Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

sơ lược về ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.46 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế, nhu cầu về vốn đầu tư và các nguồn liên tiết kiệm có thể
phát sinh từ những chủ thể khác nhau. Những người có cơ hội sinh lời thì thiếu vốn,
trái lại những người có vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội đầu tư. Vì vậy, cần phải có
một cơ chế chuyển vốn từ những nơi có vốn dư thừa đến những nơi đang cần vốn.
Việc đi vay, cho vay và góp vốn này được thực hiện qua các trung gian tài chính như:
ngân hàng, các tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và cho vay, các công ty bảo hiểm hay
các tổ chức trung gian đầu tư…các trung gian tài chính đều đóng vai trò cầu nối giữa
hai bên đi vay và cho vay, cầu nối giữa công ty và nhà đầu tư. Do đó, chức năng của
những tổ chức này rất quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế. Trong các loại hình
tổ chức trung gian tài chính thì Ngân hang thương mại có hoạt động gần gũi nhất với
người dân và thị trường tài chính. Mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù
họ là khách hàng gửi tiền, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một
doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Cũng giống như các tổ
chức tài chính khác, ngân hàng thương mại luôn phải kinh doanh bằng tiền của người
khác và chính điều ấy, ất kỳ một sự sụp đổ nào của bất kỳ một ngân hàng thương mại
nào, thông thường nếu không có những biện pháp xử lí thông minh và khéo léo đều có
thể lây lan, mà hậu quả là sự sụp đổ của hàng loạt ngân hàng gây thiệt hại lớn.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính có giới hạn hoạt động rộng lớn và
đa dạng (với chức năng cơ bản liên quan đến), là doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm
dịch vụ tài chính đa dạng đối với tất cả các chủ thể kinh tế. Với chức năng và dịch vụ
trên, ngân hàng trở thành” cửa hàng bách hóa tổng hợp các hoạt động tài chính”. Để
tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại phải không ngừng hoàn thiện hoạt
động kinh doanh của mình, nâng cao chất lượng quản trị nhằm đạt mục đích cuối cùng
là tối đa hóa lợi nhuận
Trang 1
SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Lý thuyết chung về Ngân Hàng Thương Mại
1.1. Khái niệm.
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty, xí
nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân, bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử dụng


số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng
dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên.
1.2. Bản chất.
- Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt và là môt đơn vị kinh tế
kinh doanh trong ngành dịch vụ tài chính ngân hàng.
- Hoạt động của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh. Để hoạt động kinh
doanh, các ngân hàng phải có:
 Vốn
 Phải tự chủ về tài chính
 Mục tiêu cuối cùng phải đạt được là lợi nhuận
- Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng.
1.3. Phân loại.
Dựa vào hình thức sở hữu :
- Ngân hàng sở hữu tư nhân: là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của chính họ.
Tại Việt Nam chưa có loại hình này.
- Ngân hàng sở hữu nhà nước: là ngân hàng mà vốn sở hữu do nhà nước cấp.
- Ngân hàng cổ phần: là loại hình ngân hàng được thành lập dưới hình thức công ty cổ
phần, trong đó các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế xã hội và
các cá nhân cùng góp vốn kinh doanh.
- Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của hai hay nhiều
bên. Ở Việt Nam, loại hình này thường được thực hiện giữa ngân hàng trong nước với
ngân hàng nước ngoài để tận dụng các ưu thế của nhau.
Trang 2
Dựa vào chiến lược kinh doanh:
- Ngân hàng bán buôn: là ngân hàng chỉ giao dịch và cung ứng dịch vụ cho đối tượng
khách hàng tập đoàn, công ty chứ không giao dịch với khách hàng cá nhân.
- Ngân hàng bán lẻ: là loại ngân hàng giao dịch và cung ứng dịch vụ cho đối tượng
khách hàng cá nhân.
- Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ: là loại ngân hàng giao dịch và cung ứng dịch vụ

cho cả khách hàng công ty và khách hàng cá nhân. Hầu hết các ngân hàng thương mại
Việt Nam đều thuộc loại hình ngân hàng này.
1.4. Chức năng.
Chức năng trung gian tín dụng:
- Ngân hàng huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền
kinh tế để tạo lập nguồn vốn cho vay và sử dụng nguồn vốn đó cho vay đáp ứng các
nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của các chủ thể khác trong nền kinh tế. Như
vậy” ngân hàng vừa mua tiền lại vừa bán tiền” phần tiền chênh lệch giữa giá “bán” và
giá “mua” chính là bộ phận lớn trong lợi nhuận của ngân hàng thương mại.
- Chức năng này có ý nghĩa giúp điều hòa vốn tiền tệ từ nơi tạo dư thừa đến nơi tạm thời
thiếu hụt làm giảm tối đa lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, góp phần thúc đẩy nhanh
quá trình vận động của vốn tiền tệ trong xã hội. Đối với ngân hàng thương mại, chức
năng này sẽ là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển, tạo nguồn vốn để ngân hàng thương
mại kinh doanh và tăng thu lợi nhuận, đồng thời là cơ sở để ngân hàng thương mại tạo
“bút tệ”.
- Đối với khách hàng gửi tiền, vừa giúp cho vốn nhàn rỗi tăng khả năng sinh lời lại vừa
đảm bảo an toàn vốn. Đối với khách hàng vay tiền, vừa kịp thời thỏa mãn nhu cầu về
vốn tạm thời thiếu hụt trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và tiêu dùng, lại vừa tiết
kiệm chi phí, thời gian tìm kiếm nguồn vốn tiện lợi, an toàn và hợp pháp.
Chức năng trung gian thanh toán:
- Trên cơ sở những hoạt động đi vay để cho vay, NHTM (ngân hàng thương mại) đã
cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Thay cho việc thanh toán trực tiếp,
các doanh nghiệp, cá nhân có thể nhờ NHTM thực hiện những công việc này dựa trên
những khoản tiền họ đã gửi ở ngân hàng, thông qua việc mang tiền của người phải trả
chuyển cho người được hưởng bằng nhiều hình thức khác nhau với kỹ thuật ngày càng
tiên tiến và thủ tục ngày càng đơn giản.
- Chức năng này có ý nghĩa với nền kinh tế vì đã tạo điều kiện thuận lợi giúp khách
hàng thanh toán nhanh chóng, hiệu quả và an toàn. Từ đó, đẩy nhanh quá trình lưu
thông hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trang 3

