Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Dịch bệnh ở trung quốc thời minh (1368 1644) epidemic diseases in china during the ming period (1368 1644)”, tạp chí nghiên cứu trung quốc số (231

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.44 KB, 16 trang )

LỊCH SỬ - VĂN HĨA

LƯ VĨ AN*
Tóm tắt: Vào thời Minh, do biến đổi khí hậu và thiên tai xảy ra thường xuyên nên ở Trung
Quốc dịch bệnh đã nhiều lần bùng phát, với tỷ lệ tử vong cao khiến nhiều người chết, dẫn tới biến
đổi nhân khẩu và tác động đến nhiều mặt kinh tế, xã hội, chính trị và quân sự. Trong đó đáng kể
nhất là hai đợt dịch bệnh quy mô lớn bùng phát vào những năm 1580 dưới thời Vạn Lịch và
những năm 1630-1640 thời Sùng Trinh. Bài viết này tìm hiểu về tình hình dịch bệnh nguồn gốc và
các nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện và lây lan của dịch bệnh ở Trung Quốc thời Minh, chủ yếu
là hai đợt dịch bệnh vào thời Vạn Lịch và Sùng Trinh. Bài viết bước đầu đánh giá những tác động
của dịch bệnh đối với xã hội Trung Quốc thời Minh và các biện pháp ứng phó với dịch bệnh của
nhà Minh.
Từ khóa: Dịch bệnh, dịch tễ học, thiên tai, nhà Minh, lịch sử môi trường

Mở đầu
Với đặc trưng là một nước đơng dân,
có mật độ dân cư dày đặc, cũng là điều
kiện để bệnh dịch dễ dàng bùng phát và
lây lan nên Trung Quốc có một lịch sử
lâu dài về các bệnh dịch lưu hành(1). Việc
tìm hiểu dịch bệnh lây truyền qua các loài
vật trung gian truyền bệnh (vectorborne
diseases) và lây truyền qua nguồn nước
(waterborne diseases) là một vấn đề cơ
bản trong nghiên cứu lịch sử môi trường
của Trung Quốc được nhiều học giả quan
tâm từ rất sớm ( 刘 翠 溶 , 2006: 19)(2).
Trong đó, dịch bệnh thời Minh (13681644) nhận được sự chú ý nhiều hơn cả.
Bởi nhà Minh là triều đại chịu ảnh hưởng
sâu sắc nhất của biến đổi khí hậu và
nhiều loại thiên tai như hạn hán, lũ lụt,


Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020

nạn đói, dịch bệnh và động đất(3). Hầu hết
các nhà nghiên cứu về lịch sử thời Minh
đều cho rằng dịch bệnh là một trong
những nguyên nhân quan trọng dẫn đến
thảm kịch diệt vong của triều đại nhà
Minh.
1. Tình hình dịch bệnh ở Trung
Quốc thời Minh
Theo Joseph H. Cha, trong tiến trình
lịch sử Trung Quốc từ năm 243 trước
Cơng ngun (TCN) đến năm 1911 tổng
cộng có 290 trận dịch quy mô lớn xảy ra ở
nhiều địa phương, trong đó chỉ riêng thời
Minh có tới 85 trận dịch, chiếm gần 1/3
tổng số các trận dịch trong lịch sử Trung
Quốc (William H. McNeill, 1976: 264-266).
* Đại học Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ

53


LƯ VĨ AN

Trần Húc thống kê qua ghi chép của Minh
sử cảo (quyển 38, Ngũ hành nhất- Tật dịch)
và Minh sử (quyển 28, Ngũ hành nhất Tật dịch) thì vào thời Minh có 75 lần dịch
bệnh xảy ra trong 54 năm (陳旭, 2016:
63). Cịn theo Trương Chí Bân, qua việc

khảo cứu chi tiết các thơng chí, huyện chí
của các địa phương thì vào thời Minh có
tới 264 trận dịch lớn nhỏ khác nhau được
ghi nhận (张志斌, 2007: 49-75). Tần suất
các trận dịch bệnh tăng dần theo từng
Bảng 1:

năm, trong đó dịch bệnh chủ yếu xảy ra
vào cuối thời Minh, với số địa phương bị
ảnh hưởng lên đến 1878 (xem Bảng 1).
Theo ghi chép của các địa chí thì những
trận dịch bệnh thời Minh bùng phát vào
hầu hết các mùa trong năm, tuy nhiên
dịch bệnh thường hay xảy ra vào mùa
xuân và mùa hè (陳旭, 2016: 25), cịn rất
ít xuất hiện vào mùa đông hoặc kéo dài
qua mùa đông (Helen Dustan, 1975: 16).

Bảng thống kê thực trạng dịch bệnh thời Minh
1368-1450

1451-1550

1551-1644

30

72

78


Tần suất dịch bệnh (%)

36,1

71,9

83,0

Tỷ lệ trên tổng số trận dịch (%)

16,7

40,0

43,3

Số địa phương xảy ra dịch bệnh

234

478

1878

Số lần bùng phát

Nguồn: Qiu Hua Li - Yue Hai Ma - Ning Wang - Ying Hu - Zhao Zhe Liu, 2020, Overview of
the Plague in the Late Ming Dynasty and Its Prevetion and Control Measures, Traditional
Medicine Research, Vol. 5, Issue 3, p. 139.


Vào thời Minh, ở Trung Quốc có hai
đợt dịch bệnh quy mô lớn bùng phát vào
năm 1580 và những năm 1630-1640. Do
hai đợt dịch này xảy ra trùng với thời trì
vị của hai đời vua Vạn Lịch (Minh Thần
Tông, 1572-1620) và Sùng Trinh (Minh
Tư Tơng, 1627-1644) nên sử sách cịn
gọi hai đợt dịch này là dịch bệnh thời
Vạn Lịch và dịch bệnh thời Sùng Trinh.
Dịch bệnh thời Vạn Lịch (Các trận
dịch những năm 1580)
Vào đời Vạn Lịch, trong khoảng thời
gian từ năm 1579-1584, một khu vực

54

rộng lớn ở miền Bắc Trung Quốc đã bị
ảnh hưởng nghiêm trọng bởi một loại
dịch bệnh mà các tài liệu chép là “đại đầu
ôn” 《 大 頭 瘟 》 hoặc “đại đầu phong”
《 大 頭 風 》 . Như tại Tẩm Châu, tỉnh
Sơn Tây vào năm Vạn Lịch thứ 10 (1582)
“thiên dịch lưu hành, tục gọi là đại đầu
phong, có gia đình chết khơng cịn một
ai”. Dịch bệnh này đã lây lan rất nhanh
chóng với tỷ lệ tử vong rất cao: 40% dân
số một phủ của tỉnh Bắc Trực Lệ. Theo
tường thuật của một danh y đương thời là
Trương Giới Tân (1563-1640) thì các

Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020


Dịch bệnh ở Trung Quốc thời Minh…

triệu chứng của dịch bệnh này là ớn lạnh,
sốt và sưng phù ở đầu, cổ hoặc cổ họng.
Một số ý kiến cho rằng “đại đầu phong”
có thể là bệnh viêm màng não (Helen
Dustan, 1975: 18-19), cũng có quan điểm
cho rằng nó là một tên gọi khác của bệnh
dịch hạch (曹树基, 1997: 20). Bởi theo
mô tả của các địa chí về các triệu chứng
bệnh như “hạch”《核》, “thũng hạng”
《腫項》, “đại đầu”《大頭》, “hầu tê”
《喉痹》, tức sự xuất hiện của khối u
hoặc hạch cứng, sưng phù cổ, đau họng
và tử vong từ hai đến ba ngày cho thấy
nó là bệnh dịch hạch (Marta E. Hanson,
1997: 97-98). Trận dịch này có lẽ đã bắt
nguồn từ tỉnh Sơn Tây và bùng phát đầu
tiên ở các huyện Đại Đồng, Bảo Đức và
Thái Nguyên vào cuối năm 1579 đầu
năm 1580. Sang năm sau, từ huyện Đại
Đồng dịch bệnh lan ra phía Đơng Bắc tới
tỉnh Hà Bắc, hồnh hành ở huyện Tun
Hóa và huyện Hịa Lai, ngay phía Tây
Bắc của Bắc Kinh. Cùng thời điểm đó,
dịch bệnh lây lan khắp tỉnh Sơn Tây, từ
Thái Nguyên ở trung tâm Sơn Tây đến

Lục An ở Đơng Nam Sơn Tây. Từ phía
Đơng của Lục An, dịch bệnh lan đến phía
Bắc của tỉnh Hà Nam. Đến năm 1582 thì
dịch bệnh lan tới Bắc Kinh (Marta E.
Hanson, 1997: 100-101).
Tiếp theo đó, trong các năm 15861588 một trận dịch bệnh khác bùng phát
ở khu vực tiếp giáp giữa ba tỉnh Sơn Tây,
Hà Bắc và Hà Nam. Tại huyện Trạch
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020

Châu, tỉnh Sơn Tây đã ghi nhận một trận
dịch kéo dài trong ba năm từ năm 15861588. Dịch bệnh bùng phát tại huyện Vệ
Huy, tỉnh Hà Bắc vào năm 1587, sau đó
lan xuống phía Nam tới hai huyện Hồi
Khánh và Khai Phong của tỉnh Hà Nam
vào năm 1588. Sau đợt dịch này cho đến
năm 1610, khu vực Hoa Bắc tạm thời
không bùng phát trận dịch lớn nào khác
(Marta E. Hanson, 1997: 102).
Trong khi đó, ở Hoa Nam tại khu vực
hạ lưu sơng Dương Tử vào năm 1587 đã
xảy ra một trận dịch bệnh quy mơ lớn
cùng lúc với nạn đói nghiêm trọng ở
Chiết Giang, ngay phía Nam Thái Hồ.
Sang năm sau, dịch bệnh lây lan khắp
Chiết Giang và Giang Tô. Không giống
như các trận dịch ở Hoa Bắc, dịch bệnh
các năm 1587-1588 ở miền Nam Trung
Quốc nhiều khả năng là sự kết hợp giữa
sốt phát ban và những bệnh truyền nhiễm

lây truyền qua nguồn nước như tiêu chảy,
kiết lỵ và sốt thương hàn (Marta E.
Hanson, 1997: 109).
Dịch bệnh thời Sùng Trinh (Các trận
dịch những năm 1630-1640)
Chỉ khoảng 40 năm sau đợt dịch năm
1580, một đợt dịch thứ hai phức tạp hơn
với quy mô rộng lớn và sức tàn phá nặng
nề hơn đã bùng phát ở miền Bắc Trung
Quốc. Điều đáng chú ý là đợt dịch lần
này xảy ra đồng thời với tình trạng hạn
hán, nạn đói nghiêm trọng cùng với sự

55


LƯ VĨ AN

tấn công của người Mãn Châu ở biên giới
Đông Bắc và các cuộc khởi nghĩa nông
dân rầm rộ.
Đợt dịch lần này bùng phát đầu tiên ở
khu vực trung tâm và vùng Đông Nam
của tỉnh Sơn Tây vào năm 1633, cùng lúc
với một nạn đói kéo dài suốt mùa hè.
Trong năm 1634, các huyện Ức Châu,
Liêu Châu và Thái Nguyên của tỉnh Sơn
Tây đã trải qua trận dịch bệnh dẫn đến
cuộc khởi nghĩa của nông dân. Đến năm
1635-1636, một trận dịch khác lại bùng

phát tại Sơn Hải quan ở phía Đơng tỉnh
Hà Bắc. Dịch bệnh cũng xảy ra tại huyện
Du Lâm và huyện Diên An của tỉnh
Thiểm Tây từ năm 1636-1637. Cũng
trong năm 1637, dịch bệnh lại xuất hiện ở
huyện Đại Đồng phía Bắc Sơn Tây
(Marta E. Hanson, 1997: 103-104). Sau
đó, dịch bệnh tạm thời lắng xuống ở khu
vực miền Bắc Trung Quốc trong khoảng
ba năm, ngoại trừ tỉnh Sơn Đông. Vào
năm 1639, một trận dịch đã bùng phát dữ
dội ở vùng Tế Nam thuộc tỉnh Sơn Đông.
Trận dịch lần này được cho là có mối liên
hệ với sự xâm lược của người Mãn Châu
vào Trung Quốc. Bởi chỉ một thời gian
ngắn sau khi người Mãn Châu đánh vào
Trung Nguyên (Đông Xuân 1638-1639)
dịch bệnh đã bùng phát ở khu vực xung
quanh Tề Hà, tới Vũ Thành ở Tây Bắc và
Lâm Thanh ở phía Đơng. Một số ý kiến
cho rằng người Mãn đã mang mầm bệnh
tới Sơn Đông, song cũng có bằng chứng

56

cho đó là bệnh đậu mùa, một căn bệnh
đặc hữu vốn đã lây truyền lâu đời ở
Trung Quốc (Marta E. Hanson, 1997:
104-105). Cũng vào năm 1639, một trận
dịch lớn khác do bệnh đậu mùa gây ra và

có mối liên hệ với trận dịch ở Tế Nam đã
bùng phát ở khu vực hạ lưu sông Dương
Tử (Marta E. Hanson, 1997: 106).
Sang năm 1640, một trận dịch với độc
lực lớn hơn bắt đầu bùng phát và lây lan
khắp miền Bắc Trung Quốc. Bắt nguồn
từ Phượng Tường ở Tây Bắc tỉnh Thiểm
Tây, dịch bệnh lây lan đến Hà Gian ở Hà
Bắc và hai huyện Trương Đức, Hồi
Khánh phía Nam tỉnh Hà Nam. Khác với
trận dịch thời Vạn Lịch đã hoành hành ở
Sơn Tây, đợt dịch lần này lây lan đồng
thời khắp hai tỉnh Hà Bắc và Hà Nam.
Năm 1641 ghi nhận tình hình dịch bệnh
tồi tệ nhất khi có 103 địa phương khác
nhau báo cáo về bệnh dịch (J.N. Hays,
2005: 113). Đương thời, tác phẩm Ôn
dịch luận 《 溫 疫 論 》 của danh y Ngơ
Hựu Tính mơ tả rằng: “Vào năm 1641 lệ
khí lan tràn, số bệnh nhân đặc biệt tập
trung ở Sơn Đông, Chiết Giang, Nam và
Bắc Trực Lệ. Tình hình tồi tệ nhất vào
tháng thứ năm và tháng thứ sáu” (Helen
Dustan, 1975: 15). Dịch bệnh tạm thời
lắng xuống trong năm 1642, nhưng sau
đó bùng phát trở lại ở ba tỉnh Hà Bắc, Hà
Nam và Sơn Tây trong hai năm 16431644, cùng lúc với các cuộc khởi nghĩa
nông dân và sự xâm lược của người Mãn
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020



