Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TÂM VÀ KẾ CỦA NGƯỜI DO THÁI TRONG KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.71 KB, 25 trang )

B GIO DC V ĐO TO
TRƯỜNG ĐI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TI NHÓM 6
TÂM V KẾ CỦA NGƯỜI DO THI
TRONG KINH DOANH
GVHD: TS. HONG LÂM TỊNH
SVTH: NHÓM 6 QUẢN TRỊ HỌC ĐÊM 11 K20
1.TRẦN CẢNH HƯNG 20/10/1982
2. PHM HONG KHÔI 26/11/1982
3. NGUYỄN ĐĂNG KHOA 28/08/1986
4. NGUYỄN ANH KHOA 02/01/1986
5. HUỲNH THANH HƯƠNG 15/08/1986
6. BÙI NGỌC KHNH 24/10/1988
7. NGUYỄN HỮU PHƯỚC 01/12/1988
TP.HỒ CHÍ MINH, NGY 16 THNG 03 NĂM 2011
1
MC LC
Lời nói đầu 3
CHƯƠNG 1 MỘT VÀI NÉT VỀ NGƯỜI DO THÁI 4
1.Đất nước 4
2.Lịch sử bi thương 5
2.1. Nguồn gốc dân tộc Do Thái 5
2.2. Bước đường lưu vong 6
2.3. Kỳ thị tôn giáo 7
2.4. Kỳ thị chủng tộc 8
3. Những nhân vật làm rạng ngời dân tộc Do Thái 9
CHƯƠNG II TÂM VÀ KẾ CỦA NGƯỜI DO THÁI
TRONG KINH DOANH 11
1. Không kinh doanh ít lãi 11
2. Nhắm vào túi tiền của phụ nữ 13


3. Nhằm vào cái miệng để kiếm tiền 13
4. Kiếm tiền của người giàu 14
5. Không bỏ qua bất kỳ cơ hội kiếm tiền nào 15
6. “Đừng hỏi xuất xứ của đồng tiền” 16
7. Quốc tịch cũng là hàng hóa 16
8. Lợi dụng chính trị để thu lợi nhuận cao 18
9. Giành được tình cảm từ những nhân vật quyền thế 20
10. Khéo léo lách luật 21
11. Đàm phán phải có kế hoạch công phu 22
12. Xem trọng vai trò của thông tin thương mại 24
2
LỜI NÓI ĐẦU.
Chúng ta đều biết người Do Thái là dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh
vực trí tuệ, nhưng tin rằng ít ai biết thực ra họ còn cực kỳ xuất sắc trên mặt kinh tế,
tài chính, thương mại.
Có lẽ chúng ta đã từng một lần nghe câu nói:"Tiền của thế giới nằm trong tay
người Mỹ, nhưng tiền của người Mỹ lại nằm trong túi người Do Thái”. Đó là lời
khen ngợi, tán dương mà thế giới dành cho trí tuệ và khả năng kinh doanh, làm giàu
đặc biệt của người Do Thái.
Vì sao họ lại thành công như vậy? Đã có rất nhiều học giả thế giới nghiên
cứu kĩ lưỡng về vấn đề này nhưng có lẽ khó có một dân tộc nào có thể học tập và
làm theo. Bởi thành công này bắt nguồn từ lịch sử đau thương hàng ngàn năm bị tàn
sát, xua đuổi và phiêu bạt khắp nơi. Chỉ có những trang buồn thê thảm như vậy,
người Do Thái mới có tập quán độc đáo, khác biệt với nhiều dân tộc đang tồn tại
trên thế giới hiện nay.
Tâm tính người Do Thái rất đa dạng và phức tạp. Tất cả những vấn đề này
được thể hiện khá sinh động trong quyển “ Tâm và Kế của người Do Thái” của tác
giả Hoài Thu, mà “ Tâm và Kế của người Do Thái trong kinh doanh” chỉ là một
phần nhỏ trong chỉnh hợp đó. Tuy nhiên, nhóm 6 nhận thấy đây là phần rất thú vị vì
nó chứa đựng những quan điềm kinh doanh của người Do Thái hết sức độc đáo và

khác lạ với những gì đã được biết trước đây. Vì lý do đó, nên nhóm 6 đã quyết
định chọn “Tâm và Kế của người Do Thái trong kinh doanh” là chủ đề của bài tập
giữa kỳ và giới thiệu đến các bạn trong cùng giảng đường. Mong rằng, chủ đề này
sẽ đem đến cho các bạn nhiều điều thú vị và bổ ích.
3
CHƯƠNG I MT VI NÉT VỀ NGƯỜI DO THI.
1. Đất nước.
- Israel (phiên âm: Ixraen; cũng được gọi là Nhà nước Do Thái) là một quốc
gia theo chế độ cộng hòa ở vùng Trung Đông nằm trên bờ Địa Trung Hải, phía bắc
giáp Liban và Syrie, phía đông giáp
Jordanie, phía tây nam giáp Ai Cập,
phía cực nam giáp Hồng Hải.
- Diện tích: 20.770 km2.
- Dân số: Theo Văn phòng
trung ương thống kê Israel, tới cuối
năm 2004, dân số Israel là 6,9 triệu
người. Trong đó có 77,2% là người Do Thái, 18,5% người Ả Rập và 4,3% "những
nhóm người khác".
- Ngôn ngữ chính thức: Tiếng Hébreu và tiếng Ả Rập. Ngoại ngữ thông dụng
là tiếng Anh và tiếng Pháp.
- Chính thể: Cộng Hoà Đại Nghị Đa đảng (13 đảng). Hai đảng lớn mạnh nhất
hiện nay là Đảng Lao Động (tả phái) và Đảng Likoud (hữu phái) đang nắm quyền.
Quốc hội (Knesset) gồm 120 nghị viên, có nhiệm vụ biểu quyết quyền lập pháp và
kiểm soát chính phủ.
- Quốc kỳ hiện hành của Israël vốn là biểu tượng của phong trào Sionisme từ
thế kỹ 19. Nền trắng, trung tâm là hình sao David sáu cánh với hai gạch màu xanh
dương nằm ngang trên và dưới.
- Tổng sản lượng quốc gia:
120.900.000.000 US$ (2003).
- Thu nhập bình quân đầu

người : 19.800 US$ (2003).
- Tiền tệ: Shekel, ký hiệu: NIS
(New Israeli Shekel).
4
2. Lch s bi thng.
2.1 Ngun gc dõn tc Do Thỏi.
Thy t ngi Do Thỏi v ý thc Do Thỏi Giỏo l Abraham, dõn tc Hộbreu,
thuc giũng Sộmite. Abraham gc ngi x Chaldộe (Irak ngy nay), theo thõn ph
di c qua t Canaan. ễng t nhn c Thng khi th cho chn t ny lm
ni nh c lp nghip. Tuy nhiờn, dõn tc Do Thỏi ch thc s c gy dng k t
i th t nh mt trong 12 ngi cht trai ca Abraham l Joseph. By gii Joseph
lm thng th trong triu ỡnh Ai Cp nờn ton th 70 ngi trong tc
Abraham u theo Joseph qua Ai Cp sinh sng.
Vo nm 1585 trc CN, mt v Pharaon (vua Ai Cp) khỏc lờn ngụi, khụng
thớch ngi Do Thỏi, nghi k v bc ói bt c nhúm ca Joseph lm nụ dch. í
thc thnh lp mt quc gia Do Thỏi phỏt sinh t ú.
Gụng cựm nụ dch k trờn kộo di 317 nm mi c Moùse gii phúng.
Vo nm 1266 trc CN, Moùse a ng bo au kh ca ụng di c v t
Ha. Ti nỳi Sinaù, h sng vt vng cc kh 40 nm. Truyn rng chớnh ni õy,
c khi th bi Thng , Moùse ó c th hoỏ ý thc tụn giỏo nht thn ca
Abraham thnh Do Thỏi Giỏo. H th Jahvộ, mt thng ton nng, ton trớ, chớ
nhõn, chớ thin.
Dõn tc Do Thỏi bt u vn minh v thng nht t i Moùse nhng nh
Josuộ, i k tip, chim c mt phn x Canaan (t Ha), con chỏu Israởl mi
v ú nh c chớnh thc.
Nm 930 trc CN, Salomon bng h, Israởl b chia lm hai tiu quc: Israởl
phớa bc v Judộe phớa nam. Nam bc tng tn, rt cuc Israởl b Assyrie
chim mt, Judộe lt vo tay Babylone.
Ti khi Ba T (Iran) sang chim Babylone, ngi x Judộe mi c v li
x, xõy ct li n Jộrusalem, tm sng yờn n trong hai th k.