- Chức năng trên là tiến đề và cơ sở để các NHTM tạo ra tiền ghi sổ, góp phần tăng quy
mô tín dụng cho nền kinh tế, vừa tiết kiệm tiền mặt lưu thông dẫn đến tiết kiệm chi phí
lưu thông tiền tệ. Lại vừa tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều dịch vụ ngân hàng khác
phát triển. Mặt khác chức năng thanh toán sẽ làm tăng uy tín của ngân hàng lên thông
qua các dịch vụ được khuếch trương.
Chức năng tạo tiền:
- Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in thêm tiền và phát hành tiền mới
của Ngân hàng Nhà nước. Bản thân các ngân hàng thương mại trong quá trình thực
hiện các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể
hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây
chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch.
- Từ khoản tích trữ ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống
ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần
số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền
gửi. Hệ số này đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự
trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của.
- Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân hàng thương
mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian
tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại
được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao
dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ
thống ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh
tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền
giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW phát hành mà còn bao gồm một bộ phận
quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo ra. Chức năng này
cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng
tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả năng tạo tiền của ngân
hàng thương mại, từ đó làm tăng lương tiền cung ứng.
Trang 4

2. Hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại.
1.5. Hoạt động tạo lập nguồn vốn.
- Huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội:
Đây là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của NHTM. Nó tạo ra
nguồn vốn chủ lực trong kinh doanh của bất kỳ NHTM nào. NHTM thường huy động
vốn nhàn rỗi qua các hình thức: Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín
dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi
khác.
- Huy động vốn thông qua các chứng từ có giá:
Đây là việc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để
huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước. Trong hình thức huy
động này, ngân hàng chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội nhằm bổ sung nguồn
vốn kinh doanh của ngân hàng.
- Nguồn vốn đi vay của ngân hàng khác:
Đây là nguồn vốn được hình thành bởi các mối quan hệ giữa các tổ chức tín
dụng với nhau, hoặc giữa các tổ chức tín dụng với NHTW như: vay vốn của các tổ
chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín dụng nước ngoài;
Vay vốn ngắn hạn của ngân hàng Nhà nước.
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của ngân hàng Nhà nước.
- Vốn tự có:
Nguồn vốn này bao gồm giá trị thực có của của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và
một số tài sản nợ khác theo quy định của NHTW. Xét về đặc điểm, nguồn vốn này
chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng số nguồn vốn kinh doanh của một ngân hàng vì nó là cơ
sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo sự uy tín của ngân hàng đối với
khách hàng. Đồng thời, vốn tự có là cơ sở để xác định hệ số an toàn trong kinh doanh
ngân hàng.
Trang 5
Hoạt động sử dụng và khai thác nguồn vốn
Sử dụng và khai thác nguồn vốn là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của
NHTM.

 Hướng cơ bản của hoạt đông này là cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Cho vay ngắn hạn là cho vay có thời hạn dưới 12 tháng. Đây là loại vay phổ iến
của NHTM nhằm bổ sung vốn tạm thời thiếu hụt của các doanh nghiệp, dân cư.
Cho vay trung và dài hạn của NHTM là loại cho vay được thực hiện đối với
những chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội có thời hạn từ 12 tháng trở lên.
Loại cho vay này ngày càng được NHTM quan tâm. Một mặt chúng đáp ứng yêu cầu
vay vốn trung và dài hạn của xã hội để mở mang nghành sản xuât – kinh doanh, đầu tư
và xây dựng cơ bản. Mặt khác chúng cũng phù hợp với khả năng huy động vốn ngày
càng nhiều của NHTM
 Hoạt động đầu tư chứng khoán.
Giúp sử dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động. Tăng cường khả
năng thanh toán cho dự trữ của NHTM và mang lại nguồn thu nhập cho NHTM.
 Hoạt động ngân quỹ.
Phục vụ chi trả đối với khách hàng. Mặc dù hoạt động ngân quỹ là hoạt động
không sinh lời, nhưng lại rất quan trọng đối với NHTM bởi nó góp phần tăng cường
khả năng thanh toán và chi trả đối với khách hàng.
Các hoạt động khác.
Đây là những hoạt động được thực hiện theo sự ủy thác của khách hàng: Thanh
toán hộ tiền hàng, dịch vụ quản lý tài sản, cung cấp thông tin và tư vấn về kinh doanh,
đầu tư và quản trị doanh nghiệp. Những hoạt động này có ý nghĩa quan trọng trong
việc mở rộng hoạt động tạo lập nguồn vốn kinh doanh, nâng cao hiệu quả của việc
khai thác và sử dung vốn.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM
Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụ
Ngày nay, các ngân hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính
mà họ cung cấp cho khách hàng. Quá trình mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ đã
tăng tốc trong những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài
chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công
nghệ.
Trang 6

Sự gia tăng cạnh tranh
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên quyết liệt
khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ. Các
ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ
tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang
phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng,
ngân hàng đầu tư Merrill Lynch, các công ty tài chính như GE Capital và các tổ chức
bảo hiểm như Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự
phát triển dịch vụ cho tương lai.
Sự gia tăng chi phí vốn
Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí trung
bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với sự nới lỏng
các luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định cho phần
lớn tiền gửi. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu
nhiều hơn – một nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc
họ phải tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay thế
các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các ngân hàng cũng buộc
phải tìm các nguồn vốn mới như chứng khoán hóa một số tài sản, theo đó một số
khoản cho vay của ngân hàng được tập hợp lại và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán;
các chứng khoán được đảm bảo bằng các món vay được bán trên thị trường mở nhằm
huy động vốn mới một cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo
ra một khoản thu phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền
thống (như tiền gửi).
Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất
Các qui định của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng
khả năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới
làm cho các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ
USD trước đây được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản
giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập
cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi theo điều kiện thị trường. Ngân

hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có giáo dục
hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi “trung thành” của họ có thể dễ tăng
cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và
nhạy cảm hơn với ý thích thay đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm.
Trang 7
Cách mạng trong công nghệ ngân hàng
Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã
và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ
thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc nhận tiền gửi, thanh toán
bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút tiền tự động
ATM, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; máy thanh
toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm bán hàng thay thế cho các
phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy; và hệ thống máy vi tính hiện đại
xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới.
4. Vai trò của Ngân Hàng Thương Mại
- NHTM giúp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng
cao hiệu quả kinh doanh.
- Các ngân hàng thương mại một mặt góp phần hình thành, duy trì và phát triển nền
kinh tế theo một cơ cấu ngành và khu vực nhất định. Mặt khác, các NHTM góp phần
điều chỉnh ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát triển mất cân đối hoặc khi cần có sự
thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. NHTM tạo ra môi trường cho việc
thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW.
- NHTM làm cầu nối giữa NHTW với nền kinh tế để thực hiện các chính sách tiền tệ.
- NHTM phục vụ cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia.
5. Các nghiệp vụ của Ngân Hàng Thương Mại
Nghiệp vụ tạo vốn - Nghiệp vụ nợ:
Là nghiệp vụ dùng để hình thành nguồn vốn của NHTM. Nguồn vốn của
NHTM gồm: vốn chủ sở hữu (vốn tự có), vốn huy động và vốn vay
 Vốn chủ sở hữu:
Trước hết mỗi ngân hàng phải có một số vốn tự có làm điều kiện hình thành và

duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Số vốn tự do này thường chiếm tỉ trọng nhỏ
trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Vốn tự có gồm:
- Vốn điều lệ: Là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu đóng góp, vốn điều lệ phải
lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định. Vốn điều lệ phụ thuộc vào hình thức sở hữu của
ngân hàng, nếu là: ngân hàng tư nhân thì đó là vốn riêng của một doanh nghiệp đầu tư,
với ngân hàng cổ phần thì vốn điều lệ được hình thành do phát hành cổ phiếu, nếu
ngân hàng quốc doanh thì toàn bộ do ngân sách nhà nước cấp. Vốn điều lệ quy định
cho một ngân hàng nhiều hay ít tùy thuọc vào quy mô và phạm vi hoạt động của nó.
Vốn này chủ yếu được dùng để mua sắm động sản và bất động sản, phát triển kỹ thuật
Trang 8
nghiệp vụ ngân hàng, hùn vốn liên doanh, cho vay và mua cổ phần của các tổ chức tín
dụng khác. Pháp lệnh về ngân hàng không cho phép dùng vốn điều lệ để chia lợi tức,
lập quỹ phúc lợi và khen thưởng
- Quỹ ngân hàng bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư và phát triển, quỹ
dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khác….ngoài ra còn có
các quỹ không hình thành từ lợi nhuận ngân hàng như quỹ khấu hao cơ bản tài srn cố
định, quỹ khấu hao sữa chữa lớn, các quỹ khác theo quy định của pháp luật tài chính.
 Vốn huy động:
Là vốn thu hút được qua các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng, nguồn vốn
huy động bao gồm:
- Tiền gửi ngân hàng: NHTM tập trung huy động tiền gửi của các cá nhân, doanh
nghiệp, công ty… để hình thành quỹ cho vay. Tiền gửi NHTM huy động được bao
gồm:
 Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà người sở hữu nó có thể rút ra để sử dụng bất
cứ lúc nào mà không cần phải báo trước về thời hạn và khối lượng tiền cần rút. Loại
này bao gồm các khoản tiền gửi tạm thời của các doanh nghiệp và công ty, các tổ chức
kinh tế…;thuế, lợi nhuận, vốn khấu hao của các doanh nghiệp, công ty, tiền gửi của
các nhà đầu cơ.
Khách hàng gửi tiền loại này không vì mục tiêu lợi nhuận, chủ yếu là để
thực hiện các khoản chi mua hàng hóa, dịch vụ, thực hiện các giao dịch về thanh toán,

chi trả và thực hiện các khoản chi trả khác và để ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi
trong thanh toán.
Tiền gửi không kỳ hạn không ổn định mà biến động thường xuyên.
 Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà chủ sở hữu nó chỉ có thể rút ra và được hưởng
trọn vẹn lợi tức theo thời hạn đã quy địng trước. Tiền gửi có kỳ hạn bao gồm các
khoản tiền gửi của các nhà kinh doanh tiền tệ và của các công ty, doanh nghiệp…
Mục đích gửi tiền có kỳ hạn khác hẳn với tiền gửi không kỳ hạn ở chỗ là
người gửi tiền nhắm đến khả năng sinh lời của tiền tệ, vì vậy đối với loại tiền gửi này
NHTM phải trả lãi suất thỏa đáng cho khách hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định,
NHTM có thể sử dụng một cách chủ động để cho vay.
- Tiền gửi tiết kiệm: là tiền gửi của dân cư, của cá nhân, bao gồm tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Trang 9
 Vốn vay: có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại thuộc
loại này bao gồm:
- Vốn huy động từ việc phát hành các loại kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của
ngân hàng nhằm bổ sung nguồn vốn hoạt động của ngân hàng khi vốn tự có và vốn
tiền gửi chưa đủ đáp ứng yêu cầu kinh doanh.
- Vốn vay của ngân hàng trung ương: khi ngân hàng trung ương nhận cho vay chiết
khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại.
- Vốn vay của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác thông qua thị trường
tiền tệ ngắn hạn. Tại đây, các ngân hàng thiếu tiền thanh toán sẽ vay của các ngân hàng
khác để thanh toán, nghiệp vụ này vừa giúp cho các ngân hàng thiếu tiền có tiền mặt
ngay vừa giúp cho những ngân hàng dư tiền cho vay để sinh lời.
- Vốn vay của các ngân hàng nước ngoài.
Nghiệp vụ sử dụng vốn:
 Nghiệp vụ ngân quỹ:
Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kiếm lời. Song cần phải
bảo đảm an toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có được sự tin cậy

về phía khách hàng, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán làm sao để đáp ứng
được các nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy, các ngân hàng phải để dành một
phần nguồn vốn, không sử dụng nó, để sẵn sàng đánh ứng nhu cầu thanh toán. Phần
vốn để dành này gọi là dự trữ.
Tiền dự trữ của ngân hàng thương mại bao gồm:
- Tiền mặt tại quỹ: bao gồm giấy bạc ngân hàng và tiền kim loại, tùy thuộc vào quy mô
hoạt động của NHTM, nhu cầu thường xuyên cũng như nhu cầu thời vụ của các khoản
chi tiền mặt mà NHTM để tồn quỹ tiền mặt cho hợp lý. Tồn quỹ tiền mặt có khả năng
thanh toán kịp thời nhất, nhưng tiền này không sinh lời cho ngân hàng. Vì vậy NHTM
cần phải tính toán duy trì cho hợp lý.
- Tiền gửi ở ngân hàng Trung ương: theo quy định, ngân hàng thương mại phải mở tài
khoản tại ngân hàng trung ương và gửi vào đó một số tiền nhất định gồm 2 phần:
 Tiền gửi dự trữ bắt buộc:
 Tiền gửi thanh toán:
Trang 10
- Tiền gửi của ngân hàng thương mại tại các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chuyển tiền khác địa phương của khách
hàng, số này cao hay thấp tùy theo mức độ quan hệ với đại lý và số lượng đại lý.
- Tiền đầu tư vào các chứng phiếu có giá trị, những chứng phiếu này có thể bán ra bất cứ
lúc nào trên thị trường chứng khoán. Hoạt động này vừa tạo ra sự an toàn vừa mang lại
lợi nhuận cho ngân hàng thương mại.
 Nghiệp vụ cho vay:
Ngân hàng thương mại sử dụng phần lớn nguồn vốn của mình vào việc cho vay
đối với các doanh nghiệp và cá nhân nên còn gọi là tài sản có tín dụng. Trong nghiệp
vụ sử dụng vốn thì nghiệp vụ cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất, nên lợi nhuận của
NHTM chủ yếu được sinh ra từ nghiệp vụ này. Nghiệp vụ cho vay của NHTM chủ yếu
là cho vay ngắn hạn. Việc cho vay ngắn hạn giúp NHTM giữ đoực khả năng thanh
toán. Cho vay là nghiệp vụ hoạt động sinh lời chủ yếu của các NHTM. Hoạt động nà
rất đa dạng và phong phú.
 Nghiệp vụ đầu tư:

Ngoài việc sử dụng nguồn vốn để cho vay, NHTM còn sử dụng một phần
nguồn vốn của mình để đầu tư vừa để sinh lời vừa để phân tán rủi ro. Nghiệp vụ đầu tư
bao gồm:
Đầu tư trực tiếp: NHTM đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp, công thương
thông qua việc hùn vốn liên doanh, liên kết, thành lập công ty con hoặc mua cổ phiếu
trái phiếu để tham gia Hội đồng quản trị công ty và để phân chia lợi nhuận.
Đầu tư gián tiếp: Mua trái phiếu Chính phủ (Tín phiếu kho bạc nhà nước, trái
phiếu kho bạc Nhà nước, …), trái phiếu Ngân hàng Nhà nước… khi cần vốn có thể
bán trên thị trường chứng khoán hoặc làm chứng từ xin tái chiết khấu ở Ngân hàng
Trung ương.
Nghiệp vụ trung gian - nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng:
Những dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ tợ đáng kể cho
nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập cho
ngân hàng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí…có vị trí xứng đáng trong giai đoạn phát
triển hiện nay của ngân hàng.
Đây là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại thực hiện theo sự uỷ nhiệm của
khách hàng được hưởng tiền hoa hồng như:
Trang 11
- Chuyển tiền cho khách hàng sang địa phương khác để họ sử dụng theo yêu cầu hoặc
trả cho một người nào đó.
- Thu hộ: ngân hàng đứng ra thay mặt khách hàng để thu hộ các khoản kỳ phiếu đến
hạn, chứng khoán, hàng hóa…
- Ủy thác: là nghiệp vụ mà ngân hàng làm theo ủy thác của khách hàng như quản lý tài
sản hộ, chuyển gia tài hộ, bảo quản chứng khoán và vật có giá, thanh lý tài sản của xí
nghiệp bị phá sản…
- Mua bán hộ: theo ủy nhiệm của khách hàng, ngân hàng đứng ra phát hành cổ phiếu
hoặc trái phiếu hoặc trái khoán công ty hoặc trái khoán nhà nước, mua bán ngoại tệ,
kim khí quý, đá quý cho khác hàng.
- Kinh doanh vàng, bạc, ngoại tệ để kiếm lời nếu được phép của ngân hàng Trung ương.
- Làm tư vấn tài chính tiền tệ như cung cấp thông tin, hướng dẫn chính sách tiền tệ,

thương mại, lập dự án đầu tư tín dụng, ủy thác đầu tư cho khách hàng.
Trang 12
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
1. Quá trình ra đời và phát triển của Ngân Hàng Thương Mại ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, trước khi Pháp xâm lược nước ta, nhân dân hầu như không biết
đến ngân hàng là gì, nền kinh tế trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chủ yếu dựa vào
hoạt đông sản xuất nông nghiệp. Nền sản xuất lớn chưa hình thành, các nghành nghề
tiểu thủ công nghiệp tại các làng xóm thường là hoạt động gia đình, sản xuất nhỏ,
không cần nhiều vốn. Hoạt động thương mại trong nước cũng như quốc tế không có gì
đáng kể. Dân trong nước còn nghèo nàn không dư tiền, không có bảo vật cần gửi tại
các nơi chắc chắn. Do vậy, chưa cần thiết có các cơ quan làm nhưng dịch vụ ngân
hàng.
Thời kỳ từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX .
Từ giữa thế kỷ XIX, Pháp tiến hành xâm lược nước ta và đến cuối thế kỷ XIX,
nước ta trở thành thuộc địa của Pháp. Ở các đô thị của Việt Nam, thực dân Pháp đã
thành lập các doanh nghiệp xuất khẩu, nhà máy, đồn điền trang trại lớn.
Các hoạt động kinh tế của người Pháp phát triển rộng, nên người Pháp phải lập
ra các ngân hàng để hỗ trợ cho các hoạt động của họ. Lúc đầu, có hai ngân hàng của
Pháp thiết lập, có trụ sở đặt tại chính quốc, nhưng chi nhánh được đặt tại khắp các đô
thị lớn ở Việt Nam như Ngân hàng Đông Dương, Pháp – Hoa ngân hàng.
Ngân hàng Đông Dương là cơ quan tài chính lớn nhất của chính quyền và tài
phiệt Pháp. Ngoài độc quyền phát hành tiền tệ như một ngân hàng Trung ương, Ngân
hàng Đông Dương còn là một ngân hàng kinh doanh và thương mại lớn nhất – đã cung
cấp vốn cho mọi hoạt đông kinh tế của người Pháp ở Dông Dương, công ty hỏa xa Hải
Phòng – Vân Nam, công ty than Hòn Gai – Cẩm Phả, công ty rượu Đông Dương, công
ty xi măng Hải Phòng, công ty sợi Nam Định, công ty đường Hiệp Hòa, công ty cao su
Đất đỏ.
Ngân hàng quan trọng thứ hai của Pháp là Pháp – Hoa ngân hàngđược thành
lập để hỗ trợ các việc giao dịch thương mại giữa Pháp, Đông Dương và Trung quốc, và
một vài nước Á đông (Nhật, Thái lan.)

Ngoài các ngân hàng của Pháp, các nước Châu Âu có quyền lợi kinh tế ở Á
đông, nhất là Anh, cũng thiêt lập các ngân hàng tại các hải cảng Việt Nam (Sài Gòn,
Hải Phòng) như: Các chi nhánh của hai ngân hàng The Chartered Bank và The
Hongkong and Sanghai Banking Corporation.
Trang 13
Trung Quốc cũng có mở tại các hải cảng Việt Nam chi nhánh các ngân hàng:
Trung Quốc ngân hàng và giao thông ngân hàng.
Như vậy, từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX hoạt động ngân hàng đều ở
trong tay người ngoại quốc.
Thời kỳ từ năm 1927 đến năm 1975.
Đến năm 1927, ở miền Nam Việt Nam, một nhóm kinh tế tài chính Việt Nam
mới lập tại Sài Gòn một ngân hàng lấy tên là An Nam ngân hàng với vốn hoàn toàn
của người Việt Nam, hỗ trợ nhiều nhất cho các hoạt đông nông nghiệp ở Việt Nam.
Nhờ quản lí giỏi, ngân hàng này tồn tại mãi cho đen năm 1975. Mãi về sau này, vào
khoảng năm 1949 – 1950, một ngân hàng thứ hai được thành lập: Việt Nam Công
Thương ngân hàng.
Hai cuộc chiến tranh giành độc lập thống nhất đất nước kéo dài trong suốt 30
năm (từ năm 1945 đến năm 1975) đã tạo ra cục diện mới. trên đất nước Việt Nam tồn
tại hai hệ thống ngân hàng thuộc hai chế độ chính trị khác nhau. Một hệ thống ngân
hàng của chính quyền thực dân Pháp và chính quyền Nam Việt Nam.
Hệ thống ngân hàng của chính quyền thực dân Pháp trước cách mạng tháng 8
năm 1945 được duy trì ở Việt Nam cho đến tháng 5 năm 1955 khi thực dân Pháp rút
khỏi Việt Nam. Từ tháng 5 năm 1955 đến tháng 4 năm 1975, chính quyền Nam Việt
Nam đã tạo dựng được một hệ thống ngân hàng của nền kinh tế thị trường.
Đến giữa năm 1971, ở miền Nam đã có 30 ngân hàng Việt Nam. Các ngân hàng
Việt Nam lớn nhất là: Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, Việt Nam thương tín (vốn của
chính quyền Miền Nam), Việt Nam công thương ngân hàng, Sài Gòn ngân hàng, Đại
Nam ngân hàng. Ngoài ra, một số ngân hàng ngoại quốc cũng thiết lập các chi nhánh ở
Việt Nam như: Bank of American, Chase Manhattan Bank, BangKok bank, Bank of
Tokyo. Hệ thống ngân hàng của chính quyền Miền Nam được phân chia thành hai cấp