Dịch bệnh ở Trung Quốc thời Minh…

Châu. Cùng lúc đó, ở khu vực hạ lưu
sông Dương Tử từ An Huy, Giang Tô và
Chiết Giang cũng bùng phát một trận
dịch lớn (Marta E. Hanson, 1997: 107).
Một số nhà nghiên cứu cho rằng trận dịch
năm 1641 từ Hoa Bắc có thể đã lây lan
xuống tận phía Nam (曹树基, 1997: 27).
Như vậy, vào những năm 1640 ở Trung
Quốc dịch bệnh đã bùng phát và lan rộng
trên phạm vi cả nước, gây ra nhiều thiệt
hại, trong đó các tỉnh chịu thiệt hại nặng
nề nhất nằm ở phía Tây Nam của Bắc
Kinh, bao gồm Hà Bắc và Sơn Tây.
Về loại bệnh gây ra các trận dịch ở
Trung Quốc đời Sùng Trinh, theo mô tả
của những tài liệu đương thời cho thấy sự
hiện hữu của nhiều loại bệnh khác nhau.
Chẳng hạn, dịch bệnh vào những năm
1643-1644 được chép là “qua nhương
ôn”《瓜瓤瘟》(Melon pulp fever) hoặc
“tham đầu bệnh”《探頭病》(Peep fever).
Joseph Needham cho rằng đây có thể là
bệnh sốt bại liệt, nhưng Helan Dustan thì
cho nó là bệnh dịch hạch (Helen Dustan,
1975: 20). Cũng có quan điểm cho rằng
nó là “hoắc loạn”《霍亂》tức bệnh dịch
tả (cholera) (Kerrie L. Macpherson, 2002:

29). Một vài địa chí ở Chiết Giang và
Giang Tơ khi nói về dịch bệnh những
năm 1640-1644 thì nhắc tới “dương mao
ơn”《羊毛瘟》tạm dịch là chứng “sốt
len cừu” (Sheep’s wool fever), bởi những
người bị nhiễm bệnh này có cảm giác
như mọc lơng cừu trên cơ thể. Theo ghi
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020

chép của Vũ Thành huyện chí 《武城县
志》: “Vào năm 1640 có một trận dịch
hồnh hành, các triệu chứng rất bất
thường và khơng thể lý giải. Nó được gọi
là dương mao ôn. Sợi len cừu đột nhiên
xuất hiện trên thực phẩm và trái cây. Tất
cả những ai vơ tình ăn phải sẽ ngay lập
tức bị nhiễm bệnh và chết” (Helen
Dustan, 1975: 24). Những miêu tả này có
thể suy đốn được căn bệnh là bệnh nấm
hoặc bệnh than (Helen Dustan, 1975: 26).
Chứng “sốt len cừu” này bùng phát đầu
tiên ở Hồ Châu phía Nam Thái Hồ thuộc
tỉnh Chiết Giang vào năm 1640 và sau đó
là ở huyện Trấn Giang phía Tây Bắc Thái
Hồ thuộc tỉnh Giang Tô vào năm 1644
(Marta E. Hanson, 1997: 109).
Tóm lại, bằng cách kết hợp nhiều
nguồn tài liệu khác nhau, bước đầu có thể
phác thảo được thực trạng dịch bệnh ở
Trung Quốc thời Minh. Các tài liệu đã

ghi chép triệu chứng đặc trưng của các
bệnh dịch ở từng khu vực vào thời điểm
khác nhau như sau: “sưng phù cổ” trong
trận dịch 1581-1582 ở Sơn Tây và Bắc
Hà Nam; “đau họng” trong trận dịch năm
1610 ở hai huyện Đại Đồng và Thái
Nguyên (Sơn Tây); “mụn nhọt đau nhức”
trong đợt dịch năm 1643 ở Bắc Kinh và
khu vực xung quanh, “hạch cứng dưới
vùng cánh tay” trong trận dịch năm 1644
ở huyện Lục An (Sơn Tây) (Marta E.
Hanson, 1997: 108). Dựa theo đó, các
nhà nghiên cứu cho rằng bệnh dịch bùng

57


LƯ VĨ AN

phát và lây lan ở miền Bắc Trung Quốc
vào đời Vạn Lịch trong những năm 1580
và đời Sùng Trinh trong những năm
1630-1640 phần lớn là bệnh dịch hạch,
chủ yếu là thể hạch (bubonic plague) và
trong một vài trường hợp có cả thể viêm
phổi (pneumonic plague) xuất hiện đồng
thời (曹树基, 1997: 21). Trong khi đó
các trận dịch hồnh hành ở phía Nam, tại
khu vực hạ lưu sơng Dương Tử vào các
năm 1587-1588 và những năm 1640, lại

là sự kết hợp các bệnh truyền nhiễm lây
truyền chủ yếu qua nguồn nước như
thương hàn và kiết lỵ (Marta E. Hanson,
1997: 100).
2. Nguyên nhân dẫn đến dịch bệnh
thời Minh
Theo quan niệm của y học cổ truyền
Trung Hoa, bệnh dịch là loại bệnh truyền
nhiễm cấp tính nguy hiểm và rất dễ lây
lan. Trong các y văn và nguồn sử liệu
thường sử dụng các từ như ơn dịch, bệnh
khí, canh khí, dị khí, độc khí, dịch độc,
thặng canh chi khí để chỉ chung các loại
bệnh dịch. Chúng bao gồm đại đầu ôn, hà
điệp ôn, dịch si, bạch hầu, lan hầu đan
chẩn, thiên hoa (đậu mùa), hoắc loạn
(dịch tả) và thử dịch (dịch hạch) (陳旭,
2016: 64). Về nguyên nhân dẫn đến dịch
bệnh, quan niệm của y học truyền thống
Trung Quốc thường nhấn mạnh vào vai
trò của môi trường như là nguyên nhân
cơ bản của các loại bệnh tật và những rối
loạn trong cơ thể con người là biểu hiện

58

tức thời của nó. Theo quan niệm này,
bệnh tật được tạo ra bởi một khí độc
trong mơi trường, nó xâm nhập vào cơ
thể con người và phá vỡ sự cân bằng hài

hòa bên trong cơ thể, gây ra bệnh tật. Sự
cân bằng này thường được diễn tả qua
thuyết ngũ hành và âm - dương. Nói cách
khác, dịch bệnh theo tư tưởng dịch tễ học
truyền thống của Trung Quốc là kết quả
từ những bất thường trong chu kỳ của khí.
Tác phẩm Ơn dịch luận - một trong
những chun khảo về bệnh dịch học có
ảnh hưởng nhất vào cuối thời Minh, được
viết năm 1642 bởi danh y Ngô Hựu Tính
(tức Ngơ Hựu Khả, 1582-1652) xác định
rằng bệnh dịch là do lệ khí, tức một loại
khí độc bất thường khơng tuân theo chu
kỳ thông thường gây ra (Marta E. Hanson,
1997: 89). Quan niệm này về dịch bệnh
của người Trung Hoa còn chồng chéo với
niềm tin dai dẳng về vai trò của thần linh
hoặc những âm hồn đã gây ra bệnh dịch.
Ngoài ra, xã hội thời Minh cũng nhấn
mạnh đến mối quan hệ giữa đạo đức cá
nhân và cộng đồng với sự lây lan của
dịch bệnh (J.N. Hays, 2005: 116).
Đó là quan niệm về dịch bệnh trong
thế giới quan của người Trung Hoa thời
xưa, trên thực tế sự bùng phát của dịch
bệnh ở Trung Quốc thời Minh cũng như
các thời kỳ khác có mối liên quan chặt
chẽ giữa yếu tố sinh học với các yếu tố tự
nhiên và xã hội.
Về yếu tố tự nhiên, được biểu hiện qua

sự biến đổi khí hậu, điều kiện tự nhiên và
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020