Ri ti nm 63 trc CN, La Mó chim x Judộe, tn phỏ v i tờn
Jộrusalem thnh Aelia Capitolina, v Israởl thnh Palestine (tờn c). Dõn tc Do
5
Thái mất quốc gia và nếm mùi lưu vong và nhục trạng diệt chủng trường kỳ khủng
khiếp từ thời đó cho tới năm 1948.
2.2 Bước đường lưu vong.
Mới đầu họ tản mác qua Tiểu Á rồi qua Âu Châu, Bắc Phi, Ethiopie, chỉ còn
một nhóm nhỏ ở lại trong xứ sống chung với người Ả Rập. Đi tới đâu, thổ dân cũng
nhận ra họ, một là vì tôn giáo, hai là vì nét mặt (nhất là sống mũi mỏ vẹt đặc thù của
họ), ba là sự đoàn kết, sự thông minh, sự tiến đạt thịnh vượng hơi quá lộ liễu của
họ, dù rằng đi tới đâu họ cũng đều nhập tịch xứ đó và cũng hy sinh tính mạng
những khi hữu sự y như người bản xứ.
Những trường hợp khinh ghét oái oăm mà người Do Thái phải hứng chịu tại
các nước đạo Hồi:
• Tại Ba Tư (Iran) vào thế kỹ XIX tây lịch, người Do Thái chẳng khác gì
hạng tiện dân bên Ấn Độ, vì đối với người bản xứ, hễ người Do Thái đụng tới một
vật gì thì vật đó hoá ra nhớp nhúa bẩn thỉu. Do đó người Do Thái bị cấm triệt không
được hành nghề như mở quán tạp hoá, nhà hàng Lúc trời mưa, họ không được ra
khỏi khu vực dành riêng cho họ (có tên là Mellah) tương tự như các ghetto ở Âu
Châu. Đặc biệt người Do Thái không có quyền làm chứng và tuyên thệ ở toà án.
Sinh mạng của một người Do Thái không quá 140 Kraus (tiền Ba Tư).
• Tại Maroc, người Do Thái không được luật pháp công nhận quyền công
dân dù họ đã vào quốc tịch. Lẽ sống chết của họ tùy thuộc vào nhà vua. Vua Maroc
muốn bắt họ làm nô lệ thì họ phải tuân theo vì không biết dựa vào đâu mà kêu ca
ngoài lời nguyện cầu Jahvé che chở.
• Tại Yémen trước 1948, người Do Thái không được phép lớn tiếng trước
mặt người Hồi giáo, không được bán cùng món hàng với người Hồi. Ngoài ra, ngày
thờ Mohamed, giáo chủ Hồi giáo, người ta cấm họ mặc các thứ vải có màu nhạt,
mang khí giới. Trẻ con Do Thái mồ côi phải giao cho nhà cầm quyền để nhà cầm
quyền cho chúng theo Hồi giáo.

Thân phận người Do Thái ở Âu Châu xét ra còn bi đát hơn nhiều so với thân
phận người Do Thái ở Trung Đông. Suốt gần mười thế kỹ, không nơi nầy thì nơi
6
khác, lúc nào cũng có những người Do Thái bị nhục cảnh ghetto, pogrom, hỏa hình
lò thiêu, dìm nước. Người Do Thái bị buộc gắn hình bánh xe nhỏ hoặc hình ngôi
sao David sáu cánh trên áo như tội phạm mang áo dấu, bị trút lên đầu lên cổ tất cả
mọi tội lỗi mà họ không hề gây nên. Nhưng lúc họ được yên thân nhất cũng không
khác thân phận nô lệ là bao vì người ta cấm họ có bất động sản, thành thử muốn
theo nghề nông, họ chỉ có thể làm nông nô hay tá điền là cùng. Muốn khá giả, họ
chỉ còn nghề đổi tiền và cho vay .
Sự học hành của người Do Thái ở các nơi nầy cũng bị hạn chế. Chẳng hạn ở
Nga, chính phủ không ra mặt cấm hẳn sự học của họ nhưng lại áp chế một chính
sách xảo quyệt là cho các trường trung học chỉ được thu nhận một số học sinh Do
Thái khoảng 10% tổng số học sinh theo Thiên Chúa giáo.
Tình cảnh của họ bất công đến nỗi một người theo Thiên Chúa giáo đã phải
thốt ra câu nầy: "Nếu chỉ cần ghét tụi Do Thái cũng đủ là người Thiên Chúa giáo
ngoan đạo thì hết thẩy chúng ta đều là những người Thiên Chúa giáo ngoan đạo".
Cuộc tàn sát Do Thái vì kỳ thị Thiên Chúa giáo thực sự bắt đầu từ thế kỹ XI
trong cuộc viễn chinh của Thập Tự Quân kéo dài đến đầu thế chiến thứ hai thì
chuyển hướng qua kỳ thị chủng tộc bởi Hitler và Đức Quốc Xã.
2.3. Kỳ thị tôn giáo.
Năm 1096, người ta rủ nhau đi giải phóng mộ Chúa Ki Tô. Và còn gì hữu lý
bằng, trước khi làm công việc thiêng liêng cao cả đó, trả thù những kẻ mà 11 thế kỹ
trước đã phản bội Chúa nên Chúa mới bị chính quyền La Mã kết tội phiến loạn, bị
đóng đinh trên Thánh Giá tại núi Golgotha cùng với hai tên đạo tặc.
• Ở Worms (Đức), trong hai ngày, người Âu Châu đã làm giết 800 người Do
Thái bất luận già trẻ, đàn ông hay đàn bà. Hễ là Do Thái mà không chịu theo Thiên
Chúa giáo là bị chém bằng gươm bằng giáo.
• Ở Mayence (Đức) cũng vậy, 700 người Do Thái ngã gục chỉ vì họ là hậu
duệ của kẻ đã giết Chúa (Juda).

