẩm phán về nguyên tắc là không thể
từ chối thụ lý, buộc phải sử dụng các tập quán được áp dụng lâu đời để giải
quyết vụ việc. Việc thừa nhận tập quán như là một nguồn chính thống của dân
luật mang lại rất nhiều lợi ích cho nhiều bên, các bên đương sự được giải quyết
vụ việc của mình, thẩm phán không vi phạm nguyên tắc cấm từ chối thụ lý, cịn
nền pháp chế, khi có những khiếm khuyết pháp luật, sẽ luôn được lấp đầy bởi
các tập quán pháp.
- Nguyên tắc cấm từ chối thụ lý qui định ở điều thứ 5 Bộ dân luật
Bắc Kì 1931
Nguyên tắc này có phần liên hệ với nguyên tắc áp dụng tập qn vì thơng
thường, trong trường hợp pháp luật có điều chỉnh đầy đủ về vấn đề đang cần xét

xử, thẩm phán sẽ không từ chối thụ lý vụ việc. Thẩm phán chỉ thường từ chối
xét xử vụ việc khi luật khiếm khuyết. Tuy nhiên, như phần trên đã trình bày,
nguồn


của luật trong một nước theo hệ thống dân luật khơng chỉ là luật thành văn mà
cịn bao gồm cả tập qn pháp. Nếu trong trường hợp khơng có tập qn pháp
thì vẫn cịn những giải pháp khác để sử dụng làm nguồn luật như các giải pháp
phổ biến, các nguyên tắc chung của BDL, chính sách của nhà nước, thậm chí là
lẽ cơng bằng và tính hữu lý. Điều 4 BDL Pháp cấm các thẩm phán từ chối xét
xử, nếu từ chối xét xử sẽ bị truy tố về tội không bảo vệ công lý.
- Nguyên tắc tôn trọng và khơng được phép xâm phạm quyền dân
sự, lợi ích hợp pháp và phẩm giá của người khác ở điều 9 Bộ dân luật Bắc
Kì 1931
Việc tơn trọng và khơng được phép xâm phạm các quyền dân sự, lợi ích
hợp pháp và phẩm giá của người khác là nguyên tắc rất cơ bản của bất cứ một
BDL nào. Thực ra, nguyên tắc này là sự cụ thể hóa quy định về các quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hiến pháp của các quốc gia mà BDL là một
thành tố trong hệ thống các văn bản pháp luật của nó. Các chủ thể, bất kể địa vị,
xuất thân, thành phần, tơn giáo, giới tính đều được bình đẳng với nhau trong đời
sống dân sự.
- Nguyên tắc bình đẳng được qui định ở điều 6 Bộ dân luật Bắc Kì
1931
Bình đẳng trước pháp luật hay quyền bình đẳng trước pháp luật là những
nguyên lý của pháp luật được thể hiện qua các quy định cụ thể (các quy phạm
pháp luật) thiết lập về quyền được đối xử một cách như nhau, công bằng giữa
mọi người (ở đây là quốc dân An Nam ở Bắc Kì trong thời kì Pháp thuộc) trước
pháp luật, theo đó, mọi cơng dân An Nam trong khu vực Bắc Kì đều khơng bị
phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ và chịu trách nhiệm pháp lý
theo quy định của pháp luật.

- Nguyên tắc trung thực, thiện chí được qui định ở điều thứ 7 Bộ
dân luật Bắc Kì 1931
Nguyên tắc trung thực, thiện chí là nền tảng của mọi giao dịch dân sự, bởi
lẽ một giao dịch dân sự dù đơn giản hay phức tạp, mức độ dù lớn hay nhỏ thì khi
thực hiện các quyền và thi hành các nghĩa vụ, sự trung thực, thiện chí ln được
đặt lên vị trí hàng đầu. Trung thực, thiện chí là thực hiện hành vi với ý định tốt