Dịch bệnh ở Trung Quốc thời Minh…

môi trường sinh thái. Trong đó đáng chú
ý nhất là biến đổi khí hậu bởi nó có tác
động rất lớn đến sự xuất hiện của nhiều
loại thiên tai như hạn hán, lũ lụt và các
thảm họa khác. Dưới thời Minh, có tới
1011 lần xảy ra thiên tai như lũ lụt, hạn
hán, nạn châu chấu, mưa đá, bão, động
đất, băng tuyết và nạn đói, trong đó chỉ
riêng lũ lụt là 196 lần, xảy ra gần như
hàng năm (张丽芬, 2005: 78). Các loại
thiên tai này có mối liên hệ chặt chẽ với
sự bùng phát của dịch bệnh. Chẳng hạn
nạn đói là yếu tố góp phần dẫn đến sự
bùng phát và làm nghiêm trọng hóa dịch
bệnh. Nhiều trận dịch bệnh lớn ở Hoa
Bắc thời Minh xảy ra cùng lúc với nạn
đói. Lũ lụt và hạn hán thường xuyên dẫn
đến nạn đói và khi nạn đói xuất hiện thì
thường sau đó là sự phát sinh của các trận
dịch bệnh. Nó như một chu kỳ luẩn quẩn
của lũ lụt + hạn hán -> nạn đói -> dịch
bệnh. Đồng thời nó cũng phản ánh quy
luật một thiên tai có thể dẫn đến sự xuất
hiện của một hoặc một số thiên tai khác

và thiệt hại do thiên tai thứ phát gây ra
đơi khi cịn vượt xa thiên tai ban đầu (张
丽芬, 2005: 78). Biến đổi khí hậu cịn
ảnh hưởng sâu sắc tới mức độ phổ biến
và sự nghiêm trọng của các bệnh truyền
nhiễm lây truyền từ vật chủ và trung gian
của chúng, vì nhiều lồi vật chủ mang
mầm bệnh rất nhạy cảm với nhiệt độ và
độ ẩm môi trường (Huidong Tian - etc.,
2017: 12972). Nhiệt độ suy giảm do biến
Nghiªn cøu Trung Qc sè 11 (231) – 2020

đổi khí hậu đóng vai trò là tác nhân của
dịch bệnh trong lịch sử. Các đợt dịch quy
mô lớn bùng phát vào những năm 1580
và 1640 trùng khớp với sự giảm nhiệt độ,
sự sụt giảm lượng mưa hoặc kết hợp cả
hai (Harry F. Lee - etc., 2017: 56). Bên
cạnh đó, sự sụt giảm lượng mưa và hậu
quả từ các đợt hạn hán nghiêm trọng vào
thời Vạn Lịch và Sùng Trinh đã dẫn đến
nạn đói kéo dài, làm tỷ lệ suy dinh dưỡng
tăng cao, từ đó khiến cho sức đề kháng
của con người đối với bệnh tật bị suy
giảm (Harry F. Lee - etc., 2017: 59).
Bên cạnh thiên tai do biến đổi khí hậu,
sự biến đổi của môi trường sinh thái cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự xuất hiện của dịch bệnh. Từ thời Minh
trở đi, hầu hết thảm thực vật rừng trên

cao nguyên hoàng thổ bị phá hủy do sự
gia tăng của hoạt động cải tạo đất và chăn
nuôi ngựa. Sự tàn phá nghiêm trọng thảm
thực vật rừng đã tạo ra những thay đổi
lớn trong hệ sinh thái (张丽芬, 2005: 79).
Nó làm mất cân bằng hệ sinh thái, khiến
cho mầm bệnh từ môi trường tự nhiên
xâm nhập vào con người. Nguồn gốc của
mầm bệnh gây ra hai đợt bệnh dịch hạch
ở Hoa Bắc cuối thời Minh nằm ở các ổ
dịch tự nhiên thuộc cao ngun Nội
Mơng, nơi mà chúng vẫn cịn tồn tại cho
đến ngày nay. Giống chuột gerbil Mông
Cổ (tên khoa học là meriones
unguiculatus) là vật chủ tự nhiên của loại
bọ chét mang trực khuẩn dịch hạch

59


LƯ VĨ AN

(yersinia pestis) gây bệnh dịch hạch ở
khu vực này. Thông thường trực khuẩn,
bọ chét và chuột gerbil tồn tại trong mối
quan hệ cộng sinh, hiếm khi biến đổi
sang con người (Marta E. Hanson, 1997:
98). Tuy nhiên, từ thời Gia Tĩnh (15221566) trong các năm 1533-1534 đã có
các đợt di cư lớn của người Hán đến định
cư ở khu vực phía Bắc Sơn Tây giáp với

Nội Mơng. Những người Hán khi đến
đây định cư, bằng việc chuyển đổi các
đồng cỏ thành đất canh tác nông nghiệp
đã bắt đầu làm thay đổi sâu rộng mơi
trường của khu vực, từ đó làm đảo lộn sự
cân bằng sinh thái của các ổ dịch tự nhiên
(曹树基, 1997: 28). Sự bùng phát và lây
lan của những trận dịch bệnh ở thời Minh
trong giai đoạn từ 1580-1640 bắt nguồn
từ sự biến đổi này. Bên cạnh đó, nhiều
nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên hệ giữa
sự bùng phát dịch bệnh với việc mở rộng
chợ buôn bán ngựa dọc theo biên giới
Nội Mông thời kỳ này. Năm 1571, nhà
Minh đã cho thiết lập các khu chợ buôn
bán ngựa với người Mông Cổ tại bốn đồn
canh dọc theo Vạn Lý Trường Thành ở
phía Bắc Sơn Tây và Hà Bắc. Những đồn
canh này có vị trí gần với các khu định
cư lớn ở phía Nam Nội Mơng nơi dịch
bệnh đã bùng phát vào các năm 15801582. Ví dụ, trận dịch bùng phát ở Đại
Đồng phía Bắc Sơn Tây nằm ngay phía
Nam đồn canh Đắc Thắng và phía Tây
đồn canh Tân Bình, hai trong bốn chợ

60

bn bán ngựa lớn (Marta E. Hanson,
1997: 101).
Về yếu tố xã hội, tuy điều kiện tự

nhiên là yếu tố quan trọng dẫn đến dịch
bệnh bùng phát, song nó khơng phải là
yếu tố duy nhất. Ngun nhân cơ bản của
dịch bệnh còn do các yếu tố xã hội gây ra
bởi con người. Vì yếu tố tự nhiên chỉ giữ
vai trị hồn cảnh, tức điều kiện khách
quan bên ngồi, đến khi thơng qua yếu tố
xã hội, tức điều kiện chủ quan bên trong
thì chúng mới có thể ảnh hưởng trực tiếp
đến xã hội. Tình hình kinh tế - xã hội rối
ren của Trung Quốc vào cuối thời Minh
đã góp phần vào mức độ nghiêm trọng
của dịch bệnh thời kỳ này. Dân số cả
nước tăng dần từ cuối thế kỷ XIV đến
cuối thế kỷ XVI khiến các đô thị trở nên
quá tải. Đường phố tràn ngập rác, phân
và ruồi nhặng là điều kiện thuận lợi cho
mầm bệnh sinh sơi phát triển. Ví dụ, sự
bùng phát dịch bệnh ở Hoa Bắc vào
những năm 1580 được cho là bởi áp lực
nhân khẩu quá mức ở khu vực từ Thiểm
Tây đến Sơn Tây và Hà Bắc (曹树基,
1997: 31). Lũ lụt thường xuyên cũng
khiến cho mầm bệnh dễ bộc phát và lây
lan nhanh chóng. Chẳng hạn ruồi có thể
truyền bệnh sốt thương hàn, trong khi
muỗi (sinh sản ở những nơi ẩm thấp do
ngập lụt) thì truyền bệnh sốt rét (Helen
Dustan, 1975: 15). Mặt khác, tình trạng
phiêu tán do thiếu lương thực và nạn đói

dẫn tới việc cả con người và các lồi vật
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020