2.4. Kỳ thị chủng tộc.
7
Trước kia người ta giết Do Thái một cách thô bạo, dã man. Đến thế chiến thứ
hai, Đức Quốc Xã của Hitler tàn sát họ rất bình tỉnh, có tổ chức, có kế hoạch, có
chủ thuyết và có khoa học.Dù cho Néron, Tần Thủy Hoàng có tái sinh cũng không
thể không cúi đầu chịu thua trên phương diện lượng và phẩm khủng khiếp.
Lửa kỳ thị tôn giáo và hận giết Chúa sau gần 20 thế kỹ dù sao cũng phải lụi
phần sôi sục. Hơn nữa, rất nhiều người Do Thái đã cải giáo, cho nên muốn tận diệt
họ, Hitler bèn tạo thêm lòng kỳ thị chủng tộc. Thuyết kỳ thị chủng tộc của Hitler đã
được rút ra từ cuốn sách "Chủng Loại Các Thứ Cây" (Espèces en Botanique), xuất
bản năm 1753 của nhà vạn vật học Thụy Điển Carl Linné (1707-1778). Từ hệ tống
phân loại cỏ cây làm 24 giống, Linné phân loại tới loài người: Giống Âu da trắng
siêng năng, giống Á da vàng dai sức, giống Phi da đen bạc nhược và giống Mỹ da
đỏ nóng nảy.
Chộp lấy hệ thống đó, Đức Quốc Xã tuyên truyền rằng giống Do Thái – vàng
chẳng ra vàng, đen chẳng ra đen, trắng không thật trắng – có máu quỉ quyệt phản
bội (phản Chúa), chống chính phủ (thuyết cộng sản của Marx, gốc Do Thái). Vậy,
vì lý do an ninh của nước Đức và để bảo tồn huyết thống của giống Đức - một
giống thông minh nhất thế giới, anh hùng nhất thế giới, tài giỏi nhất thế giới, cao
thượng nhất thế giới - khỏi bị lây lai bậy bạ mà phải sa đoạ lần lần mất, phải tận diệt
và tịch thu tài sản của dân Do Thái.
8
Từ năm 1939 đến đầu năm 1945, tính ra có trên năm triệu người Do Thái bị
Hitler và đồng bọn thảm sát hoặc bằng súng đạn, hơi ngạt, hoặc bằng lò thiêu, chôn
sống. Chỉ riêng tại trại Auschwitz cũng đã có gần ba triệu thây ma Do Thái.
Quả thật trên thế giới, khó tìm thấy có một dân tộc trong 5000 năm lịch sử
lại có tới 2000 năm phải lưu lạc khắp nơi. Ở đâu họ cũng bị hất hủi, khủng bố, tàn
sát. Nỗi khổ của họ đã làm thi sĩ Anh Cát Lợi Byron buột miệng than"Dân Do Thái
khổ hơn những con thú không có hang".
3. Những nhân vật làm rạng ngời dân tộc Do Thái.

Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý
thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định
tới quá trình trình tiến hóa của nhân loại:
* Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng
học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là
một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
* Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm
Chủ tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Ngân hàng Nhà nước Mỹ) nắm
9
quyền sinh sát lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ
toàn cầu;
* Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ
tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước
đang phát triển;
* 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái,
chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman
(2008) … là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới, hiện nay, các lý
thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng.
Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế
nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người :
* Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do
căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông
đã cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để
xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm
1905. Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở
Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật
“làm hộ” chuyện ấy.
* Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ năm 2007, với tài sản cá nhân
lên tới 26,5 tỷ USD.
* George Soros giàu thứ 28 ở Mỹ (7 tỷ USD) nổi tiếng thế giới hiện nay về ý

tưởng đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn.
* Michael Bloomberg có tài sản riêng 5,1 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố
New York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ
kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế, đang được mong đợi sẽ là
ứng cử viên Tổng thống Mỹ khóa tới
10
CHƯƠNG II TÂM V KẾ CỦA NGƯỜI DO THI TRONG
KINH DOANH
1. Không kinh doanh ít lãi.
“ Lãi ít tiêu thụ mạnh” là nguyên tắc kinh doanh nhiều quốc gia không muốn
phá bỏ. Nhưng người Do Thái thì ngược lại, khẩu hiệu của họ là “ lãi nhiều mới có
thể kiếm nhiều tiền”. Kết quả, họ kiếm được nhiều tiền hơn những người thuộc dân
tộc và quốc gia khác. Bề ngoài, sách lược giá cao lãi nhiều của các thương nhân Do
Thái có vẻ như chỉ nhằm vào những người giàu có, trên thực tế lại là một kinh
nghiệm kinh doanh kỳ diệu.
Người Do Thái cho rằng, hiệu quả sau cùng của kinh doanh lãi ít chính là lợi
nhuận khi bán 3 sản phẩm chỉ bằng lợi nhuận của một sản phẩm. Đây chẳng phải
“làm thật ăn ít”sao? Thượng sách của nhà kinh doanh Do Thái: Khi tiêu thụ ra một
sản phẩm thì phải thu về lợi nhuận của một sản phẩm, thậm chí là lợi nhuận của hai
hoặc ba sản phẩm. Cách làm này có thể tiết kiệm được các loại chi phí kinh doanh
và duy trì được tính ổn định của thị trường, đồng thời nhanh chóng bán ra hai sản
phẩm khác với giá cao.
Người giải thích rằng: “Hạ thấp giá cả chứng tỏ bạn không tin tưởng vào sản
phẩm của mình”. Tín điều của họ: “ Tuyệt đối không được bán rẻ sản phẩm của
chúng ta”.
Tại sao khi các thương gia khác “ hạ giá đến mức thấp nhất”, người Do Thái
thì làm điều ngược lại? Họ cho rằng, những người cùng kinh doanh triển khai cuộc
chiến lãi ít, có nghĩa là đã hạ thấp giá sản phẩm của mình so với đối thủ. Điều đó
dẫn đến tình trạng, mọi người cùng hạ giá thấp, vậy lợi nhuận sản phẩm sẽ đi đâu?
Lãi ít tuy tiêu thụ được nhiều hơn một chút, nhưng dung lượng của thị trường vốn

không thay đổi. Sau khi một số lượng lớn sản phẩm giá rẻ đổ vào thị trường, cuối
cùng thị trường cũng sẽ bảo hòa, nó không thể dung nạp sản phẩm nhiều hơn. Vậy
những sản phẩm được sản xuất sau này sẽ làm thế nào? Lợi nhuận vốn rất ít ỏi, các
nhà sản xuất sẽ làm thế nào để duy trì kinh doanh lâu dài? Kết quả của cuộc cạnh
11
tranh lãi ít lại chính là sự phá sản của không ít nhà sản xuất, hơn nữa sự sinh tồn của
mọi người sẽ ngày càng khó khăn hơn.
“Lãi ít chính là sợi dây thòng lọng xiết chặt vào cổ mình, mọi người đang
đua nhau tự sát, đó là cuộc cạnh tranh lớn dẫn đến tử vong”. Người Do Thái lớn
tiếng kêu gọi: “Đây là hành vi cực kỳ ngu xuẩn”.
Sách lược “ lãi nhiều giá cao” của thương nhân Do Thái xem ra chỉ nhằm
vào người giàu có, trên thực tế lại là một kinh nghiệm kinh doanh tuyệt vời, vì
những lý do sau đây:
Thứ nhất, cùng với sự cải thiện về chất lượng cuộc sống và sự nâng cao về
tầng cấp tiêu thụ của con người, quan niệm tiêu dùng nói chung cũng đã thay đổi,
một khi cứ đề cao giá rẻ thì chỉ là sự phản ánh mức sống của con người vẫn còn
thấp. Trong con mắt của người tiêu dùng hiện đã hình thành một nhận thức chủ đạo:
“Hàng tốt thì không rẻ, hàng rẻ thì không tốt”.
Nếu chỉ chú trọng giá rẻ, sản phẩm của bạn chính là “hàng đổ đống”, không
thể là hàng cao cấp được. Mọi người sẽ định hình ấn tượng về sản phẩm của bạn,
sau này muốn thay đổi cũng vô cùng khó khăn.
Thứ hai, theo phân tích thống kê của người Do Thái, sản phẩm được lưu
hành trong giới thượng lưu khoảng hai năm sau sẽ thông thuộc tới giới trung và hạ
lưu. Lý lẽ rất đơn giản, những người có thu nhập trung bình luôn muốn gia nhập
vào giới thượng lưu. Đó chính là sự ép buộc về tâm lý, để thõa mãn nhu cầu tâm lý
hoặc vì lý do sỹ diện của mình. Họ luôn muốn bắt chước những người thượng lưu,
nên cũng mua những sản phẩm thời trang mới đắt tiền.
Xét về mặt kinh tế, những người ở tầng lớp hạ lưu vốn “ lực bất tòng tâm”.
Ban đầu, những sản phẩm giá cao sẽ không bán được, nhưng tác dụng tâm lý
ngưỡng mộ người giàu sẽ thúc đẩy họ mua hàng giá cao. Phản ứng dây chuyền này