một cách ngay thẳng, chính trực, nên cũng có tài liệu ghi nhận nguyên tắc này
dưới tên là “nguyên tắc thẳng thắn và ngay tình”.
Trong luật pháp phong kiến nói chung hình luật là nội dung trọng yếu và
có tính chất chủ đạo, bao trùm toàn Bộ nội dung của Bộ luật.Việt Nam chỉ có hai
Bộ luật tổng hợp là Bộ Quốc Triều Hình Luật và Bộ Hồng Việt luật lệ, những
nguyên tắc chung thể hiện qua tất cả các điều luật trong 2 Bộ luật thời kì này đó
là những ngun tắc như: Ngun tắc vơ luật bất hình, Nguyên tắc chiếu cố thể
hiện ở một số loại người được chiếu cố và nội dung chiếu cố, Nguyên tắc
thưởng người tố giác và trừng phạt kẻ che giấu tội phạm… Và đây hầu như là
những nguyên tắc hình sự bởi vì phạm vị tất cả các loại tội phạm trong pháp luật
phong kiến rất rộng, đến từ lĩnh vực dân sự, hơn nhân gia đình, hình sự, phong
tục tập quán. Nó khác với quan điểm sau này là chỉ có những hành vi gây nguy
hiểm cho người khác và xã hội, và đe dọa đến mạng sống và thân thể của người
khác thì mới bị coi là tội phạm và bị thực hiện theo chế tài luật hình.
Trong thời kì Pháp thuộc, đặc biệt là trong Bộ dân luật Bắc Kì 1931 thì
các nhà làm luật đã học tập phương pháp của Bộ Luật Dân Luật Pháp. Có thể
nhìn nhận một cách khách quan rằng sự tồn tại của các nguyên tắc trong một
BDL dựa trên những nguyên nhân nhất định mà phần nhiều là căn cứ vào quan
điểm của cơ quan soạn thảo, hệ thống pháp luật của quốc gia, thời gian và không
gian soạn thảo BDL cũng như những sự tiếp nhận, học hỏi kinh nghiệm lập
pháp từ các BDL khác. Đây là một bước tiến rất đáng kể khi đã nêu rõ được các
nguyên tắc chủ đạo của một Bộ luật và đặt nó lên đầu, thể hiện rằng các ngun

tắc này có vai trị rất quan trọng trong việc định hướng và chỉ đạo nội dung của
các Bộ luật.
2.1.2.Sự kết hợp trong chế định hôn nhân và gia đình
Chế định hơn nhân và gia đình được quy định trong 325 điều trong tổng số
1455 điều của bộ luật. Trong Bộ luật dân sự Bắc kỳ, chế định hơn nhân và gia
đình có cấu trúc hợp lý, được thiết kế tới từng nhóm quan hệ, thuận tiện cho việc
tra cứu, tìm hiểu và áp dụng.
2.1.2.1. Trong chế định hôn nhân


1.

Điều kiện kết hôn

Trong pháp luật phong kiến Việt Nam, kết hôn là sự phối hợp được luật
pháp công nhận, giữa một người đàn ông và một người đàn bà với mục đích lập
gia đình sinh con nối dõi để thờ cúng ông bà tổ tiên. Kết hôn được quan niệm
như một việc liên hệ đến nền tảng của đại gia đình hơn là đến tiểu gia đình mà
hai bên nam nữ thành lập sau khi lấy nhau [20, tr.32]. Vì vậy, khi có sự ảnh
hưởng của pháp luật phương Tây, các điều kiện về kết hôn được quy định trong
pháp luật phong kiến đã có tinh thần khác hẳn với Bộ luật dân sự Bắc Kì 1931.
Trong pháp luật phong kiến, những điều kiện quan trọng nhất là những điều kiện
mà nhà làm luật đặt ra vì lợi ích của gia đình. Trái lại, các điều kiện liên hệ đến
bản thân của hai bên nam nữ, kể cả sự ưng thuận của họ, chỉ giữ một vị trí thứ
yếu mà thôi.
 Độ tuổi kết hôn
Về sự quy định tuổi của hai vợ chồng, các nhà làm luật triều Lê đã tỏ ra
một kỹ thuật lập pháp độc đáo, không bắt chước Trung – Hoa, trong khi nhà làm
luật triều Nguyễn, vì bắt chước luật Mãn Thanh nên đã khơng quy định về vấn
đề này [21, tr.8].