Dịch bệnh ở Trung Quốc thời Minh…

gặm nhắm đều cùng tìm kiếm thức ăn ở
những vùng đất mới hoang vu. Một khi
con người và chuột - vật trung gian mang
mầm bệnh, di chuyển cùng nhau đã khiến
cho vi khuẩn yersinia pestis từ chuột lây
truyền sang cơ thể người bùng phát thành
bệnh dịch và dòng người lưu tán đã khiến
cho dịch bệnh lây lan trên phạm vi rộng
lớn (Qiu Hua Li, 2020: 138). Một số tài
liệu cho biết vào thời gian xảy ra hạn hán
và nạn đói nghiêm trọng, người dân ở
Sơn Đơng đào bới cả ổ chuột gerbil để
tìm kiếm các hạt giống, thậm chí có
người cịn ăn cả chuột (Marta E. Hanson,
1997: 99). Điều này đã làm mất khả năng
kháng bệnh và khiến cho mầm bệnh xâm
nhập trực tiếp vào cơ thể con người. Bên
cạnh đó, từ trung kỳ đến hậu kỳ nhà
Minh, chính sự rối ren, xã hội loạn lạc và
nhiều thiên tai xảy ra liên tiếp khiến cho
đời sống của người dân lầm than khốn
đốn, cuối cùng đã dẫn tới các cuộc khởi
nghĩa bùng phát. Bất ổn xã hội khơng chỉ
làm nhà Minh lung lay mà cịn đẩy nhanh

tốc độ lây nhiễm dịch bệnh bởi trong bối
cảnh loạn lạc việc kiểm sốt dịch bệnh là
vơ cùng khó khăn (张丽芬, 2005: 80).
Như vậy, có thể thấy mối liên hệ chặt
chẽ giữa dịch bệnh với biến đổi khí hậu,
thiên tai và các yếu tố kinh tế - xã hội
(Qing Pei - etc., 2015: 73). Biến đổi khí
hậu và thiên tai được coi là yếu tố quan
trọng trong việc gây ra dịch bệnh, song
cũng chỉ là nguyên nhân cuối cùng dẫn
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020

tới sự gia tăng xuất hiện của dịch bệnh ở
Trung Quốc thời Minh. Sự lan rộng của
dịch bệnh được xác định bởi các khía
cạnh kinh tế và xã hội. Nó là mối liên hệ
tương quan giữa biến đổi khí hậu, thiên
tai, kinh tế - xã hội và dịch bệnh như một
quy luật trong lịch sử Trung Quốc (Qing
Pei - etc., 2015: 77-78).
3. Tác động của dịch bệnh thời Minh
Tác động đáng kể nhất của dịch bệnh
thời Minh là khiến cho nhiều người thiệt
mạng, dẫn tới sự suy giảm dân số và biến
đổi nhân khẩu.
Về tỷ lệ tử vong do dịch bệnh gây ra,
trong đợt dịch bùng phát những năm
1580, ở Định Đào (Sơn Đơng) và Trung
Mưu (Hà Nam) có hơn 1/2 dân số thiệt
mạng. Ở huyện Kỷ (Hà Nam) từ giữa

mùa xuân tới mùa thu có hơn 10.000
người chết. Tại huyện Mạnh Tân “có rất
nhiều trường hợp trong một gia đình
khơng cịn ai sống sót và cả gia tộc bị
xóa sổ bởi bệnh dịch”. Ở huyện Lục An,
có hơn 30.000 người chết vì nạn đói và
dịch bệnh vào năm 1586 (Helen Dustan,
1975: 29). Theo ghi chép của Tân Lạc
huyện chí《 新樂 縣志 》, “đại đầu ôn
dịch vào mùa xuân hạ năm Vạn Lịch thứ
10 (1582), dân chết 4/10”. Số người chết
vì dịch bệnh ở hai tỉnh Hà Bắc và Sơn Tây
có thể lên tới 7 triệu (曹树基, 1997: 30-31).
Tào Thụ Cơ ước tính tỷ lệ tử vong ở ba
tỉnh Hoa Bắc là Sơn Tây, Hà Bắc và Hà

61


LƯ VĨ AN

Nam trong trận dịch các năm 1587-1588 là
từ 40 đến 50%, số người chết khoảng 7,8
triệu người, khiến cho dân số ba tỉnh Hoa
Bắc giảm từ 25,6 triệu (năm Vạn Lịch thứ
8) xuống còn 12,8 triệu người sau năm
1588. (曹树基, 1997: 31).
Đối với đợt dịch những năm 1640,
chẳng hạn trong trận dịch năm 1641, tỷ lệ
tử vong ước đốn từ 20-40% dân số.

Riêng ở tỉnh Chiết Giang có từ 80 - 90%
số hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi dịch
bệnh. Các tài liệu đương thời cho biết
thiệt hại nhân mạng bởi dịch bệnh là
không thể đếm được, người chết vô số
(J.N. Hays, 2005: 113). Trần Kỳ Đức
chép trong tác phẩm Tai hoang ký sự
《災荒記事》vào năm 1641 như sau:
“Nếu khơng phải vì loạn lạc thì một
người sẽ chết vì đói. Nếu khơng chết vì
đói, họ cũng sẽ chết vì dịch bệnh” (Marta
E. Hanson, 1997: 110). Các báo cáo từ
những địa phương cụ thể có thể cho thấy
mức độ nghiêm trọng của trận dịch bệnh.
Ví dụ ở huyện Vũ (Tơ Châu), năm 1641
bệnh kiết lỵ đã giết chết 70% số người
bệnh. Thi thể của các nạn nhân được thu
gom mỗi ngày trong suốt bốn tháng đến
mùa đơng năm đó và nó được xem là
thảm họa tồi tệ nhất lịch sử kể từ thế kỷ
XII (Angela Ki Che Leung, 1987: 142).
Trong trận bệnh dịch hạch từ tháng 8-12
năm 1643, ước tính có tới 1/5 dân số của
Bắc Kinh thiệt mạng. Theo Minh sử kỷ sự
bản mạt《明史紀事本末》do Cốc Ưng