sẽ khiến cho những sản phẩm giá cao cũng trở thành những sản phẩm thịnh hành
trong xã hội. Điển hình là đồ trang suất vàng bạc đá quý hiện đã trở thành vật cưng
của mọi tầng lớp phụ nữ trong xã hội. Xe con cũng trở thành sản phẩm cần thiết của
12
mọi người….Điều đó cho thấy, sách lược “ lãi nhiều tiêu thụ vừa phải” của thương
nhân Do Thái chính là nhằm vào thị trường lớn trong toàn xã hội.
2. Nhắm vào túi tiền của phụ nữ.
Người Do Thái cho rằng, muốn kiếm được tiền trước tiên nên kiếm tiền
trong tay của phụ nữ. Những người làm kinh doanh cần nắm được điểm này: Chỉ có
cách lay động được trái tim phụ nữ mới có thể làm ăn thành công. Trong kinh
doanh, cơ hội móc tiền trong ví phụ nữ nhiều hơn rất nhiều so với đàn ông. Rất
nhiều thương nhân Do Thái đã lấy phụ nữ làm đối tượng kinh doanh, đây chính là
điểm tin thông và tâm kế của họ.
Đàn ông là trung tâm thế giới nhưng đàn bà lại là trung tâm của đàn ông.
Đàn ông luôn xoay quanh phụ nữ, họ luôn cố gắng để làm hài lòng phụ nữ. Người
đàn ông sau khi kết hôn, phụ nữ sẽ trở thành cái két giữ tiền vĩnh cửu của họ. Rất
nhiều người đàn ông thừa nhận, phụ nữ là “ bộ trưởng tài chính” trong gia đình.
Nhưng cũng có nhiều đàn ông than rằng: Cả đời đàn ông không ngừng kiếm tiền,
còn phụ nữ luôn tìm cách tiêu tiền của họ.
Đàn ông vốn rất dễ tính trong sinh hoạt, họ dùng gì cũng được. Còn phụ nữ
thì sao? Vì muốn cho bản thân xinh đẹp họ không tính toán đến điều khác. Những
thương nhân cũng tổng kết rằng : Đàn ông là người kiếm tiền, bây giờ muốn kiếm
lại tiền của họ là rất khó; phụ nữ là người tiêu tiền, kiếm tiền của họ sẽ dễ hơn
nhiều.
Người Do Thái đã sớm biết điều này. Trên thế giới này, đàn ông kiếm tiền,
còn đàn bà dùng tiền của họ để nuôi sống gia đình. Tiền do đàn ông kiếm ra, nhưng
quyền chi tiêu lại nằm trong tay phụ nữ. Bởi vậy nếu muốn kiếm tiền, trước tiên
phải kiếm tiền trong tay phụ nữ.
3. Nhằm vào cái miệng để kiếm tiền.
Mục tiêu kiếm tiền của người Do Thái chính là cái miệng. Người Do Thái

qua quan sát phát hiện ra rằng: Phàm là những gì vào miệng đều được tiêu hóa và
đào thải ra ngoài cơ thể. Vì thế, ưu điểm nổi bật của thực phẩm là lợi ích thường
13
xuyên và lâu dài. Bởi vì, ham muốn ăn uống là điều kiện tối thiểu để con người tồn
tại.
Việc ăn uống được ví là một cái “ hố đen” không bao giờ lấp đầy được.
Không có một sản phẩm nào tiêu thụ hàng ngày, liên tục như thực phẩm. Nhỏ là
chiếc bánh 1 đồng, vừa là một đĩa đùi gà nướng 10 đồng, lớn hơn là những bữa yến
tiệc hàng trăm ngàn đồng. Nhưng sau vài tiếng đồng hồ, chúng đều biến thành đống
phế thải và được bài tiết ra ngoài. Nếu bạn muốn bán một sản phẩm nào đó cần tiêu
thụ hết trong ngày, ngoài thực phẩm ra còn có sản phẩm nào khác?
Sự tồn tại của con người cần liên tục hấp thụ năng lượng và tiêu hao năng
lượng. Chỉ có thực phẩm mới có thể cung cấp được năng lượng cần thiết cho cơ thể.
Con người còn sống thực phẩm sẽ còn được tiêu thụ. Thực tế cũng cho thấy, việc
kinh doanh thực phẩm để giải quyết vấn đề tồn tại và thú vui ăn uống của con người
luôn phát đạt. Quy mô lớn là khách sạn, nhà hàng; quy mô vừa là quán cơm, quán
rượu; quy mô nhỏ là những cửa hàng bánh kẹo, sạp rau, hàng thịt….Ngoài ra, còn
có những thực phẩm đã được chế biến sẵn như xúc xích, hambeger, sanwich, đùi gà
rán KFC…
Những người hiện đại ngày nay, ăn uống không chỉ để no mà còn cần ngon,
chú trọng dinh dưỡng, đảm bảo sức khỏe. Khoa học hiện đại thậm chí còn khẳng
định: Bạn dùng thực phẩm như thế nào, bạn trở thành cái đó. Để đảm bảo sức khỏe,
con người càng chú trọng đến những thực phẩm có nguồn gốc thiên nhiên. Quan
niệm hiện đại mới mẻ này đã tạo ra không biết bao nhiêu doanh nghiệp thành công.
Thực phẩm vĩnh viễn là nguồn tài nguyên quan trọng để các thương nhân phát tài.
4. Kiếm tiền của người giàu.
Nếu có người hỏi người Do Thái làm giàu bằng cách nào, họ sẽ nói thẳng
rằng: “ Tiền vốn nằm trong tay người giàu”. Có thể bạn rất không hài lòng với câu
trả lời dường như không phải câu trả lời này, nhưng bạn đừng hiểu nhầm, người Do
Thái đã tiết lộ cho bạn một chân lý: Tiền nằm trong tay người giàu. Chúng ta nên