Trong Bộ luật Hồng Đức khơng có điều nào quy định về tuổi của hai bên
nam nữ muốn lấy nhau. Phải chăng nhà làm luật đời Lê để vấn đề này được hoàn
toàn tự do cho hai họ quyết định. Sự thật thì trong một văn bản ghi chép trong
sách Thiên Nam dư hạ tập, nhan đề là Hồng Đức hôn giá lễ nghi” có quy định
“Con trai từ 18 tuổi, con gái từ 16 tuổi trở lên mới được thành hôn” [13].
Sự quy định về tuổi này của pháp luật thời Lê đã cho thấy nét riêng biệt
mà pháp luật Trung Quốc không có. Điều này cho thấy các nhà làm luật thời Lê
đã biết thích ứng các lễ nghi của Nho giáo cho hợp với tình trạng xã hội, tránh
việc tảo hơn, vừa khơng nhất thiết gị bó phải cố định theo khn khổ của Lễ
giáo Trung Hoa.
Cịn các nhà làm luật thời Nguyễn thì do sao chép Bộ Đại Thanh luật lệ
mà khơng có bất cứ điều khoản nào quy định về độ tuổi kết hôn.
Trong tất cả các nền luật pháp hiện đại ở châu Âu, khi làm kết hôn, bao giờ


hai bên trai gái cũng phải có đủ tuổi pháp định để tránh nạn tảo hơn, có hại cho
sức khỏe và tương lai của nòi giống. Hơn nữa lấy nhau khi cịn trẻ q, sự thỏa
thuận của hai bên có thể khơng sáng suốt, vì vậy, trong luật châu Âu nói chung
thường định hạn tuổi cho vợ chồng về việc kết hôn gọi là tuổi thành niên về kết
hôn (tiếng Pháp gọi là majoirité mairimoniale). Trong Dân luật Pháp, tuổi được
ấn định để kết hôn là 18 tuổi cho con trai và 16 tuổi cho con gái.
Và trong Bộ dân luật Bắc kì tại điều 73 cũng quy định rõ “Phàm con trai
chưa đầy mười tám tuổi, con gái chưa đầy 15 tuổi thì khơng được kết hơn”.
Ở đây ta thấy độ tuổi này của dân luật Bắc Kì được học tập từ Bộ dân luật
Napoleon của Pháp, nhưng chiếu xa hơn, luật pháp nước ta thời Lê cũng đã từng
có quy định về độ tuổi kết hơn như vậy. Bởi pháp luật đời Lê cũng đã có quy
định vậy vì căn cứ vào mối quan tâm lo liệu cho các gia đình sớm có người phụ
trách việc phụng tự trong tông miếu, một phần tránh nạn tảo hôn. Thể hiện sự
khác biệt trong việc thể hiện văn hóa, bản sắc truyền thống nước ta hơn so với
Bộ Hoàng Việt luật lệ.

Như vậy ở đây ngay trong vấn đề độ tuổi, sự tiếp nhận thành tựu lập pháp
của phương tây và ảnh hưởng của yếu tố pháp luật đời Lê cũng đã thấy được sự
kết hợp khá nhuần nhuyễn.
 Sự kết hơn phải được cha mẹ bằng lịng đồng ý.
Trong pháp luật phong kiến, vì kết hơn liên hệ đến gia đình, nên bao giờ
cũng phải được cha mẹ hay một người bà con bề trên (tôn trưởng) đứng ra làm
“chủ hôn”. Hôn nhân phong kiến không phải phục vụ cho hạnh phúc lứa đơi, sự
lựa chọn tình u mà đó là sự “hịa hợp giao hiếu giữa hai gia đình, dịng họ.
Trên thì để thờ phụng tổ tiên, Dưới là để kế truyền dòng dõi” [7, tr.56].
Theo điều 314 Luật Hồng Đức thì “Phàm kết hơn, mà khơng đem sính lễ
đến nhà cha mẹ, để thành vợ chồng thì phải bị phạt”
Điều 109 của Luật Gia Long cũng nêu rõ việc cho phép của cha mẹ hoặc
các bậc tôn trưởng khác trong gia đình.
Như vậy, quan niệm của pháp luật phong kiến coi kết hôn là một sự giao