rõ rệt với ngân hàng Quốc gia Việt Nam đóng vai trò ngân hàng trung ương, còn các
ngân hàng khác thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Đến 30/4/1975,
hệ thống ngân hàng của chính quyền Miền Nam sụp đổ hoàn toàn.
Thời kỳ sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập.
Hệ thống ngân hàng của nước ta đã được hình thành ngay sau khi Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập với các định chế như: Nông nghiệp tín dụng
thuộc Bộ Canh nông (1945), Kinh tế tín dụng thuộc bộ Kinh tế (1945), Nha tín dụng
sản xuất (1947).
Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập theo
sắc lệnh số 15/LCT của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến tháng 9 năm 1960 được mang tên
Trang 14
là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cùng với sự ra đời của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, một số ngân hàng khác cũng được thành lập như Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam
(1957).
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được tổ chức theo mô hình một cấp, vừa quản
lý, vừa kinh doanh tong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Hệ thống ngân hàng
không ngừng lớn mạnh góp phần quan trọng vào sự thắng lợi của hai cuộc chiến tranh
giành độc lập dân tộc và sự thống nhất đất nước.
Thời kỳ sau khi đất nước đã giành được độc lập thống nhất hoàn toàn.
Sau khi đất nước đã giành được độc lập thống nhất hoàn toàn, hệ thống ngân
hàng đã trải qua nhiều thay đổi lớn về cơ cấu tổ chức cũng như về quy mô hoạt động.
Đặc biệt là từ năm 1988, băng quyết định số 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng
bộ trưởng (nay là Chính phủ), hai pháp lệnh ngân hàng (23/5/1990), hệ thống ngân
hàng Việt Nam đã có sự chuyển đỏi sâu sắc từ hệ thống ngân hàng một cấp của nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung thành hệ thống ngân hàng hai cấp của nền kinh tế thị
trường. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ - tín
dụng đối nội và đối ngoại. Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác thực
hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng dưới sự quản lý Nhà nước
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Đó là ngân hàng thuộc nhiều hình thức sở hữu khác nhau của Việt Nam, của

nước ngoài, thực hiện toàn diện hay một vài nghiệp vụ ngân hàng với nhiều tên gọi rất
phong phú. Hiện nay, về mặt quản lý nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có 63
chi nhánh ngân hàng đặt tại 63 tỉnh thành phố. Về hoạt động kinh doanh tiền tệ. Hệ
thống ngân hàng thương mại nước ta gồm có:
 Ngân hàng thương mại quốc doanh, gồm các ngân hàng: Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn, ngân hàng đầu tư - phát triển, ngân hàng ngoại thương, ngân
hàng công thương, ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
 Ngân hàng thương mại cổ phần gồm hai loại: Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị,
ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn.
 Ngân hàng thương mại liên doanh.
 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Trang 15
2. Thực trạng hoạt động của NHTM Việt Nam trong thời gian qua.
 Ngân hàng nhỏ quá nhiều
Ở Việt Nam hiện nay, số lượng NHTM là quá nhiều, nhất là ngân hàng nhỏ và
do đó cần hạn chế các NHTM nhỏ. Đáng chú ý là việc chính phủ nâng vốn điều lệ các
NHTM phải trên 3.000 tỷ đồng. Mức vốn này có thể là điều kiện không cao đối với
các ngân hàng quốc tế nhưng với các ngân hàng trong nước thì khó có thể với tới.Với
các Ngân hàng thương mại, mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm 2011 là 3.000 tỷ
đồng; chi nhánh Ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD; với Ngân hàng chính sách,
Ngân hàng phát triển là 5.000 tỷ đồng, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng hợp tác và quỹ
tín dụng Nhân dân Trung ương là 3.000 tỷ đồng; với công ty tài chính là 500 tỷ đồng;
công ty cho thuê tài chính là 150 tỷ đồng.
Theo Nghị định 10/2011/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 về ban hành Danh mục mức
vốn pháp định của các tổ chức tín dụng.
Theo đó, tổ chức tín dụng được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sẽ phải
có biện pháp bảo đảm số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương
mức vốn pháp định theo quy định, chậm nhất vào ngày 31/12/2011, thay cho quy định
cũ thời hạn này là ngày 31/12/2010. Tuy nhiên, quá trình tăng vốn điều lệ đã chịu tác

động của một số nguyên nhân khách quan, khiến việc tăng vốn điều lệ từ các nguồn
khác nhau của nhiều NHTM trong nước gặp phải một số khó khăn.
Vì vậy, việc gia hạn thời gian tăng vốn điều lệ cho các NHTM đến 31/12/2011
là một trong những chủ trương đúng đắn. Bởi sẽ giảm bớt áp lực về thời gian tăng vốn
cho các NHTM chưa thể tăng đủ ngay mức vốn pháp định, nhưng đảm bảo có sự công
bằng đối với những NHTM thời gian qua đã nỗ lực tăng vốn để đảm bảo đủ mức vốn
pháp định theo chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài ra, các cổ đông sáng lập phải có vốn tự có là 500 tỷ đồng trở lên và phải
hoạt động ba năm liên tục có lãi. Những quy định như vậy là cực kỳ khắt khe đối với
NH Việt Nam.
 NHTM Việt Nam chỉ chú tâm vào việc tăng vốn mà không hề chú ý đến cải thiện
quản trị, quản lý điều hành.
Thực tế cho thấy, các NHTM Việt Nam hiện đang hoạt động và các NHTM cổ
phần mới được thành lập thì người ta mới chỉ chú tâm vào việc tăng vốn mà không hề
chú ý đến cải thiện quản trị, quản lý điều hành. Quản trị ngân hàng hầu như không
được củng cố theo mô hình NHTM hiện đại.Ngay tại các NHTM nhà nước, tình trạng
Trang 16
tăng vốn tự có từ ngân sách nhà nước cũng như tốn kém nhiều tiền từ ngân sách cho
xử lý nợ tồn đọng nhưng hệ thống quản trị rủi ro vẫn kém hiệu quả hoặc không hề cải
thiện, chi phí hoạt động cao hơn các NHTM cổ phần. Và, việc tăng vốn dường như
không đi đôi với cải thiện quản trị tốt đã làm cho thị giá cố phiếu của NHTM cổ phần
giảm sút nghiêm trọng trong thời gian qua.Nếu theo định hướng chính sách về thành
lập NHTM mới là tăng vốn điều lệ thì tới đây Việt Nam sẽ toàn những NHTM lớ. Và
cũng theo suy luận khi đó Việt Nam sẽ có hệ thống gồm toàn các “đại gia”.
Tuy nhiên, từ cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ hiện nay cho thấy, vấn đề ngân
hàng lớn nhiều khi lại đáng quan ngại hơn ngân hàng nhỏ (chỉ xét khía cạnh về vốn).
Theo thống kê về hành vi tài chính, thông thường người ta cứ cho rằng các ngân hàng
to thì khó có thể đổ vỡ được, đây là điều sai lầm. Ngay quan điểm của một quan chức
ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng cho rằng, điều quan trọng đối với hoạt động ngân
hàng là chất lượng chứ không phải quy mô vốn hay số lượng. Thực tế cho thấy, đối với