kiếm tiền của những người giàu có. Đây là cách kiếm tiền nhanh, kiếm được tiền
nhiều. Đó là triết học kinh doanh trí tuệ của thương nhân Do Thái. Triết học này
14
vốn bắt nguồn từ cách nhìn nhận của họ về thế giới và cuộc sống, được gọi là quy
tắc 80:20.
Những người có hiểu biết một chút về kinh doanh đều biết đồ thị “ Lorentz”.
Đồ thị này thể hiện kết cấu phân bó thu nhập, vì tài sản trong tay mỗi người không
phải là số bình quân mà là sự tương phản đối lập. Tuyệt đại đa số người giàu có chỉ
chiếm khoảng chừng 20% dân số nhưng lại nắm giữ 80% tài sản, 20% tài sản còn
lại lại nằm trong tay đến 80% dân số.Ví dụ điển hình, người Do Thái chỉ chiếm một
tỷ lệ rất nhỏ trong dân số Mỹ nhưng lại có phần lớn tài sản của nước Mỹ. Chúng ta
vẫn thường hay nói: “ Mỹ là nước giàu nhất nhưng tiền của nước Mỹ thì lại nằm
trong túi của người Do Thái” là vì lý do này.Tiền nằm trong tay người có tiền. Đạo
lý này thật quá đơn giản. Nhưng những người thực sự hiểu câu này và biết vận dụng
nó vào công việc quản lý kinh doanh của mình thì không nhiều.
Kim cương là một loại sản phẩm cao cấp, chủ yếu là sản phẩm được tiêu thụ
bởi người có thu nhập cao. Những người có thu nhập bình thường không thể mua
nổi. Vì vậy mọi người đều có quan niệm, người mua ít lợi nhuận nhất định sẽ không
cao. Nhưng mọi người lại không nghĩ rằng, số ít người có thu nhập cao lại chính là
những người giàu có. Tỷ lệ giữa người bình thường và người có thu nhập cao vốn là
80/20 nhưng số tài sản mà họ có thì ngược lại 20/80. Người Do Thái cho rằng, kiếm
tiền của “ 80” nhất định sẽ không thiệt.
5. Không bỏ qua bất kỳ cơ hội kiếm tiền nào.
Chỉ cần có cơ hội kiếm tiền thì không được bỏ qua. Cho dù là một đôla cũng
phải kiếm. Đây là quan điểm của người Do Thái, đồng thời cũng là một kiểu tâm lý.
Kiếm nhiều hay ít không quan trọng, chỉ cần có thể kiếm được là cảm thấy hài lòng.
Quan niệm này cho thấy, người Do Thái hiểu một cách thấu triệt và ứng dụng
thành thục về chiến lược “ biến chẵn thành lẽ, tích tiểu thành đại”.
Trong cuộc sống, có một số người ngay từ khi bắt đầu đã tự đề ra cho mình
mục tiêu phải kiếm được nhiều tiền, không kiếm những khoản nhỏ nhặt. Kết quả hai

bàn tay trắng, một đồng cũng không kiếm được. Thực tế rất nhiều tỷ phú, các nhà
doanh nghiệp lớn trên thế giới bắt đầu khởi nghiệp từ việc kiếm những khoảng tiền
15
nhỏ. Việc bắt đầu kiếm từ những khoản tiền nhỏ giúp họ bồi dưỡng sự tự tin và đức
tính kiên nhẫn. Sau khi kiếm được một khoản tiền, bạn có thể hiểu rõ về năng lực
của bản thân, từ đó tin tưởng mình cũng có khả năng làm việc lớn.
Kiếm những khoản tiền nhỏ, không phải bỏ nhiều vốn, cũng không quá mạo
hiểm, nhưng từ đó bạn có thể tích lũy kinh nghiệm để kiếm những khoản tiền lớn.
Tuy nhiên, không phải lúc nào kiếm tiền cũng dễ dàng, đôi khi cũng phải trả giá và
gặp khó khăn gian khổ. Chính vì vậy trong cuộc sống hiện thực, bạn đừng nên mơ
“một bước lên trời”, phải dần dần kiếm những khoản tiền nhỏ, tích lũy từng ít một.
Trong quá trình kiếm tiền đó, bạn sẽ được trải nghiệm mùi vị cuộc đời, từ đó mới
có được niềm vui sáng tạo và cảm giác thành công.
6. “Đừng hỏi xuất xứ của đồng tiền”.
Quan niệm của người Do Thái về tiền có điểm riêng biệt, đặc biệt là thương
nhân Do Thái. Họ không giống như các dân tộc và quốc gia khác, phân biệt rõ “tiền
sạch” và “tiền không sạch”. Họ tin rằng, tiền kiếm được qua làm ăn kinh doanh, bất
kể là tiền do người nông dân kiếm được nhờ bán các sản phẩm nông sản, hay tiền
kiếm được nhờ cờ bạc, tiền do phần tử tri thức kiếm được nhờ lao động trí óc đều
giống nhau, đều bình đẳng. Tiền không phân biệt cao thấp sang hèn. Họ cho rằng
tiền không có tính chất. Cái gọi tính chất chính là chủ quan mà con người tự áp đặt
cho đồng tiền.
Do không quan tâm đến gốc gác của đồng tiền nên tư tưởng của người Do
Thái là hoàn toàn tự do, không hề chịu sự chi phối của quan niệm thế tục. Trong
mắt họ, chỉ cần là những việc có lợi và không phạm pháp, họ hoàn toàn không phải
suy nghĩ đắn đo nhiều. Mục đích của họ chính là kiếm tiền, tín ngưỡng của họ chính
là làm ăn và có được lợi nhuận nhiều nhất. Chính vì thế trong lịch sử làm ăn, họ
thích nhất câu nói cửa miệng: “ Đừng hỏi xuất xứ của đồng tiền”
7. Quốc tịch cũng là hàng hóa.
Trong mắt người Do Thái “ tất cả mọi thứ đều là sản phẩm hàng hóa, tất cả

đều có thể dùng để kiếm tiền”, ngay cả quốc tịch cũng không ngoại lệ, từ đó có thể
16
thấy tâm kế và sự thông thái của họ trong kinh doanh. Thương nhân Hronnestan
chính là một người Do Thái giàu có điển hình nhờ vào quốc tịch.
Quốc tịch của Hronnestan là Liechtenstein nhưng anh không phải sinh ra ở nơi đây.
Anh đã dùng tiền để mua quốc tịch này. Tại sao anh phải mua quốc tịch
Liechtenstein?
Liechtenstein là một nước nhỏ nằm ở vùng biên giữa Áo và Thụy sĩ. Dân số
chỉ có hai vạn người, diện tích 157km2. So với các nước khác, nước nhỏ này có một
đặc điểm là tiền thuế rất thấp. Đặc điểm này có sức hấp dẫn cực mạnh đối với
thương nhân nước ngoài. Để kiếm tiền, nước này đã thực hiện chính sách bán quốc
tịch. Sau khi có được quốc tịch của quốc gia này, bất luận người có thu nhập bao
nhiêu, mỗi năm chỉ phải nộp thuế 100 ngàn ( tiền Liechtenstein).
Nước Liechtenstein đã trở thành một quốc gia lý tưởng của những người
nhiều tiền ở các nước trên thế giới. Họ rất muốn mua quốc tịch của quốc gia này.
Tuy nhiên, một nước nhỏ bé không thể dung nạp được quá nhiều người, việc mua
được quốc tịch của quốc gia này không phải chuyên dễ.
Khó khăn này đã không khuất phục được những người Do Thái thông minh.
Hronnestan là một trong những thương nhân Do Thái đã mua được quốc tịch
Liechtenstein. Anh đặt trụ sở chính công ty tại Liechtenstein, nhưng văn phòng lại ở
NewYork. Kiếm được tiền ở Mỹ nhưng anh không phải đóng các khoản thuế phức
tạp cho Chính Phủ Mỹ, mỗi năm anh chỉ cần nộp cho Liechtenstein 100 ngàn ( tiền
Liechtenstein) là đủ. Anh trở thành người trốn thuế hợp pháp, giảm được thuế, càng
thu được nhiều lợi nhuận.
Có điều rất thú vị là công ty anh hiện kinh doanh là công ty đại lý của công
ty Swarusky, bản thân anh là một nhà đại lý tiêu thụ. Ngay cả việc anh giành được
quyền tiêu thụ này cũng là một câu chuyện hay về việc anh khéo sử dụng quốc tịch.
Trong đại chiến thế giới thứ hai, công ty Swarusky vì sợ uy lực của quân Đức, buộc
phải chế tạo kính viễn vọng cho họ. Chiến tranh kết thúc, quân Pháp quyết định thu
hồi công ty này. Khi đó, Hronestan đang mang quốc tịch Mỹ. Sau khi biết được