hiếu giữa hai họ, đã đặt việc cho phép của các bậc cha mẹ, tơn trưởng trong gia
đình là một việc rất quan trọng.
Tiếp nối và tôn trọng tư tưởng gia trưởng trong việc thể hiện ý chí của các
bậc bề trên, các nhà làm luật trong Bộ dân Luật Bắc Kì cũng quy định rõ ở điều
77 “Phàm con cái đã thành niên cũng như chưa thành niên, không khi nào
khơng có cha mẹ bằng lịng mà kết hơn được…”.
Điều này tương đối khác so với tư tưởng của các nhà lập pháp phương
Tây, đó là trong Bộ luật dân sự Napoleon cho rằng: “con cái chưa thành niên
nếu kết hơn thì phải có sự đồng ý của cha mẹ, nếu cha mẹ khơng cịn thì sự
quyết định thuộc về hội đồng gia tộc”. Như vậy thì Bộ luật dân sự Napoleon chỉ
hạn chế quyền quyết định kết hôn với đối tượng chưa thành niên (yêu cầu phải
có sự đồng ý của cha mẹ hoặc hội đồng gia tộc) cịn người đã thành niên thì có
thể quyết định được cuộc hơn nhân của mình.
Như vậy, pháp luật phong kiến nước ta quy định rõ về quyền quyết định

hôn nhân của bậc tôn trưởng. Pháp luật phong kiến xem việc cha mẹ đồng ý hay
không là lý do thiết yếu để một cuộc hôn nhân được xem là hợp pháp dù người
đó đã qua tuổi thành niên hay chưa.
Và Bộ dân luật Bắc Kì cũng tơn trọng tinh thần đó của pháp luật phong
kiến chứ không học tập pháp luật của Pháp, quy định rõ điều kiện cần để tiến tới
hôn nhân, dù đã thành niên hay chưa thành niên đều là sự đồng ý của ông bà cha
mẹ hoặc người tơn trưởng trong gia đình.
 Những điều cấm trong việc kết hôn
a) Cấm họ hàng thân thuộc lấy nhau
Trên phương diện ln thường đạo lý cũng như vì lí do sức khỏe và tương
lai của giống nòi, nền luật pháp nào cũng cấm đốn kết hơn giữa những người
thân thích.
Trong pháp luật Việt Nam quy định rõ cấm: kết hơn giữa những người
cùng họ (nghĩa là những người có cùng ông tổ); kết hôn giữa những người trong
họ bậc trên và bậc dưới lấy nhau; kết hôn mà người đàn ông lấy người vợ cả và
vợ


lẽ của bà con làm vợ mình, phàm lấy người bà con trong họ đồng tông để tang
nhau, hay lấy vợ của người bà con ấy thì cả bên trai và bên gái đều bị phạt
trượng.
Trong Bộ luật dân sự Pháp, tại các điều khoản:
Điều 161 quy định: “Về trực hệ nghiêm cấm kết hôn giữa các
tôn thuộc và ti thuộc chính thức hoặc ngồi kết hơn, và những người
thích thuộc cùng một dòng họ”
Điều 162 quy định: “Nghiêm cấm việc kết hơn giữa anh chị em
chính thức hoặc ngồi kết hôn”
Điều 163 quy định: “Nghiêm cấm việc kết hôn giữa chú, bác
trai và cháu gái, giữa cô, bác gái và cháu trai dù quan hệ họ hàng
hay quan hệ kết hơn.”

Như vậy chúng ta có thể thấy, cả pháp luật phong kiến Việt Nam và dân
luật Pháp đều có những điều khoản cấm việc họ hàng thân thuộc lấy nhau. Tuy
nhiên, trong pháp luật phong kiến Việt Nam, những trường hợp bị cấm lấy nhau
tương đối rộng, để nhằm đảm bảo mục đích duy trì tơn ti trật tự trong đại gia
đình gia trưởng phong kiến, duy trì trật tự lễ nghi nho giáo. Trong khi đó, trong
Bộ luật dân sự Pháp, những trường hợp cấm kết hơn bó hẹp hơn, tránh kết hơn
gần gũi để đảm bảo lí do sự phát triển của thể chất và tinh thần của giống nòi.
Tiếp thu tinh hoa từ pháp luật phong kiến cũng như học tập từ thành tựu
lập pháp phương Tây, Bộ luật dân sự Bắc Kì cũng quy định rõ các trường hợp
cấm kết hôn ở điều 74: “Phàm những người thân thuộc hay thích thuộc về trực
hệ, vào bậc nào cũng vậy, bất cứ là con chính, con hoang, hay con nuôi, cấm
không được kết hôn với nhau”.
Bộ luật dân sự Bắc kì cũng quy định tương đối rõ ràng các trường hợp
trực hệ, bàng hệ tuyệt đối khơng được lấy nhau. Điều này có thể thấy Bộ luật đã
học tập, và áp dụng theo pháp luật phong kiến, theo đúng những gì mà phong
tục tập quán của Việt Nam đã quy định, để nhằm đảm bảo trật tự gia đình một
cách chặt
chẽ.
b) Giá thú khơng được cử hành lúc cư tang


