Tải bản đầy đủ (.ppt) (75 trang)

Phong tục hôn nhân người Việt trong xã hội Việt Nam truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.27 MB, 75 trang )

TRƯỜNG ĐHSP TP. HỒ CHÍ MINH
Lớp Cử nhân Tiểu học khoá 4
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 1
GV hướng dẫn: Thầy Nguyễn Chung Thuỷ
Thuyết trình viên: Nguyễn Thị Hải Duyên
Danh sách nhóm viên nhóm 1
1. Nguyễn Thị Hải Duyên
2. Nguyễn Thị Hải (1967)
3. Phùng Thị Thu Hà
4. Nguyễn Thị Trang
5. Phạm Thị Hà
6. Nguyễn Thị Tú Chinh
7. Tạ Văn Lĩnh
8. Nguyễn Thị Lệ Thủy
9. Trần Thị Hải Yến
10. Nguyễn Thị Hải (1987)
Mục lục
1. Phong tục đám cưới thời Vua Hùng
3. Lễ cưới của dân tộc Dao đỏ - Yên Bái
2. Phong tục hôn nhân người Việt
- Hôn nhân truyền thống
- Hôn nhân hiện đại
6. Ý nghĩa của việc cưới xin
5. Một vài kiểu kết hôn kỳ lạ trên thế giới
4. Ca dao, dân ca về hôn nhân gia đình
Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy ắt là khó thay
Cha ông ta thời xưa có câu:
Vì vậy, hôn nhân được xem là một trong 3 điều
rất quan trọng của một người trưởng thành cần
phải làm trong cuộc đời của mình


Vậy hôn nhân của người Việt trong xã hội Việt
Nam truyền thống như thế nào? Chúng ta
cùng đi sâu tìm hiểu.
Định nghĩa về “Hôn” – “Nhân”;
“Cưới” - “Hỏi”
“Hôn” có nghĩa là bố mẹ nàng dâu,
“Nhân” có nghĩa là bố mẹ chàng rể.
Nghĩa tổng-quát của từ “hôn-nhân” là
“cưới xin”.
“Cưới” là làm lễ chính thức lấy nhau.
“Cưới hỏi” hay “Cưới xin” là làm lễ
cưới theo tục lệ cổ truyền.
1. Phong tục đám cưới thời Vua Hùng
Phong tục hôn lễ thời Vua Hùng xuất phát từ đặc
trưng của nền văn hóa, vì vậy các nghi thức, lễ tiết có
những nét rất độc đáo, đặc biệt là những biểu trưng
cầu chúc cho quan hệ vợ chồng mãi mãi vững bền,
hạnh phúc.
Chúng ta đã từng được tìm hiểu một số đám cưới tiêu
biểu của thời Vua Hùng trong chương trình học phổ
thông đó là đám cưới giữa Sơn Tinh và Ngọc Hoa
trong truyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh”; Chử Đồng Tử
và Tiên Dung trong truyện “Chử Đông Tử”; cô gái họ
Lưu và anh em Tân và Lang trong truyện “Sự tích
Trầu cau”…
Lễ dạm
Lễ rước dâu
Lễ thành thân
Nhìn chung đám cưới thời Vua Hùng
thường được tiến hành theo 3 nghi

lễ chính sau:
Lễ dạm
Trong lễ này, vật phẩm không thể thiếu là gói
muối hoặc nắm đất.
Nắm đất vừa là vật tượng trưng cho quê hương,
nguồn cội, là lời nguyền gắn bó với đất đai, làng
xóm, vừa là hương liệu (đất hun).
Còn gói muối là lời chúc cho tình nghĩa của đôi
trai gái mặn mà, đằm thắm, thuỷ chung; muối
còn là gia vị cần thiết cho đời sống con người.
Ví dụ trong đám cưới của con gái Vua Hùng đã
thách cưới Sơn Tinh và Thủy Tinh như sau:
“Voi chín ngà,
Gà chín cựa,
Ngựa chín hồng mao
Mỗi thứ một đôi”…
Ngoài ra, trong lễ này nhà gái còn có quyền
được thách cưới thêm những đồ vật khác tùy
theo ý mình.
Lễ rước dâu
Trong nghi thức rước dâu người ta ném bùn
đất, hoa quả vào chú rể. Tục này có ý nghĩa
thử thách và cầu mong chú rể gặp may mắn,
gặt hái thành quả cao trong lao động để tạo
dựng đời sống gia đình tốt đẹp, hạnh phúc.
Ngày nay, nhiều đám cưới của người Mường
thời cận đại vẫn giữ nguyên phong tục cổ
truyền này, người ta ném bùn đất, hoa quả
vào chàng rể.
Lễ thành thân