chuyện này, anh lập tức tiến hành đàm phán với công ty Daniel Swarusky: “Tôi có
17
thể thương lượng với quân Pháp để không tịch thu công ty của ông. Sau khi sự việc
thành công, xin hãy chuyển quyền đại lý của công ty cho tôi, đến khi nào tôi chết,
hợp đồng này sẽ chấm dứt. Vậy quý công ty có ý kiến như thế nào?”.Công ty
Swarusky cực kỳ ác cảm với những điều kiện với những điều kiện mà anh chàng
Do Thái láu cá đưa ra. Nhưng sau khi suy nghĩ lại, vì lợi ích của bản thân, họ đành
phải thỏa hiệp.
Còn về phía quân Pháp, Hronnestan lợi dụng triệt để thế mạnh của Mỹ để
trấn áp quân Pháp. Anh đến gặp Bộ Tư Lệnh quân Pháp, trịnh trọng đưa ra đề nghị:
“Tôi là Hronnestan, người Mỹ. Bắt đầu từ ngày hôm nay, công ty Swarusky đã trở
thành tài sản của tôi. Mong quân Pháp không tịch thu công ty này”. Và cuối cùng,
công ty của người Mỹ, đương nhiên nước Pháp không thể thu hồi.
Sau vụ làm ăn này, không mất một đồng vốn, Hronnestan đã thiết lập được “
công ty đại lý tiêu thụ” của công ty Swarusky, kiếm được một khoản lợi nhuận kếch
sù.
Sự giàu có của Hronnestan là do quốc tịch mang lại. Ban đầu, anh lấy quốc
tịch Mỹ làm vốn để phát tài, sau đó lại dựa vào quốc tịch Liechtenstein để trốn một
khoản thuế lớn, từ đó kiếm được rất nhiều tiền.Chỉ cần chú ý quan sát, khéo làm
kinh doanh, việc làm ăn sẽ thuận lợi và tiền bạc sẽ vào túi bạn.
8. Lợi dụng chính trị để thu lợi nhuận cao.
Thói quen nghe ngóng động thái của người Do Thái, sự nhạy cảm của họ về
chuyển hóa nhân tố kinh tế và chính trị, đưa chính trị vào trong hợp đồng đã trở
thành một chuyện vô cùng tự nhiên. Lợi dụng mối quan hệ tốt đẹp nào đó trong
chính trị để thu được lợi nhuận cao cho bản thân, đây chính là một mưu lược lớn
trong kinh doanh của ngườ Do Thái.
Nam tước Moritz Hussey là một thành viên trong tập đoàn tiền tệ Do Thái
Bafalia có lịch sử lâu đời.Trên cơ sở nguồn tài sản kế thừa của ông và khoản hồi
môn lớn của bà vợ, tổng cộng có khoảng 3 triệu USD, ông liền bắt tay vào lĩnh vực
kinh doanh Ngân hàng. Nhưng Hussey không thấy hứng thú với nghề kinh doanh

ngân hàng. Ham muốn chính của ông là đầu tư xây dựng tuyến đường sắt châu Âu.
18
Năm 1868, Chính phủ Osaman Thổ Nhĩ kỳ chuẩn bị xây dựng một tuyến
đường sắt từ Vienne đến Constantinople. Tổng chiều dài của toàn bộ công trình này
là 1500 km. Những nơi mà tuyến đường sắt này đi qua phần lớn là những vùng địa
hình ghập ghềnh, không bằng phẳng, núi non trùng điệp.
Hussey ký một hiệp nghị với Chính phủ Thổ Nhĩ. Điều hấp dẫn nhất là
Hussey giành được quyền khai thác tài nguyên rừng và các mỏ quặng ven theo
tuyến đường sắt này.
Công trình xây dựng đường sắt về cơ bản triển khai đúng như thời gain quy
định, trong hai năm đã xây dựng xong tuyến chính dài 500 km, trong đó 400 km đã
đưa vào kinh doanh, bên cạnh đó còn có 600 km cũng đã khởi công xây dựng.
Vào thời điềm này, do đường sắt xuyên qua phạm vi thế lực của nước Nga
nên bị chính phủ nước này phản đối kịch liệt. Cuối cùng, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã
rút ngắn độ dài tuyến đường sắt xuống 1200 km. Sự thay đổi này thật Hussey vốn
mong cũng không được. Nó giúp ông cắt giảm được phần mạo hiểm nhất, chi phí
đầu tư hao tổn nhất trong toàn bộ tuyến đường sắt. Vốn trong hiệp nghị ký kết sở dĩ
đã tạo cho ông những điều kiện ưu đãi chủ yếu coi đoạn đường này là phần cản trở
giao dịch. Hiện tại phần khó nhất, tốn kém nhất đã được cắt bỏ, trong khi điều kiện
ưu đãi vẫn như cũ, chẳng phải khiến cho Hussey phát tài ư?
Sau sự việc này, không ít quan sát viên cho rằng: Sự thay đổi này bao gồm
cả sự phản đối của chính phủ Nga, trước hết là do Hussey xúi bẩy; hơn nữa, chính
phủ Thổ Nhĩ kỳ sỡ dĩ đồng ý rút ngắn tuyến đường sắt cũng có khả năng là nhờ vào
thế lực ngầm của ông.
Sau sự việc, một nhà lịch sử học của Thổ Nhĩ Kỳ đã miêu tả Hussey là một
con người “ xảo trá, cấu kết, chụp giật, lừa lọc”, nhưng đồng thời cũng phải thừa
nhận, nếu không có Hussey, tuyến đường sắt này không thể nào xây dựng được.
9. Giành được tình cảm từ những nhân vật quyền thế.
Meyer Rockefeller ý thức rất rõ, nếu muốn trở hết tài năng trong xã hội mà
người Do Thái bị kỳ thị, việc tiếp cận với những người có địa vị, quyền lực, đồng

thời dành được tình cảm của họ chính là phương pháp hiệu quả nhất. Thông qua cơ
19
hội được công tước triệu kiến, anh đã dành rất nhiều công sức, tích cực giúp đỡ ông
sưu tập tiền cổ, thường xuyên giới thiệu khách hàng và giúp ông ta kiếm được rất
nhiều lợi nhuận.
Phương pháp này của Meyer ban đầu bị người khác hiểu lầm, nhưng mục
đích thật sự của anh ta là từ bỏ những lợi ích trước mắt để đổi lấy hiện thực chiến
lược lâu dài. Cách làm dùng tiền bạc, tâm huyết và tinh lực để đầu tư triệt để cho
một nhân vật đặc biệt sau này đã trở thành chiến lược cơ bản của gia tộc
Rockefeller.
Một khi gặp được những nhân vật có lợi ích tiềm tàng to lớn như các nhà
quý tộc, lãnh chủ, nhà tài phiệt…Người Do Thái sẽ tình nguyện hi sinh lớn và thiết
lập quan hệ với họ, cung cấp cho họ những thông tin tình báo, phục vụ nhiệt tình…
Sau khi hai bên có mối quan hệ sâu sắc không gì lay chuyển nổi, họ sẽ đạt được
những lợi ích to lớn hơn từ những thế lực cường quyền này.
Năm 25 tuổi, Meyer đã đạt được phẩm hàm “thương nhân ngự cung đình”
(thương nhân chuyên cung cấp hàng hóa cho cung đình). Thực tế, phẩm hàm này
chỉ là một chức danh, tác dụng thực sự của nó chính là xác nhận anh có toàn quyền
làm ăn với cung đình.
Nhờ những mối quan hệ đó, không lâu sau những lợi ích tiềm tàng đã lộ rõ:
Anh có thể đi du lịch với tư cách là người Do Thái mà không bị hạn chế gắt gao;
ông bố vợ vốn không muốn gả con gái cho anh, cuối cùng cũng đã đồng ý tồ chức
hôn lễ; điều quan trong hơn cả, anh có quyền thừa kế một phần tài sản của công
tước Behame.
Năm Meyer 45 tuổi, ở Pháp nổ ra cuộc cách mạng. Lúc đó, công tước
Behame là một trong những nhà tiền tệ lớn nhất châu Âu, tất nhiên không thể bỏ lỡ
cơ hội tốt đẹp này. Ông tiến hành kinh doanh vũ khí quân sự với quy mô lớn, đồng
thời còn cho các quân chủ và quý tộc đang thiếu chi phí quân sự vay số tiền lớn để
kiếm lãi suất cao. Nhân lúc hỗn đoạn, Meyer đã dựa vào thế lực của công tước để
kiếm cho mình những khoản tiền kếch xù và đặt nền móng không thể thay đồi cho