62

Thái soạn thì trong trận dịch năm 1643
dân số ở Bắc Kinh bị tổn thất đáng kể. Ở

Từ Châu (Nam Trực Lệ) số người chết
mà khơng có quan tài chơn cất là nhiều
vơ số. Ở Thương Thủy (Hà Nam) “vào
tháng 6, có rất ít dấu hiệu cho thấy sự
sống của con người, tất cả những gì nghe
thấy được trên đường phố là tiếng vo ve
của ruồi” (Helen Dustan, 1975: 30). Một
số nghiên cứu cho rằng số người chết vì
bệnh dịch hạch vào những năm cuối khi
nhà Minh diệt vong ở mức 10 triệu người
(Qiu Hua Li, 2020: 138). Tỷ lệ tử vong
do dịch bệnh gây ra ở tỉnh Sơn Tây vào
năm 1644 ở mức từ 80% hoặc 90% (J.N.
Hays, 2005: 114). Đó là một tỷ lệ rất cao,
chưa từng được biết tới trong lịch sử dịch
tễ học (Helen Dustan, 1975: 31). Dịch
bệnh rõ ràng đã tác động rất lớn đến sự
biến đổi nhân khẩu của Trung Quốc thời
Minh cả về mức độ lẫn tính lâu dài.
Bên cạnh mặt nhân khẩu, dịch bệnh
còn gây ra những tác động đáng kể khác
trên phương diện kinh tế - xã hội, chính
trị - quân sự và tâm lý xã hội. Trước tiên,
dịch bệnh tác động đến nền kinh tế. Việc
dân số bị giảm mạnh do dịch bệnh, nạn
đói và biến loạn xã hội đã dẫn tới tình
trạng thiếu hụt lao động và làm giảm
năng suất sản xuất của xã hội, tàn phá
kinh tế. Giá lương thực tăng cao chính là
biểu hiện của sự bất ổn kinh tế do dịch

bệnh gây ra. Ví dụ, năm Sùng Trinh thứ
14 (1641), tại Giang Nam xảy ra dịch
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020


Dịch bệnh ở Trung Quốc thời Minh…

bệnh khiến “người chết quá nửa, giá
lương thực tăng gấp hai hoặc bốn lần,
việc vận chuyển bị đình trệ” (陳旭, 2016:
138). Kế đến, dịch bệnh tác động tới đời
sống chính trị, khiến cho bộ máy nhà
nước bị tê liệt hoặc rơi vào khủng hoảng.
Như bao dân thường, các quan lại triều
đình và quý tộc cũng khơng thốt khỏi
việc bị lây nhiễm hoặc tử vong do dịch
bệnh. Ngoài ra, dịch bệnh cũng tác động
tiêu cực tới tổ chức quân đội của nhà
Minh. Dân số giảm mạnh do dịch bệnh
khiến tiềm lực quốc phòng bị suy yếu bởi
việc tuyển qn bị đình trệ hoặc khơng
thể tuyển đủ quân (张丽芬, 2005: 80).
Hơn nữa, dịch bệnh còn lây lan trong
binh lính, gây ra những tổn thất lớn.
Chẳng hạn, tháng bảy năm Thiên Khải
thứ ba (1623), Tổng đốc Xuyên Hồ là
Chu Bích Ngun trình báo qn lính gặp
phải những khó khăn và tổn thất do dịch
bệnh thình lình giáng xuống, số quân chết
bệnh như rừng. Minh sử cũng chép năm

Sùng Trinh thứ 8 (1635), quân do tướng
Vưu Thế Uy chỉ huy gặp phải dịch bệnh,
dẫn đến việc bị thua trận, bản thân Vưu
Thế Uy bị bãi chức (陳旭, 2016: 142143). Khi quân khởi nghĩa của Lý Tự
Thành tiến vào Bắc Kinh, quân nhà Minh
trong thành bị cách ly bởi dịch bệnh, hơn
một nửa trong số họ đã chết, thậm chí chỉ
cịn khoảng một vạn binh lính phịng ngự
kinh thành. Hằng ngày, binh lính, người
bán rong và người lao động chết lũ lượt,
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020

trong kinh thành khơng cịn cả người
hành khất (Qiu Hua Li, 2020: 141).
4. Biện pháp ứng phó với dịch bệnh
thời Minh
Trước tình hình thiên tai dịch bệnh
xảy ra thường xuyên, nhà Minh đã đề ra
những biện pháp ứng phó nhất định, bao
gồm các biện pháp cứu trợ trong dịch
bệnh và biện pháp khắc phục hậu quả sau
dịch bệnh.
Về các biện pháp cứu trợ, trước lúc
xảy ra dịch bệnh, việc hoàn thiện bộ máy
y tế đóng vai trị quan trọng trong ứng
phó với dịch bệnh một khi nó bùng phát.
Thái Y viện, Y học cục và Huệ dân dược
cục là các bộ phận cấu thành hệ thống y
tế của triều Minh (陳旭, 2016: 70). Trong
đó, Thái Y viện giữ trách nhiệm trọng

yếu trong việc nghị sự của triều đình
nhằm ứng phó với dịch bệnh khi nó xảy
ra. Nhà Minh cũng cho thiết lập các y
quán trong cả nước, tuy nhiên vào cuối
thời Minh, các bộ phận này thường hoạt
động không hiệu quả do sự trì trệ của bộ
máy quan liêu và nguồn nhân sự cũng
không đủ năng lực đáp ứng (J.N. Hays,
2005: 115).
Khi xảy ra dịch bệnh, chính quyền địa
phương nơi có bệnh dịch cấp báo với
triều đình. Từ đó triều đình ban hành các
biện pháp ứng phó bao gồm phân bổ
ngân quỹ và cử các thái y đến xem xét
tình hình bệnh dịch, chẩn đốn, chữa trị

63


LƯ VĨ AN

và cấp phát thuốc để giúp đỡ người dân
bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Triều đình
cịn cho thiết lập một số y quán đặc biệt
để tiếp nhận bệnh nhân vơ gia cư và
tuyển chọn các thái y có tay nghề cao để
chăm sóc cho người bệnh. Ví dụ, vào
năm 1581 ở huyện Giao Thành, tỉnh Sơn
Tây xảy ra dịch bệnh. Các y sinh của
Thái Y viện đã được triều đình cử đến để

chữa trị cho người bệnh (Qiu Hua Li,
2020: 141). Tháng 5 năm Vạn Lịch thứ
15 (1587), dịch bệnh lưu hành ở Bắc
Kinh, Minh Thần Tông đã ra lệnh cho
các y sinh có năng lực của Thái Y viện
đến chữa trị và cấp thuốc cho người bệnh,
đồng thời lệnh cho bộ Hộ xuất ngân
lượng, cấp cho mỗi hộ gia đình 6 phân
tiền (陳旭, 2016: 76). Đồng thời, triều
đình nhà Minh cũng cấp tiền mua thuốc
cho người dân. Theo ghi chép của Minh
thực lục, trong trận dịch tháng 5 năm
1587, nhà Minh đã cấp phát thuốc cho
109.590 người và phát tiền mua thuốc
cho 10.699 người (Angela Ki Che Leung,
1987: 141). Còn trong trận dịch ở Bắc
Kinh năm Sùng Trinh thứ 16 (1643) từ
tháng hai đến tháng bảy, triều đình đã
tiêu tốn khoảng 1000 lượng bạc để trợ
cấp cho Thái Y viện trong việc cứu chữa
người bệnh (陳旭, 2016: 74).

bệnh dịch rất quan trọng bởi số lượng
người chết trong dịch bệnh rất lớn, các thi
thể nếu không được chôn cất kịp thời sẽ bị
phân hủy và sự sinh sôi của ruồi muỗi ở
môi trường xung quanh sẽ làm trầm trọng
thêm tình hình lây lan của dịch bệnh. Ví
dụ, trong trận dịch ở Bắc Kinh tháng 5
năm Vạn Lịch thứ 15 (1587), số tiền

được dùng cho việc xử lý và chôn cất
người chết bệnh lên đến 2 vạn lượng, gấp
20 lần số tiền chi cho việc chữa trị
(Angela Ki Che Leung, 1987: 142).