Khi làm lễ thành thân cô dâu, chú rể ăn chung với
nhau một đĩa cơm nếp, uống chung một chén rượu.
Tục này có ý nghĩa cầu chúc cho hai vợ chồng luôn
gắn bó với nhau, dính nhau như dính cơm nếp và
say mê nhau như say rượu.
Ngày nay, tục ăn cơm nếp trong ngày cưới còn thấy
ở đám cưới người Mường và một số dân tộc thuộc
khu vực Tây Nguyên.
Một số đặc điểm hôn nhân thời
Vua Hùng
Nét đặc trưng của xã hội Việt là tính
cộng đồng. Hôn nhân của người Việt
không đơn thuần là việc hai người
lấy nhau mà là việc của cha mẹ và cả
họ hàng hai bên, nó xuất phát từ
quyền lợi của cộng đồng dựa trên
nền tảng văn hóa và mang một số đặc
điểm riêng. Chúng ta cùng đi sâu tìm
hiểu:
Một số đặc điểm hôn nhân thời Vua Hùng
-
Hôn nhân một vợ một chồng (Sơn Tinh chỉ lấy Ngọc
Hoa, cô gái họ Lưu chỉ lấy người anh trong 2 anh em
Tân và Lang) và gắn bó lâu dài, hạnh phúc.
-
Tục thách cưới phản ánh thân phận và giá trị của người
phụ nữ (vua Hùng thứ 18 đặt điều kiện lễ vật khi Sơn Tinh,
Thuỷ Tinh đến xin cưới Ngọc Hoa).
- Có sự phân biệt giàu sang, nghèo khó (vua Hùng thứ 18
không chấp nhận việc Tiên Dung lấy chàng đánh cá nghèo Chử

Đồng Tử).
- Hình thức hôn nhân của chế độ phụ hệ nảy sinh với tục cô gái
về nhà chồng (phản ánh qua truyền thuyết Sơn Tinh - Ngọc Hoa,
Trầu Cau,…).
Một số đặc điểm hôn nhân thời Vua Hùng
Có tục phụ nữ đi lấy chồng rồi quay lại nhà bố mẹ đẻ ở một thời
gian cho đến khi sinh con đầu lòng (Ngọc Hoa lấy Sơn Tinh, một
thời gian sau đã quay về nhà mình. Theo các sách sử, Trưng
Trắc và Thi Sách sau khi lấy nhau vẫn ở riêng tại đất của mình).
Trong các cuộc hôn nhân, người phụ nữ có một vai trò khá chủ
động, đây chính là một biểu hiện tàn dư vai trò của phụ nữ trong
phong tục hôn nhân thời kỳ chế độ mẫu hệ (Tiên Dung chủ động
lấy Chử Đồng Tử, cô gái họ Lưu trong truyện Trầu Cau chủ
động thử thách và chọn lấy người anh…).
- Hôn nhân một vợ, một chồng đã hình thành các gia đình cá thể,
mỗi gia đình gồm hai thế hệ: cha, mẹ và con cái. Sự phát triển
của sức sản xuất và công cụ lao động với hiệu suất cao đã biến
những gia đình cá thể thành các đơn vị kinh tế độc lập.
Hôn nhân truyền thống
Hôn nhân hiện đại
2. Phong tục hôn nhân người Việt
Quan niệm về hôn nhân
Con cái đến tuổi lập gia đình thì: “Cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy”, và để tìm được chỗ
“môn đăng hộ đối” cho con cha mẹ phải
nhờ đến “ông Tơ, bà Nguyệt” mối mai. Vì
thế mà trong xã hội xưa vẫn thường xảy
ra tệ “tảo hôn” hoặc tật “phúc hôn”.
Chế độ cho phép đàn ông “năm thê, bảy
thiếp” vì thế người phụ nữ trong xã hội

không được bảo vệ quyền lợi của mình.
Lễ nghi dân gian
Hôn nhân ảnh hưởng từ văn hóa Trung Quốc có 6 lễ sau:
Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái
một cặp "nhạn" để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi
tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái.
Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được
quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi
xung khắc thì thôi.
Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà
gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức là lễ
cưới.
Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày
giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.
Lễ nghi dân gian
Hôn nhân người Việt truyền thống có sáu lễ chính:
1. Lễ dạm
3. Lễ vấn danh
4. Lễ hỏi
5. Lễ nạp tài
6. Lễ cưới
2. Lễ sơ vấn
Lễ dạm
Còn gọi là lễ chạm ngõ hay coi mắt
Khi nhà trai tìm được một nhà gái vừa ý thường là
"môn đăng hộ đối" hay khi người con trai phải
lòng một cô gái nào đó. Nhà trai sẽ nhờ ông mai
đến nhà gái ướm ý rằng mình muốn "bước đến"