20
gia tộc mình, khiến gia tộc này trong vòng hơn 100 năm từ thế kỷ XIX trở về trước
đã tích lũy được một tài sản khổng lồ là 400 triệu bảng Anh.
10. Khéo léo lách luật.
Trong thực tiễn cuộc sống mấy ngàn năm của mình, người Do Thái đã tổng
kết: Hệ thống pháp luật dù có hoàn thiện đến mấy cũng có kẽ hở không thể khắc
phục. Nếu dốc lòng nghiên cứu pháp luật, lách qua những kẽ hở này, giống như tìm
ra được mỏ vàng vô tận. Vì lý do này, người Do Thái không chỉ linh hoạt mà còn
giỏi lách luật. Họ biết tìm ra lỗ hỏng của pháp luật và lợi dụng nó một cách triệt để.
Đối với họ, điều cần phải suy xét trong hợp đồng là sự hợp pháp chứ không phải là
đạo đức. Chỉ cần hợp đồng được ký kết dưới sự tự nguyện hoàn toàn của hai bên,
đồng thời phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan, kết quả dù không công
bằng cũng chỉ có thể trách bên bị thiệt thòi, vì sao trước khi ký kết không suy nghĩ
chu toàn. Mark đã từng nói: “ Thủ đoạn giảo hoạt của người Do Thái chính là sự
trốn tránh sự giảo hoạt những quy định pháp luật”.
Một minh chứng cho việc giỏi lách luật của người Do Thái là họ rất giỏi
trong việc trốn thuế hợp pháp. Đối với người Do Thái, ở các châu lục, họ đều là
những người giàu có, nếu thu thuế theo số tài sản đó, đương nhiên đó là một con số
đáng kể. Một số người từng đặt câu hỏi: Liệu người Do Thái có trốn thuế không?.
Nếu người Do Thái nghe được câu nói này nhất định sẽ rất tức giận. Họ vốn có một
câu cách ngôn trong kinh doanh: “ Tuyệt đối không trốn thuế”, thể hiện ý thức nộp
thuế nghiêm túc của họ. Người Do Thái cho rằng, nộp thuế là công việc đáng tự
hào, nộp thuế là xây dựng được một “hiệp ước” với nhà nước. Gặp bất kỳ hoàn
cảnh đặc biệt nào, bản thân họ cũng không được phép vi phạm “ hiệp ước”. Tuy
nhiên, trong quá trình kinh doanh, họ một mặt giữ chữ tín “ không trốn lậu thuế”,
mặt khác lại giỏi về “ trốn thuế hợp pháp” hay còn gọi là “lách luật”. Đây chính là
thuật giữ tiền của người Do Thái.
Cách trốn thuế hợp pháp thể hiện trình độ quản lý siêu việt và trí tuệ uyên
bác của người trốn thuế, khiến cho hành vi trốn thuế vẫn nằm trong phạm vi pháp
luật. Làm đến mức độ hợp lý hợp pháp, khéo léo vận dụng vào trong hoạt động kinh

21
doanh, nỗ lực để hành vi trốn thuế mang tính linh hoạt và tính nguyên tắc. Hành vi
trốn thuế là để hạ giá thành sản phẩm và mở rộng sản xuất, hành vi này sẽ làm tăng
sức cạnh tranh thị trường của doanh nghiệp. Để thực hiện được hành vi trốn thuế
một cách hợp pháp, người Do Thái thường nghiên cứu đầy đủ về các quy định thu
thuế có liên quan, nỗ lực để hiểu về chính sách thuế hơn cả nhân viên thu thuế của
quốc gia đó.
11. Đàm phán phải có kế hoạch công phu.
Câu cách ngôn Do Thái: “ Hỏi đường mười lần còn hơn đi lạc một lần”, ý
chỉ con người phải tìm hiểu rõ phương hướng và mục tiêu trước khi hành động,
không nên hành động vội vã. Người Do Thái cho rằng, đàm phán không chỉ là hai
bên ngồi đối diện để trao đổi ý kiến và mặc cả mà còn là một vở kịch cần dàn dựng
công phu, cần có sự chuẩn bị tích cực và nghệ thuật phi phàm. Có thể nói, đó là
cuộc đọ sức giữa hai bên. Thông qua điều chỉnh và thõa hiệp, hai bên mới đạt được
sự nhất trí.
Tinh hoa của cuộc đàm phán thành công là định ra mục tiêu của mình, đồng
thời làm tốt được việc thực hiện kế hoạch. Người là động vật có văn hóa và cũng là
động vật có tình cảm. Tinh thần con người thường chịu ảnh hưởng của nhiều nhân
tố như lợi ích kinh tế, danh lợi, tình cảm. Chính những lợi ích này đã chi phối thái
độ và tâm trạng của mỗi người. Chính những lợi ích này đã chi phối thái độ và tâm
trạng của mỗi người. Khi đàm phán, bạn phải luôn ghi nhớ mục tiêu đàm phán lần
này của mình, phải khống chế được tình cảm và tâm trạng của bản than, từ đó giữ
thái độ kiên định trước sau như một. Chỉ có thể xác định rõ mục tiêu, mới có thể giữ
được sự bình thản trước mặt đối thủ.
Ngày đầu tiên đàm phán, người Do Thái thường kết thúc bằng tranh cãi. Vào
ngày đàm phán, họ sẽ đến điểm rất hẹn đúng giờ, tuyệt đối không để bạn phải chờ
đợi,dù chỉ là một phút. Sau khi gặp mặt, người Do Thái sẽ hỏi thăm bạn một cách
khiêm tốn và khách sáo, mỉm cười trò chuyện với bạn. Nụ cười ngọt ngào của họ sẽ
khiến bạn cảm thấy cả thế giới đang rất tốt đẹp.
22