nền kinh tế số 1 thế giới là Mỹ, một loạt vụ sụp đổ vừa rồi cũng rơi vào những “gã
khổng lồ” như: Lehman Brothers, Morgan Stanley….chứ không phải ngân hàng nhỏ.
Thông thường người ta cho rằng, càng nhiều NHTM lớn thì doanh nghiệp nhỏ
có lợi do nguồn tài chính sẵn sàng. Tuy nhiên điều đó dường như sai lầm do các
NHTM lớn thường có quan điểm bảo thủ hơn các NHTM nhỏ và họ quan tâm đến các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tại Việt Nam trong điều kiện khó khăn hiện nay, các
NHTM lớn nhất là NHTM nhà nước khi lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng
cao, thì các ngân hàng này dường như chỉ tập trung cho vay liên ngân hàng mà ngừng
hẳn cho vay nền kinh tế. Từ diễn biến này có lẽ là nguyên nhân dẫn đến việc các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có thẻ tiếp cận các NHTM cổ phần nhỏ với lãi suất cho
vay cao hoặc là phải đóng cửa như thực trạng hiện nay. Việc nâng điều kiện vốn ban
đầu làm khó trước tiên đến “người nhà”. Rõ ràng với hàng rào kỹ thuật mới này,
NHTM Việt Nam khó vượt qua. Khi mở cửa hội nhập, với điều kiện này, trong vòng
khoảng 10 năm tới, sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài với quy mô lớn tại
Việt Nam sẽ nhiều hơn khiến cạnh tranh tại thị trường tài chính trong nước thực sự
khốc liệt trong khi số lượng các NHTM Việt Nam vẫn có con số như hiện nay.
Rõ ràng, định hướng tới một hệ thống ngân hàng lành mạnh và hiệu quả đáp
ứng ngày càng tốt nhu cầu vôn cho một nền kinh tế là rất cần thiết đối với Việt Nam
hiện nay khi chúng ta còn ở điểm khởi đầu. Tuy nhiên, định hướng về một hệ thống
ngân hàng toàn các định chế lớn khi còn tồn tại nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ như
Việt Nam hiện nay là cần nghiên cứu kỹ. Khi ngân hàng càng lớn mà quản lý kém, nếu
đỗ vỡ thì hậu quả là khó lường hơn là một ngân hàng nhỏ đổ vỡ.
Trang 17
 Thị trường tiền tệ chưa phát triển và ngân hàng Nhà nước chưa thật sự đóng vai
trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này.
Nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay, thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị
trường tiền tệ chưa phát triển và ngân hàng Nhà nước chưa thật sự đóng vai trò can
thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi suất cơ bản, lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu
tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nết đến thị trường. Các NHTM cạnh tranh

với nhau tăng lãi suất huy đông vốn một cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro
cho chính các NHTM.
Về thị trường chứng khoán, có thể khẳng định rằng, trong tiến trình phát triển
thị trường chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham gia của các NHTM là rất
lớn. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên trung tâm giao dịch chứng khoán,
các NHTMNN cổ phần hóa thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu tiên ra công chúng,
cũng như tới đây sẽ có thêm một số Cty kinh doanh chứng khoán của các NHTM đi
vào hoạt đông sẽ tạo đà thúc đậy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh mẽ
hơn.
Song cho đến thời điểm này, mới chỉ có trên 100 công ty cổ phần niêm yết cổ
phiếu trên thị trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM là quá ít, tạo ra sự nghèo nàn
hàng hóa trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu của các NHTM chưa được niêm yết
và giao dịch cũng phần nào hạn chế tính sôi động của thị trường, tính thanh khoản của
thị trường chưa cao. Thông tin chưa thật sự minh bạch. Nguyên nhân của tình trạng
trên là do NHTW chưa thất sự mạnh, năng lực điều hành chính sách tiền tệ và vận
hành nghiệp vụ NHTW còn hạn chế. Hoạt động dịch vụ của các NHTM chưa phát
triển. Tiến trình cơ cấu lại các NHTM chưa đạt được các kết quả như dự kiến, đặc biệt
là xử lý nợ xấu đang có xu hướng gia tăng trở lại. Việc tăng vốn điều lệ để đảm bảo tỷ
lệ an toàn theo thông lệ quốc tế. Tiến trình cổ phần hóa NHTMNN còn rất chậm, đây
cũng là lực cản cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc hội đồng quản trị các NHTM cổ phấn có tư tưởng chần chừ,
chậm đưa cổ phiếu của các NHTM cổ phần của mình niêm yết trên trung tâm giao
dịch chứng khoán cũng làm chậm tiến trình nói trên.
 NHTM Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ về phát triển dịch vụ
ngân hàng bán lẻ.
Trong những năm gần đây, dưới áp lực cạnh tranh ngày càng tăng do việc áp
dụng lộ trình nới lỏng các quy định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về
Trang 18
việc mở chi nhánh và các điểm giao dịch, việc dỡ bỏ hạn chế về huy động tiền gửi
bắng VNĐ, khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng và sự phát triển bùng nổ của CNTT,