thăm chơi làm quen, nếu nhà gái đồng ý thì nhà
trai sẽ chọn ngày lành đến viếng nhà gọi là lễ dạm.
Lễ này không dùng lễ vật, trong câu chuyện trao
đổi chưa đề cập đến việc hôn nhân.
Lễ Sơ vấn
Nhà trai mua bánh, mứt, rượu, trà, đường phèn mỗi thứ
1 cặp, đến viếng và biếu nhà gái gọi là "đi cho đồ", trước
khi đi, ông mai báo cho bên gái biết để chuẩn bị đón tiếp.
Trong câu chuyện cũng chỉ nói bóng gió chứ chưa đi vào
vấn đề then chốt. Vài ngày sau, nếu nhà gái im lặng tức là
đã chấp thuận, còn nếu nhà gái mang quà đến nhà trai đáp
lễ tức là chính thức từ chối cuộc hôn nhân, gọi là "đi trả
đồ”.
Vì vậy mà trong nhân gian có câu:
Duyên ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc như đèn mới khêu
Lễ vấn danh
Nếu lễ sơ vấn trôi chảy, nhà trai sẽ nhờ ông mai
sang xin tên tuổi cô gái. Nhà trai chọn ngày tốt cùng
ông mai mang lễ vật đến nhà gái làm lễ vấn danh.
Ông mai thay mặt bên trai nói ý muốn kết tình sui
gia với nhà gái. Nếu bên gái đồng ý thì chàng trai sẽ
được phép ở lại nhà gái 3 ngày, làm mọi việc như
con cái trong nhà. Nếu gặp ngày lễ, tết, giỗ kỵ… bên
nhà gái thì chàng trai phải mang lễ vật đi tết vợ.
Nếu bên trai nửa chừng bỏ cuộc thì công của coi
như mất hết, nhưng nếu bên gái nửa chừng hồi hôn
thì phải bồi hoàn gấp đôi. Tục xưa có câu:
Trai chê vợ của đổ xuống sông
Gái hồi chồng của một thành hai

Sau lễ sơ vấn 1 thời gian, ông mai liên lạc với nhà
gái để xin xúc tiến lễ hỏi.
Lễ hỏi
Hay còn gọi là lễ ăn hỏi hay lễ đính hôn
Người xưa xem lễ hỏi quan trọng hơn lễ cưới. Nhà
trai mang lễ vật cùng ông mai sang nhà gái làm lễ
gia tiên. Trong lễ này chú rể đeo nhẫn đính hôn
cho cô dâu coi như thỏa ước sẽ lấy nhau làm vợ
chồng.
Theo phong tục xưa, sau lễ hỏi chú rể phải đến nhà
gái ở rể 3 năm và phải lao động nặng nhọc, vất vả.
Sau 3 năm ở rể, nhà trai sẽ đến xin cưới và nhận lời
“thách cưới” của bên nhà gái. Sau đó sẽ chọn ngày
lành tháng tốt để làm lễ nạp tài và lễ cưới.
Một số lễ vật trong Lễ hỏi
Lễ vật mà nhà trai mang tới nhà gái trong lễ này
thưường bao gồm: 1 đôi bông tai, 1 chiếc nhẫn đính
hôn, 1 mâm trầu cau, 1 cặp đèn cầy, 1 con heo quay, 1
mâm xôi màu, trà, bánh
Lễ nạp tài
Thường tổ chức trước lễ cưới chừng vài ba tuần. Theo ngày giờ
đã định, nhà trai mang lễ vật đến giao cho nhà gái như lời
“thách cưới”.
Ngày xưa có những nhà gái vì đòi hỏi lễ vật tiền bạc cao quá
nên đã làm cho tình sui gia sứt mẻ, đi đến chỗ oán ghét nhau,
làm cho đôi vợ chồng trẻ mới cưới chưa được bao ngày đã đi
đến đổ vỡ chia lìa, hay sống trong cảnh bần cùng đầu tắt mặt
tối để lo trả khoản nợ chồng chất. Trong thơ ca xưa có câu:
Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng

Mẹ em tham thúng bánh chưng
Tham con lợn đẻ em nai lưng chịu đòn
Một số hình ảnh trong lễ nộp tài
Theo ngày giờ đã định, nhà trai mang lễ vật đến giao
cho nhà gái như lời “thách cưới”.

×