Bên cạnh việc chữa trị, cấp thuốc men
và cấp tiền mua thuốc, triều đình nhà
Minh cịn cấp tiền tuất hỗ trợ chôn cất
người chết. Việc chôn cất người chết vì

Về các biện pháp khắc phục hậu quả,
khi có dịch bệnh, đặc biệt là dịch bệnh
bùng phát đồng thời với hàng loạt thiên
tai khác khiến hoạt động sản xuất bị đình

64

Ngồi các biện pháp ứng phó thực tế
về mặt y học, người Trung Quốc thời bấy
giờ còn tổ chức cầu đảo, cúng tế, lập lễ
kỳ yên nhằm khẩn cầu sự ban phước và
thương xót của các đấng siêu nhiên trước
tai dịch, mong dịch bệnh được kiểm sốt.
Nó phản ánh quan niệm của người dân
đương thời về dịch bệnh xuất phát từ sự
suy đồi của nền tảng đạo đức xã hội và cần
phải có sự khẩn cầu để dịch bệnh chóng
qua (J.N. Hays, 2005: 117). Mặt khác việc
cầu đảo, cúng tế cũng đóng vai trị là chỗ
dựa tinh thần của xã hội thời Minh khi

phải đối mặt với dịch bệnh (张献忠、朱
候渝, 2020: 24). Ví dụ, vào năm 1641
khi xảy ra dịch bệnh, triều đình nhà Minh
đã tổ chức lễ cầu đảo, cúng tế tại các đạo
tràng (Helen Dustan, 1975: 33).

Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020


Dịch bệnh ở Trung Quốc thời Minh…

trệ và đời sống xã hội bị ảnh hưởng. Để
duy trì sự ổn định của kinh tế - xã hội,
nhà Minh đã áp dụng nhiều biện pháp
khắc phục hậu quả dịch bệnh như miễn,
giảm thuế, sưu dịch, nha dịch và tuyển
duyệt quân lính ở các địa phương; ngăn
ngừa thổ phỉ trong vùng dịch và chiêu mộ
lưu dân tái thiết sản xuất (陳旭, 2016:
84). Về việc miễn, giảm thuế cho người
dân vùng dịch, tháng 7 năm Vạn Lịch thứ
21 (1593), Tuần phủ Hà Nam là Triệu
Thế Khanh tấu rằng huyện Hoạch Gia,
phủ Vệ Huy bị tai dịch từ năm Vạn Lịch
thứ 7 (1579), khiến cho hơn một nửa số
hộ bỏ đi nơi khác. Bộ Hộ đã kiến nghị
miễn số thuế là 618 thạch cho 144
khoảnh 53 mẫu đất ở huyện ấy (陳旭,
2016: 87). Nhà Minh cịn tha bổng tội
phạm, giảm nhẹ hình ngục để tránh lây

lan và giảm thiểu mức độ dịch bệnh trong
ngục thất. Năm 1643, khi bệnh dịch bùng
phát ở Bắc Kinh, triều đình đã cho phóng
thích những tên tội phạm nhẹ để tránh tù
túng (Qiu Hua Li, 2020: 141).
Ngoài ra, vào cuối thời Minh do tình
trạng quan liêu và sự đổ nát của bộ máy
nhà nước nên các hoạt động cứu trợ và
khắc phục thiên tai dịch bệnh của triều
đình dần trở nên yếu kém, khơng cịn
hiệu quả. Sự tham gia của các tổ chức từ
thiện tư nhân đã tăng lên trong thời kỳ
dịch bệnh xảy ra và nó đã giữ vai trò
quan trọng trong việc cứu trợ dịch bệnh.
Các quan viên, hào phú địa phương
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020

thường được khuyến khích đóng góp
lương thực, tiền bạc, của cải nhằm đảm
bảo nguồn tài lực cho hoạt động cứu trợ
thiên tai như cấp phát thuốc, cấp phát
cháo và chôn cất người chết (陳旭, 2016:
82) (Sơ đồ 1).
Về các biện pháp ngăn ngừa dịch bệnh,
ngoài những biện pháp cứu trợ và khắc
phục hậu quả dịch bệnh, vào thời Minh
các biện pháp cách ly, ngăn ngừa dịch
bệnh và tìm kiếm phương thuốc, cách
thức chữa trị bệnh dịch cũng được quan
tâm. Về các biện pháp cách ly nhằm ngăn

chặn sự lây lan của dịch bệnh, Tiêu Đại
Hanh trong tác phẩm Di tục ký (còn gọi
là Bắc lỗ phong tục, viết năm 1594) chép
rằng: “Người mắc bệnh truyền nhiễm nên
được cách ly khỏi cha mẹ, anh em, vợ,
chồng và con cái của họ” (Qiu Hua Li,
2020: 140). Trong sách Bản thảo cương
mục (1578) của danh y Lý Thời Trân có
chỉ dẫn về việc quần áo của người nhiễm
bệnh cần được tẩy độc ở nhiệt độ cao để
giảm khả năng lây nhiễm trong gia đình
người mắc dịch bệnh. Minh thực lục cũng
chép rằng vào cuối thời Minh có một
viên quan ở Phúc Kiến đã phát minh ra
liệu pháp phóng huyết (thủ thuật mở tĩnh
mạch) để điều trị bệnh dịch hạch. Gần
10.000 người đã được điều trị bằng liệu
pháp này vào thời gian đó. Trong Cảnh
nhạc tồn thư (1624) của Trương Giới
Tân thì ghi chép về công dụng của “bánh
trà Phúc Kiến” trong việc giúp khử trùng

65


LƯ VĨ AN

miệng và ngăn ngừa bệnh lây qua đường
miệng (Qiu Hua Li, 2020: 141). Ngơ Hựu
Tính trong Ơn dịch luận tập trung vào

bản chất lây nhiễm của dịch bệnh. Ông
chỉ ra bệnh dịch hạch có thể lây truyền
qua đường hô hấp nên nhấn mạnh đến
việc cách ly bệnh nhân và điều chế ra
một phương thuốc điều trị dịch hạch khá

hiệu quả gọi là thuốc sắc “đạt viên ẩm”
《達垣饮》. Sau khi dùng thuốc này từ 3
đến 10 ngày, các triệu chứng nặng của
bệnh sẽ giảm bớt. Y học hiện đại đã xác
nhận rằng phương thuốc này có tác dụng
tốt trong điều trị một số bệnh truyền
nhiễm cấp tính như sốt thương hàn, sốt
rét và cúm (Qiu Hua Li, 2020: 142).

Sơ đồ 1: Các biện pháp ứng phó với dịch bệnh thời Minh
Dịch bệnh bùng phát
Các biện pháp ứng phó
của triều đình

Ban hành lệnh và biện
pháp hành chính

Các biện pháp ứng phó của
người dân

Hỗ trợ y tế lẫn nhau dựa
trên quan hệ huyết thống

Cấp phát lương thực và

thuốc men

Sự giúp đỡ của hào phú
và các tổ chức từ thiện

Cầu đảo, cúng tế

Cấp phát thuốc

Cấp phát cháo
Cách ly người nhiễm bệnh
và chôn cất người chết

Khen thưởng hoặc xử phạt
quan lại và thầy thuốc

Phát chẩn

Chôn cất người chết và
nhận nuôi cô nhi

Nguồn: Qiu Hua Li - Yue Hai Ma - Ning Wang - Ying Hu - Zhao Zhe Liu, 2020, “Overview
of the Plague in the Late Ming Dynasty and Its Prevetion and Control Measures.