các NHTM Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ về phát triển dịch vụ
ngân hàng bán lẻ. Nhìn chung, các ngân hàng bắt đầu quan tâm và tập trung khai thác
thị trường bán lẻ như đẩy mạnh hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, phát triển các loại
hình dịch vụ mới, đa tiện ích và đã được xã hội chấp nhận như máy giao dịch tự động
(ATM), internet banking, home banking, PC banking, mobile banking. Thực tế đó đã
đánh dấu bước phát triển mới của thị trường dịch vụ NHBL tại Việt Nam, làm cơ sở
cho việc phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, tỷ trọng nguồn vốn huy
động từ dân cư tăng lê đáng kể. Hình thức huy động ngày càng đa dạng và linh hoạt
hơn, lượng kiều hối qua các ngân hàng tăng mạnh. Các NHTM Việt Nam đã có những
cải thiện đáng kể về năng lực tài chính, công nghệ, quản trị điều hành, góp phần phát
triển dịch vụ NHBL, đem lại cho khách hàng ngày càng nhiều tiện ích mới và văn
minh trong thanh toán.
Đến cuối năm 2006, hầu hết các NHTM đã xây dựng phần mềm NHBL dựa
trên nền tảng quy trình xử lý nghiệp vụ thiết kế của Mỹ với mục tiêu giải phóng khách
hàng nhanh nhất bằng việc phân chia xử lý nghiệp vụ thành hai bộ phận: Bộ phận giao
dịch tại quầy và bộ phận hỗ trợ xử lý nghiệp vụ. Hệ thống này đã tạo ra nhiều tiện ích,
tài khoản của khách hàng được kết nối trên toàn hệ thống, tạo nền tảng mở rộng thanh
toán không dùng tiền mặt và đưa các dịch vụ NHBL đến tay người tiêu dùng.
 Dịch vụ NHBL của các NHTM Việt Nam còn nhiều bất cập.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, dịch vụ NHBL của các NHTM Việt Nam
còn nhiều bất cập: Tính cạnh tranh chưa cao, chủ yếu nhờ mở rộng mạng lưới và cạnh
tranh về giá cả và lãi suất, cạnh tranh về chất lượng dịch vụ và công nghệ chưa phổ
biến, thị trường dịch vụ NHBL thiếu ổn định chưa có sự liên kết giữa các ngân hàng
trong việc phát hành các loại thẻ và khai thác dịch vụ mới, do các ngân hàng chưa tìm
được tiếng nói chung để đi đến thỏa thuận kết nối thống nhất nhằm chia sẻ hạ tầng kỹ
thuật, gây lãng phí trong việc đầu tư mua sắm máy móc và chưa tạo sự thuận lợi cho
khách hàng trong việc sử dụng thẻ. Sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn mang tính truyền
thống, nghèo nàn về chủng loại, chất lượng dịch vụ thấp, tính tiện ích chưa cao, chưa
định hướng theo nhu cầu khách hàng. Chưa có chiến lược tiếp thị cụ thể trong hoạt
động NHBL, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về tiếp thị dịch vụ NHBL.

Kênh phân phối không đa dạng, hiệu quả thấp, phương thức giao dịch và cung
cấp các dịch vụ chủ yếu vẫn là giao dịch trực tiếp tại quầy, các hình thức giao dịch từ
xa dựa trên nền tảng CNTT chưa phổ biến.
Trang 19
Dịch vụ ngân hàng điện tử chưa được triển khai rộng rãi, lượng khách hàng sử
dụng còn ít, nhiều ngân hàng mới chỉ hoạt động ở mức độ thử nghiệm, giao dịch thanh
toán thương mại điện tử còn hạn chế, chưa ứng dụng được hình thức thanh toán qua
điện thoại di động sử dụng tài khoản ngân hàng. Hiệu quả của chính sách khách hàng
còn thấp, chất lượng dịch vụ chưa cao, thủ tục giao dịch chưa thật sự thuận tiện, bộ
máy tổ chức chưa theo định hướng khách hàng, thiếu bộ phận nghiên cứu thiết kế sản
phẩm và phát triển dịch vụ ngân hàng cá nhân, mức độ ứng dụng CNTT chưa cao.
Những nguyên nhân chủ yếu sau đã làm hạn chế phát triển dịch vụ NHBL ở
Việt Nam:
- Nét đặc thù của dịch vụ ngân hàng bán lẻ là nhắm tới đối tượng khách hàng cá nhân,
song người dân trong nước chưa biết nhiều về dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ
NHBL nói riêng. Do mức thu nhập của phần lớn dân cư còn thấp, thói quen sử dụng
tiền mặt còn phổ biến nên khả năng phát triển và mở rộng dịch vụ NHBL còn hạn chế.
- Môi trường pháp lý về hoạt động ngân hàng chưa thật sự phù hợp với tình hình thực
tế. Các văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng chủ yếu được xây dựng trên cơ sở
các giao dịch thủ công với nhiều loại giấy tờ và quy trình xử lý nghiệp vụ phức tạp.
Trong khi đó, phát triển dịch vụ NHBL đòi hỏi phải áp dụng công nghệ mới và quy
trình nghiệp vụ hiện đại, nhanh chóng. Với tốc độ phát triển dịch vụ như hiện nay,
nhiều quy định pháp lý đã tỏ ra bất cập và không bao hàm hết các mặt nghiệp vụ, gây
khó khăn cho các NHTM khi muốn triển khai dịch vụ mới.
- Về phía các NHTM, các ngân hàng chưa xây dựng được chiến lược đồng bộ về phát
triển dịch vụ NHBL, sản phẩm và dịch vụ NHBL còn đơn điệu, chưa đáp ứng nhu cầu
của khách hàng, bộ máy tổ chức chưa xây dựng theo định hướng khách hàng, chưa có
đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về nghiệp vụ NHBL, mạng lưới kênh cung cấp dịch vụ
còn mỏng, nền tảng công nghệ và khả năng ứng dụng công nghệ mới còn hạn chế.
3. Một số giải pháp và kiến nghị cho phát triển NHTM Việt Nam trong thời

gian tới .
Phát triển đồng bộ.
Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng
như thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế, tức là
phải phát triển đồng bộ. Chúng ta không nên nôn nóng cũng như không thể ngồi chờ
cho đủ điều kiện được. Như chúng ta đã biết, thị trường tiền tệ và thị trường chứng
khoán có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên,
khi thị trường tiền tệ nóng lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển
thị trường tiền tệ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng
Trang 20
cao khả năng kinh doanh trên thị trường tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính,
tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng tham gia có hiệu quả trên thị trường chứng
khoán.
Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tài chính nhà nước với hệ thống
NHTM Việt Nam.
Ngân hàng nhà nước và Bộ tài chính, trực tiếp là Ủy ban chứng khoán Nhà
nước phải phối hợp chặt chẽ để đưa cổ phiếu của NHTM cổ phần niêm yết trên trung
tâm giao dịch chứng khoán. Phối hợp chặt chẽ, trên cơ sở tài trợ quốc tế, tổ chức các
cuộc hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn ngắn ngày về nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán và niêm yết cổ phiếu của NHTM trên thị trường chứng khoán. Bộ tài chính
cũng nên cùng NHNN tập trung tháo gỡ vướng mắt trong việc định giá NHTM và một
số giải pháp khác để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa NHTMNN. Ngân hàng Nhà nước
và Bộ tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc nhà nước đấu thầu hàng
quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các phiên đấu thầu từ 1phiên/1tuần hiện nay lên
2phiên/tuần. Linh hoạt hơn nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên
thị trường. Thời hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng hơn như kỳ hạn 60 ngày, 90
ngày….thay cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay. Cần có cơ chế để các NHTM cổ
phần và các ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn có thể trúng thầu tín phiếu trên thị
trường này.
Nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng và tích cực đầu tư.

NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò can thiệp
cuối cùng của NHNN trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi suất thị trường nội
tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam.
Các NHTM phải mạnh dạn đầu tư hơn nữa cho các nghiêp vụ kinh doanh
chứng khoán và thu hút tiền gửi không kỳ hạn, dịch vụ thanh toán cho khách hàng.
Đây cũng chính là các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán trong thời gian
tới, cũng như là khách hàng tiềm năng của nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà
NHTM cần nhắm tới thu hút.
Hoàn thiện các quy định pháp lý về nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng.
Phải hoàn thiện các quy định pháp lý về nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng. Các
quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động ngân hàng do nhiều cấp và nhiều cơ quan ban
hành, điều này đòi hỏi phải hoàn thiện môi trường pháp lý một cánh đầy đủ, đồng bộ
và thống nhất về các loại hình dịch vụ theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ phổ cập, phù
Trang 21
hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của ngân
hàng và khách hàng.
Đa dạng hóa các kênh phân phối và thực hiện phân phối có hiệu quả.
Đa dạng hóa các kênh phân phối và thực hiện phân phối có hiệu quả. Trong xu
thế hội nhập, cạnh tranh trên thị trường NHBL ngày cáng gay gắt, phát triển dịch vụ
NHBL được xác định là một định hướng chiến lược quan trọng của các NHTM Việt
Nam. Trong đó, việc phát triển các kênh phân phối là một trong những giải pháp tiên
quyết, đòi hỏi phải tích cực phát triển mạng lưới các chi nhánh cấp 1 và cấp 2, chú
trọng mở rộng thêm các phòng giao dịch vệ tinh với quy mô gọn nhẹ. Bên cạnh việc
duy trì và mở rộng các kênh phân phối truyền thống như các chi nhánh, các phòng
giao dịch, các NHTM cần nghiên cứu và ứng dụng các kênh phân phối hiện đại, đồng
thời tăng cường quản lý phân phối nhằm tối đa hóa vai trò của từng kênh phân phối
một cách có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu giao dịch ở mọi lúc, mọi nơi như:
- Tăng cường hiệu quả và khả năng tự phục vụ của hệ thống máy ATM nhằm cung cấp
nhiều loại dịch vụ khác nhau với chi phí rẻ hơn, nâng cấp hệ thống ATM thành những

ngân hàng thu nhỏ trải đều khắp các tỉnh, thành phố. Đồng thời phát triển mạng lưới
các điểm chấp nhận thẻ (POS) và tăng cường liên kết giữa các NHTM để nâng cao
hiệu quả và mở rộng khả năng sử dụng thẻ ATM.
- Phát triển loại hình ngân hàng qua máy tính và ngân hàng tại nhà nhằm tận dụng sự
phát triển của máy tính cá nhân và khả năng kết nối internet. Trong đó, các NHTM cần
sớm đưa ra các loại dịch vụ mới để khách hàng có thể đặt lệnh, thực hiện thanh toán,
truy vấn số dư các dịch vụ khác…
- Phát triển loại hình ngân hàng qua điện thoại, đầy là mô hình phổ biến với chi phí rất
thấp, tiện lợi cho cả khách hàng và ngân hàng. Khách hàng có thể thực hiện giao dịch
bất cứ thời gian nào, địa điểm nào.
Đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ của NHTM
Đa hạng hóa sản phẩm là điểm mạnh và mũi nhọn để phát triển dịch vụ ngân
hàng cá nhân, hình thành bộ phận nghiên cứu chuyên trách phát triển sản phẩm. Trong
đó, tập trung vào những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có đặc điểm nổi trội
trên trên thị trường nhằm tạo sự khác biệt trong cạnh tranh, tận dụng các kênh phân
phối mới để đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng và phát triển tín dụng tiêu dùng.
Phát triển và mở rộng các sản phẩm dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
nhằm phát huy hiệu quả và tính năng kỹ thuật của công nghệ mới, góp phần hạn chế
giao dịch tiền mặt bất hợp pháp, nhanh chóng nâng cao tính thanh khoản của VNĐ và
hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Đẩy mạnh các dịch vụ tài khoản tiền gửi với
Trang 22
thủ tục đơn giản, an toàn nhằm thu hút nguồn vốn của cá nhân trong thanh toán và
phát triển dịch vụ thanh toán thẻ, sec thanh toán cá nhân, đẩy mạnh huy động vốn qua
tài khoản tiết kiệm. Các NHTM cũng cần tăng cường hợp tác với các tổchức và doanh
nghiệp có các khoản thanh toán dịch vụ thường xuyên, ổn định số lượng khách hàng
và trả lương qua tài khoản. NHNN cần sớm ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp
quy về thanh toán với cơ chế khuyến khích hơn là ngăn cấm như cho phép thu phí giao
dịch tiền mặt cao hơn giao dịch chuyển khoản, hiện đại hóa hệ thống thanh toán điện
tử liên ngân hàng nhằm hình thành hệ thống thanh toán thống nhất và an toàn.
Phát triển các sản phẩm, dịch vụ khác như tăng cường thu hút nguồn kiều hối

trên cơ sở phối hợp với các công ty xuất khẩu lao động, các công ty dịch vụ kiều hối,
tổ chức chuyển tiền ở nước ngoài, các ngân hàng đại lý nước ngoài. Tăng cường bán
chéo sản phẩm dịch vụ giữa ngân hàng và các công ty bảo hiểm.
Tăng cường hoạt động tiếp thị và chăm sóc khách hàng.
Phải tăng cường hoạt động tiếp thị và chăm sóc khách hàng. Do phần lớn đối
tượng phục vụ của dịch vụ NHBL là các cá nhân, việc quảng bá, tiếp thị các sản phẩm
dịch vụ đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có lợi cho cả ngân hàng và khách hàng. Tăng
cường chuyển tải thông tin tới công chúng nhằm giúp khách hàng có thông tin cập
nhật về năng lực và uy tín của ngân hàng, hiểu biết cơ bản về dịch vụ NHBL, nắm
được cách thức sử dụng và lợi ích của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Các giải pháp khác.
NHNN và các NHTM cần phối hợp với Tổng cục thống kê trong việc xây dựng
danh mục dịch vụ NHBL theo chuẩn mực quốc tế, làm cơ sở để xây dưng hệ thống
báo cáo định kỳ về các loại hình dịch vụ cụ thể, góp phần nâng cao chất lượng quản trị
điều hành. Phải chú trọng đào tạo nguồn nhân lực sử dụng nguồn nhân lực có hiệu
quả.
Trang 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ Phần 2
2. Tailieu.vn
3. Vi.Wikipedia.org (Bách Khoa toàn thư mở)
4. Tinkinhte.com
Trang 24

×