Nhưng khi bước vào đàm phán, họ sẽ đưa ra những điều kiện đàm phán rất
cao, chên lệch rất nhiều so với thõa thuận của hai bên, hơn nữa còn kỳ kèo những
chi tiết rất nhỏ trong hợp đồng. Thế là hai bên bắt đầu không ngừng tranh luận và
cuối cùng biến thành trận tranh cãi kịch liệt.
Trước tình thế đó, bạn sẽ cảm thấy người Do Thái rất khó quan hệ, vụ làm ăn
này 10 phần thì đã có đến 8 hoặc 9 phần là sẽ không thành. Nhưng vào ngày hôm
sau, người Do Thái lại hẹn bạn về thời gian và địa điểm, tinh thần nói chuyện của
họ lại vô cùng nhiệt tình và chân thành, thái độ ôn hòa và lịch sự. Trong tâm trí của
họ, sự việc ngày hôm qua dường như chưa xảy ra bao giờ. Thái độ của họ thay đổi
nhanh chóng như vậy khiến bạn cảm thấy rất lạ lùng. Bạn có thể hỏi nguyên nhân
khiến thái độ người Do Thái thay đổi lớn đến vậy. Họ sẽ cười đáp: “ Tế bào của con
người thay đổi rất nhanh, tế bào tranh cãi ngày hôm qua đã bị tế bào ôn hòa của
ngày hôm nay thay thế rồi. Hôm nay, chúng ta không cần thiết phải bực tức nữa”.
Câu nói này của họ khiến bạn yên tâm hơn và cuộc đàm phán lại diễn ra suôn sẻ.
Trong một cuộc đàm phán khác, người Do Thái cũng luôn đưa ra các điều
kiện hà khắc, người Do Thái cũng luôn đưa ra các điều kiện hà khắc, đồng thời còn
tỏ ý buộc đối phương phải chấp nhận. Trong khi những điều kiện mà đối phương
đưa ra, họ luôn luôn phủ quyết, không bao giờ chấp nhận, thái độ của họ thường
chọc giận đối phương.
Thế là bạn sẽ cho rằng khó bỏ qua những điều kiện của họ. Hơn nữa, bạn lại
bị cuộc tranh cãi kịch liệt của họ làm cho đầu óc quay cuồng. Lúc ấy bạn thường hồ
đồ đồng ý những việc mà trước đó bạn quyết định không đồng ý. Thậm chí, bạn
cũng bị những trận tranh cãi này làm cho mệt mỏi, bởi bạn hy vọng nhanh chóng
kết thúc cuộc đàm phán như cãi nhau này. Bạn có thể nhanh chóng kết thúc đàm
phán với họ và đương nhiên sẽ vứt bỏ rất nhiều lợi ích của mình.
Đây là các chiêu đàm phán thường xuyên của người Do Thái: Ban đầu, chọc
giận đối phương, khiến đối phương mất lý trí, trong khi tức giận sẽ đáp ứng nhu cầu
của mình.
23
Người Do Thái cực kỳ lý tính. Trong bất kỳ lúc nào, họ cũng xử lý vấn đề

bằng lý trí, không bao giờ bị tình cảm chi phối. Trong lúc đàm phán, người Do Thái
luôn tỏ ra rất tức giận, nhưng kỳ thực trong lòng họ hiểu rất rõ mình đang làm gì.
Một khi bạn bị sự tức giận bề ngoài của họ lấn sang, tự dưng bạn sẽ mất cân
bằng tâm lý, thế là vào đàm phán bạn sẽ bỏ rất nhiều lợi ích của bạn thân. Hợp đồng
và thõa thuận một khi đã ký kết, không thể sửa và thay đổi được. Hơn nữa, bạn
cũng cần biết rằng, khi làm ăn với người Do Thái, điều quan trọng nhất chính là
tuân thủ hợp đồng. Nếu không bạn sẽ vĩnh viễn mất đi cơ hội làm ăn với họ.
12. Xem trọng vai trò của thông tin thương mại.
Coi trọng thông tin, nghiên cứu thông tin là một trong những phương pháp
để giành lấy thành công của người Do Thái. Họ luôn dựa vào những thông tin mới
nhất để nhanh chóng ra tay. Trong khi những người khác vẫn còn đang mơ hồ, họ
đã kiếm lời lớn. Khi người khác hiểu ra, họ đã rút khỏi chiến trường. Người khác
bước chân vào cũng chỉ là giúp họ dọn dẹp chiến trường mà thôi.
Trong thời đại thông tin, tất cả đều có thể dùng thông tin thay thế và biểu thị.
Thông tin là tài sản to lớn của thời đại, có thông tin tức là có tài sản.Từ lâu, người
Do Thái đã hiểu được mối quan hệ này. Họ biết được tính quan trọng của thông tin,
đồng thời sớm biết lợi dụng nó để kiếm tiền. Trong ngôn ngữ của người Do Thái, ý
nghĩa của thông tin là hoạt động kinh doanh. Có lẽ được gợi ý từ ý nghĩa này, người
Do Thái đã tâm niệm rằng, không có gì quan trọng hơn thông tin.
Ông chủ công ty chế biến thịt Yarmor là Phippli Yarmor có thói quen đọc
báo hàng ngày. Công việc kinh doanh rất bận rộn nhưng sáng nào ông cũng đến
công ty và đọc những tờ báo trong ngày mà thư ký chuyển đến.
Một sáng đầu xuân năm 1875, cũng giống như mọi ngày, ông chăm chú đọc báo.
Một dòng tin ngắn đã thu hút sự chú ý của ông: Ở Me6xico đang nghi ngờ có bệnh
dịch.
Mắt của Yarmor bổng sáng lên: Nếu ở Mexico xảy ra bệnh dịch, nó sẽ nhanh
chóng lan truyền đến California và Delaware. Trong khi đó, ngành gia súc
California và Delaware là đầu mối chính cung cấp các loại thịt gia súc cho toàn
24
vùng Bắc Mỹ. Nếu ở đó xảy ra dịch bệnh, nguồn cung cấp thịt trong cả nước sẽ trở

nên khó khăn, giá cả nhất định sẽ tăng vọt.
Thế rồi ông lập tức cử người đến Mexico để điều tra thực tế. Vài ngày sau,
tính xác thực của thông tin đã được làm rõ. Yarmor lập tức tập trung vốn liếng để
thu mua các loại bò thịt và lợn sống của vùng California và Delaware, sau đó vận
chuyển đến khu vực phía Đông cách hai vùng này khá xa để chăn nuôi. Hai ba tuần
sau, bệnh dịch từ Mexico đã lan truyền đến một số bang ở phía Tây. Chính phủ liên
bang lập tức hạ lệnh nghiêm cấm vận chuyển thực phẩm từ những ban này ra ngoài.
Thị trường thực phẩm thịt ở Bắc Mỹ trở nên khang hiếm, giá cả tăng vọt.Yarmor
kịp thời tung lượng bò thịt sống ở miền Đông với giá cao.Chỉ trong khoảng thời
gain ba tháng, ông đã kiếm được 9 triệu USD. Dòng tin đó đã giúp ông có được một
khoản lợi nhuận khổng lồ.
Thành công của Yarmor không phải là ngẫu nhiên. Đây là kết quả của việc
ông thường xuyên xem báo và tích lũy thông tin, biết phân tích, nhận định thông tin
đó có tác dụng ở mức độ nào. Hơn nữa, trong tay ông còn có một số nhân viên
chuyên làm nhiệm vụ thu thập thông tin, trình độ học vấn tương đối cao, giỏi kinh
doanh, giàu kinh nghiệm quản lý. Hàng ngày, họ thu thập hàng chục tờ cáo các
nước trên thế giới như Mỹ, Anh và Nhật Bản… Sau khi xem xong, họ sẽ phân loại
những tin tức quan trọng, đồng thời đưa ra những đánh giá cũng như nhận định, sau
đó mới chuyển đến cho ông. Nếu Yarmor cảm thấy những thông tin nào có giá trị sẽ
cùng họ nghiên cứu để đưa ra những nhận định chính xác nhất. Điều đó đã khiến
ông thành công trong công việc kinh doanh của mình.
25

×