Kết luận
Dịch bệnh là thiên tai thường xuyên
xảy ra và biến đổi cùng tiến trình lịch sử
nhân loại. Chúng khơng chỉ đơn thuần là
vấn đề về sức khỏe, bệnh tật hay miễn
dịch sinh học của cơ thể con người mà


66

còn là thách thức khơng ngừng đối với xã
hội lồi người, các dân tộc, các chính phủ
và các nền văn minh trong lịch sử. Dịch
bệnh tác động đến mọi mặt của kinh tế,
xã hội, chính trị, qn sự và văn hóa. Nó
làm thay đổi cách thức vận hành bộ máy
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020


Dịch bệnh ở Trung Quốc thời Minh…

nhà nước, lối sống xã hội, phong tục tập
qn, thậm chí đơi khi quyết định cả vận
mệnh của một cộng đồng, một triều đại
hay một nền văn minh. Nhà Minh là một
trong những triều đại của Trung Quốc
thường phải đối mặt với nhiều thiên tai,
gồm có dịch bệnh. Sự xuất hiện đồng thời
của hàng loạt thiên tai bên cạnh dịch
bệnh đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến
trật tự kinh tế và xã hội thời Minh. Nó đã
góp phần dẫn đến sự sụp đổ của nhà
Minh vào năm 1644. Rõ ràng, dịch bệnh
đã đóng vai trò là một trong những
nguyên nhân của sự thay đổi chính trị ở
Trung Quốc thời Minh. Việc tìm hiểu
thiên tai, dịch bệnh thời Minh cũng như

các biện pháp ứng phó của nhà Minh
trước thiên tai dịch bệnh sẽ để lại những
bài học giá trị cho các chính phủ và xã
hội tiếp theo.

CHÚ THÍCH:

(1) Điều kiện cần cho sự bùng phát và lưu

lịch sử Trung Quốc. Xem: 井村哮全, 19361937, 地方志に記載せられたる中國疫癘
略 考 , 中 外 醫 事 新 報 (Imura Kozen,
“Chihoshi ni kisaiseraretaru Chugoku ekirei
ryakko”, Chugai iji shimpo) (Imura Kozen,
“Brief Study of Records of Chinese
Epidemics in Local Histories”, New Journal
of Chinese and Foreign Medicine). Trong
những năm 1970 và 1980, các nhà sử học
phương Tây như Mark Elvin, Denis C.
Twichett, Robert Hartwell, Carney Fisher,
Susan Naquin và Evelyn S. Rawski cũng bắt
đầu nghiên cứu về mối liên hệ giữa dịch
bệnh với nhân khẩu học của Trung Quốc qua
các triều đại Đường, Tống, Minh, Thanh. Có
thể tham khảo: Robert Hartwell, 1967, “A
Cycle of Economic Change in Imperial
China: Coal and Iron in Northeast China,
750-1350”, Journal of the Economic and
Social History of the Orient, No. 10, 102-159.
Mark Elvin, 1973, The Pattern of the
Chinese Past: A Social and Economic

Interpretation, Stanford: Stanford University
Press. Susan Naquin and Evelyn S. Rawski,
1987, Chinese Society in the Eighteenth
Century, New Haven: Yale University Press.
Carney Fisher, 1988, “Smallpox, Salesmen,
and Sectarians: Ming-Mongol Relations in
the Jiajing Reign (1522-1567)”, Ming Studies,
No. 25, 1-23.

hành của các bệnh dịch là những cộng đồng
dân cư có quy mơ từ 100.000 đến 200.000
người trở lên. Do có dân số đơng và mật độ
dân cư dày đặc nên trong lịch sử ở Trung
(3) Về tác động của biến đổi khí hậu và
Quốc thường xuyên xảy ra các trận dịch bệnh. thiên tai đối với nhà Minh, có thể xem lại bài
(2) Ngay từ những năm 1936-1937, một viết “Ảnh hưởng của khí hậu và thiên tai đối
học giả người Nhật là Imura Kozen đã xuất với sự sụp đổ của nhà Minh”, đăng trên Tạp
bản chun luận cơng phu gồm 8 phần chí Nghiên cứu Trung Quốc số 8 (204), năm
nghiên cứu về dịch bệnh trong xuyên suốt 2018, tr. 54-66.
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020

67


LƯ VĨ AN

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1.

Angela


Ki

Che

to the Nineteenth Century, Ph.D Dissertation,

Leung,

1987,

Organized Medicine in Ming-Qing China:
State and Private Medical Institutions in the
Lower Yangzi Region, Late Imperial China,
Vol. 8, No. 1, June, 134-166.
2.

Harry F. Lee - Jie Fei - Christopher

Y.S. Chan - Qing Pei - Xin Jia - Ricci P.H.
Yue, 2017, Climate Change and Epidemics
in Chinese History: A Multi-scalar Analysis,
Social Science and Medicine, Vol. 174, 5363.
3.

Helen Dustan, 1975, The Late Ming

Epidemics: A Preliminary Survey, Ch’ingshih wen-t’i, Vol. 3, No. 3, November, 1-59.
4.


Huidong Tian - Chuan Yan - Lei Xu

- Ulf Büntgen - Nils C. Stenseth - Zhibin
Zhang,

2017,

Scale-dependent

Climatic

Drivers of Human Epidemics in Ancient
China, Proceedings of the National Academy
of Sciences of the United States of America,
Vol. 114, No. 49, December 5, 12970-12975.
5.

J.N. Hays, 2005, Epidemics and

Pandemics:

Their

Impacts

on

Human

History, California: ABC-CLIO.

6.

Kerrie L. Macpherson, 2002, A

Wilderness of Marshes: The Origins of
Public Health in Shanghai, 1843-1893,
Lanham: Lexington Books.
7.

Marta E. Hanson, 1997, Inventing a

Tradition
Universal

in

Chinese

Canon

to

Medicine:
Local

From

Medical

Knowledge in South China, the Seventeenth


68

University of Pennsylvania.
8.

Qiu Hua Li - Yue Hai Ma - Ning

Wang - Ying Hu - Zhao Zhe Liu, 2020,
Overview of the Plague in the Late Ming
Dynasty and Its Prevetion and Control
Measures, Traditional Medicine Research,
Vol. 5, Issue 3, 136-144.
9.

Qing Pei - David D. Zhang -

Guodong Li - Bruce Winterhalder - Harry F.
Lee, 2015, Epidemics in Ming and Qing
China: Impacts of Changes of Climate and
Economic Well-being, Social Science and
Medicine, Vol. 136-137, 73-80.
10. William H. McNeill, 1976, Plagues

and Peoples, New York: Anchor Books.
11. 刘翠溶,2006 年,《中国环境史研

究刍 议》,南开学报 (哲学社会科学版),
第 2 期, 14-21 页。
12. 张丽芬,2005 年,《明代华北瘟疫


成因探析》,忻州师范学院学报,第 21
卷, 第 6 期,页 78-80。
13. 张志斌,2007 年,中国古代疫病流

行年表,福州:福建科学技术出版社。
14. 张献忠、朱候渝,2020 年,《晚明

疫病的流行和瘟疫理论的新发展》,济南大
学学报(社会科学版),第 30 卷,第 2
期,页 19-28。
15. 曹树基,1997 年,《鼠疫流行与华

北社会的变迁(1580-1644 年)》,历史研
究,第 1 期,页 17-32。
16. 陳 旭 , 2016 年, 明代瘟 疫 与明 代

社,成都:西南财经大学出版社。
Nghiªn cøu Trung Quèc sè 11 (231) – 2020



×