Có tang mà làm kết hơn là bất hiếu, vì vậy, luật Hồng Đức và luật Gia
Long đều cấm đoán việc kết lập hơn lễ trong thời gian có tang.
Trong Bộ luật Hồng Đức, điều 317 chỉ cấm làm kết hơn khi có tang cha
mẹ, tang chồng, phạm vào điều này thì bị tội đồ.
Trong Bộ luật Gia Long cũng quy định về việc khi đang có tang cha, tang
mẹ, tang chồng mà lấy chồng thì sẽ bị phạt trượng.
Nhưng trong Bộ luật Hồng Đức cũng quy định việc “cưới chạy tang”. Tức
là khi người chết vừa mới mất, thì có thể thi hành hơn lễ để chạy tang, nhưng nếu
đã qua 3 ngày đã khâm liệm rồi thì khơng được cưới chạy tang nữa.

Trong Bộ dân Luật Bắc Kì, để bảo tồn và gìn giữ lễ nghi truyền thống, về
việc đề cao chữ Hiếu trong gia đình ở Việt Nam, vẫn có điều khoản quy định về
việc cấm kết hơn khi đang có tang cha mẹ bên trai hoặc bên gái, nhưng vẫn cho
phép cưới chạy tang như pháp luật thời Lê.
Điều khoản này cho thấy mặc dù tiếp thu những kĩ thuật lập pháp phương
Tây, nhưng truyền thống về đạo nghĩa trong gia đình theo quan điểm phong tục
tập quán nước ta vẫn được các nhà làm luật chú ý bảo lưu.
c) Cấm không được đảo lộn trật tự thê thiếp
Vì mục đích lưu truyền việc phụng sự tổ tiên, pháp luật phong kiến đã
cho phép chế độ đa thê, một gia đình có nhiều con được coi như một gia đình
phúc đức.
Tuy nhiên, để giữ trật tự trong đại gia đình, trật tự phải được tơn trọng
giữa người vợ cả hay vợ chính (thường được gọi là chính thất) và các vợ lẽ
(thường được gọi là thứ thất) và nàng hầu (còn được gọi là thiếp).
Khi đã có vợ cả rồi, mới có thể lấy vợ lẽ.
Khi vợ cả chết, mới có thể lấy vợ khác.
Trong luật Hồng Đức, trong điều 300 đã dự liệu các chế tài xử phạt khi
lấy thiếp lên làm người vợ cả.
Trong Bộ luật Gia Long, trong điều 96 quy định phạt trượng (đánh gậy)
với những người đàn ông vi phạm trật tự thê thiếp.


Trong Bộ dân luật Bắc Kì 1931 tại khoản 6,7,8 quy định rõ về các trường
hợp cấm việc lấy vợ thứ mà đảo lộn trật tự, vị thế của người vợ cả.
Ở đây có thể thấy Bộ Dân luật Bắc kì đã tơn trọng truyền thống đảm bảo
tơn ti trật tự trong gia đình, mà ở đó, người phụ nữ là vợ cả cũng chính là người
gia trưởng thay chồng thờ phụng tổ tiên, cùng chồng gánh vác gia đình. Vì vậy,
Dân luật Bắc Kì đã kế thừa Pháp luật phong kiến khi có các quy định để đảm
bảo địa vị khó có thể thay đổi của người vợ cả.
 Sự ưng thuận của hai bên nam nữ

Trong pháp luật phong kiến Việt Nam, kết hôn trước hết được coi là một
sự thỏa hợp giữa hai gia đình của đơi bên trai gái, theo nghi lễ với mục đích sinh
con nối dõi tơng đường. Vì vậy, mọi điều trong việc kết hôn đều phải do vị tôn
trưởng sắp đặt. Nhất là đối với người đàn bà đi lấy chồng, ý kiến của người tôn
trưởng hay người cha mẹ được xem là ý kiến của con gái. Tục ngữ đã có câu
“Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”.
Để trong họ có người nối dõi, người tôn trưởng chỉ nghĩ đến việc kén
chọn người con dâu cho phù hợp với quyền lợi của đồn thể đại gia đình khơng
cần để ý xem hai bên trai gái có ưng thuận sự cưới xin ấy hay khơng.
Có lẽ vì hơn nhân được coi là liên quan đến đại gia đình nhiều hơn là việc
trăm năm của hai vợ chồng nên vấn đề ưng thuận của hai bên nam nữ kết hôn
không được đề cập đến một điều nào trong Luật Hồng Đức và luật Gia Long.
Trái lại, theo quan niệm phương tây, sự ưng thuận của hai vợ chồng sắp
cưới là một yếu tố thiết yếu cho việc kết hôn. Hai bên phải tỏ rõ ý kiến ưng
thuận trước mặc viên hộ lại mới có thể làm kết hơn được.
Khác với pháp luật phong kiến, và theo quan niệm Dân luật của Pháp.
Dân luật 1931 coi sự ưng thuận của hai vợ chồng chưa cưới là một điều kiện
thiết yếu cho kết hôn. Điều này được quy định tại điều 76:
“Kết hôn tất phải có hai bên nam nữ bằng lịng nhau mới được”
Như vậy, chúng ta có thể thấy được trong mục này, Dân luật Bắc Kì đã có
sự học tập của pháp luật phương Tây, khi quy định thêm rằng ý chí của những


người trực tiếp tham gia vào quan hệ hôn nhân có vai trị là một trong những yếu
tố thiết yếu của điều kiện kết hôn. Điều này khác hẳn với quan điểm của pháp
luật phong kiến với ý chí của bậc tơn trưởng và mục đích là đảm bảo lợi ích của
đại gia đình chứ khơng phải hạnh phúc từ sự ưng thuận của hai bên trai gái.
2. Nghi lễ kết hơn
- Đính hơn
Theo quan niệm của Pháp luật phong kiến, mặc dầu kết hôn chỉ được coi

như thành tựu, một khi các nghi lễ hôn nhân đã được cử hành chu tất, song của
luật Hồng Đức và luật Gia Long đều chú ý đến việc đính hơn (hay cịn gọi là sự
hứa kết hôn) [19, tr.95].
Pháp luật phong kiến đề cao việc tơn trọng chữ tín theo quan niệm Khổng
giá, sự hứa kết hơn có giá trị trước pháp luật và việc không làm đúng cam kết là
một hành vi phạm pháp. Tuy nhiên, muốn việc hứa hơn có giá trị thì việc đính
hơn đó phải thỏa mãn một số yêu cầu.
Trong Bộ luật Hồng Đức, trong điều 315, đã thừa nhận giá trị của sự hứa
hôn, một khi sự hứa hôn này đã được thực hiện một các trọng thể khi nhà gái đã
nhận đồ sinh lễ.
Trong điều luật kể trên, các nhà làm luật Hồng Đức đã tỏ ra có tinh thần
độc lập, khơng câu nệ bắt chước các điều khoản của luật nhà Đường, khi quy
định ấy khơng phù hợp với tục lệ của ta. Vì ở pháp luật nhà Đường, hứa hơn chỉ
có giá trị khi được cụ thể hóa bằng một văn thư.
Trong luật Hồng Đức, trái lại, nhà làm luật không căn cứ vào văn thư mà
căn cứ vào sự nhân độ sính lễ, nghĩa là vào tính cách long trọng của sự hứa kết
hôn của hai họ hơn là sự cam kết đơn thuần của hai người chủ hôn. Sự quy định
này vừa phù hợp với phong tục tập quán ở nước ta, nêu rõ tính quan trọng của
sính lễ với việc giao ước hơn nhân của hai họ. Khơng chỉ có thể qua văn thư
hoặc chỉ đơn thuần là thỏa hợp giữa hai người chủ hơn, mà ý chí đó phải được
thể hiện qua sính lễ long trọng trước bàn thờ tổ tiên với những nghi thức mà các
nhà làm luật quy định rõ.


×