Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN DÂN SỰ 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.31 KB, 14 trang )

Tóm tắt án mơn hợp đồng.
BÀI THẢO LUẬN SỐ 1 : NGHĨA VỤ.
Vấn đề 1 : Thực hiện nghĩa vụ.
Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018.
Năm 1991, cụ Bảng chuyển nhượng thửa đất số 49 mang diện tích 1010m2 và căn
nhà cấp bốn 2 gian cho vợ chồng bà Mai Hương với giá 5.000.000. Nhưng vợ
chồng bà Mai Hương mới chỉ thanh tốn được 4.000.000, cịn nợ 1.000.000 tương
đương giá trị với 1/5 mảnh đất. Năm 1996 sau khi chuyển nhượng lại cho vợ
chồng bà Phạm Thị Sáu, bà Hương vẫn tiếp tục không trả tiền cho ông Bảng. Nay
ông Bảng khởi kiện yêu cầu bà Hương phải trả lại số tiền tương đương với 1/5
mảnh đất theo định giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc trả lại 1/5 mảnh đất,.
Nhưng bà Hương không đồng ý, yêu cầu chỉ trả đúng 1.000.000 cộng với tiền lãi
còn thiếu.
Hướng giải quyết của tòa:
- Tòa án cấp sơ thẩm và tòa phúc thẩm quyết định : Buộc bà Mai Hương phải trả
-

cho cụ Ngô Quang Bảng tổng số tiền là 2.710.000 gồm gốc và lãi.
Tòa án cấp giám đốc thẩm : Buộc bà Hương phải trả cho cụ Bảng số tiền tương
đương 1/5 giá trị quyền sử dụng đất nhận chuyện nhượng theo định giá tại thời
điểm xét xử sơ thẩm theo nghị quyết số 02/2004 của hội đồng thẩm phán tòa án
nhân dân tối cao. Hủy 2 bản án sơ thẩm và phúc thẩm.

Vấn đề 2 : Chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận.
Bản án số : 148/2007/DS.ST ngày 26/9/2007.
Lần thứ 1: bà Tú cho bà Phượng vay 550.000.000
Lần thứ 2: bà Tú vay ngân hàng và cho bà Phượng vay 615.000.000
Bà Phượng tới kì hạn trả ngân hàng thì khơng trả được nên nhờ bà Tú vay nóng
bên ngồi 615.000.000
Bà Phượng cho bà Phùng Thị Bích Ngọc vay 465.000.000, Phùng Thị Bích Loan
và Trần Phú Thạnh vay 150.000.000.


Sau đó bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc đã lập hợp đồng. Tại phiên tòa hòa


giải Bà Tú yêu cầu bà Ngọc phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay cho bà, nhưng
phiên tòa sau đó bà Tú yêu cầu bà Phượng phải liên đới với bà Ngọc trả nợ vay.
Câu hỏi đặt ra là bà Phượng có nghĩa vụ thanh tốn nợ vay đó khơng?
Hướng giải quyết của tịa án:
- Xác định bà Phượng khơng có trách nhiệm trả nợ
- Bà Tú đã chấp nhận việc bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho 3 người
-

trên thông qua hành động bà Tú lập hợp đồng cho 3 người trên vay tiền.
Bà Ngọc biết được bà Phương và bà Tú vay nóng khơng trái pháp luật để trả

-

ngân hàng nhưng khơng nói -> coi như thừa nhận
Bà Tú yêu cầu bà Ngọc trả nợ là có căn cứ.

Buổi thảo luận thứ 2 : Vấn đề chung của hợp đồng.
Vấn đề 1 : Sự ưng thuận trong giao kết hợp đồng.
Án lệ số 04/2016/AL về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”
Khái quát nội dung của án lệ:
-

Trường hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên
ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người cịn lại khơng ký
tên trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số

tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền
chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử
dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà khơng có
ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng
nhà đất.

Vấn đề 2 : Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được.
Vấn đề 3 : Xác lập hợp đồng giả tạo và nhằm tẩu tán tài sản.
Quyết định giám đốc thẩm số: 259/2014/DS – GĐT
Thực tiễn xét xử :
-

Bà Kim Anh vay bà Thu tổng cộng 3 lần 3,7 tỉ. Bà Thu đòi nhiều lần nhưng bà
Kim Anh không trả. Cuối năm 2009, bà Kim Anh đề nghị cấn nợ đất để trả nợ
nhưng bà Kim Anh đưa giá đất quá cao nên bà Thu không đồng ý. Nhưng sau đó
lại chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Vượng bà Nga ( anh trai
chị dâu của bà Kim Anh ) với giá 680 triệu đồng.
Hướng giải quyết của tòa án :


-

-

Tuyên bố giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng bà Kim Anh và vợ
chồng ông Vượng là vô diệu do đây là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh việc
thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng bà Kim Anh đối với bà Thu.
Trên cơ sở đó buộc vợ chồng bà Anh phải trả nợ cả gốc lẫn lãi cho.

Vấn đề 4 : Hình thức hợp đồng

Bản án số 41/2011/DS-PT của TAND tỉnh Khánh Hịa
Thực tiễn xét xử.
-

Ơng Diêu và Ơng Ngọc có ký kết hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 27/10/2007
nhưng khơng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Về nội dung thì
phần đất này đã được ghi trong di chúc, xác định sau khi vợ ơng Diêu chết thì ơng
có quyền định đoạt. Ngày 29/10/2009 con ông Diêu là ông Thành khởi kiện yêu
cầu tịa án tun bố hợp đồng vơ hiệu.

Hướng giải quyết của tịa:
Tịa sơ thẩm: Tun bố hợp đồng vơ hiệu
Tịa phúc thẩm:
-

-

Về hình thức : Xác định hợp đồng vi phạm về mặt hình thức do hợp đồng khơng
được xác nhận bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng do đã quá thời hiệu
khởi kiện yêu cầu tòa án tun bố hợp đồng vơ hiệu nên hợp đồng có hiệu lực
Về Nội dung: Theo di chúc thì sau khi người vợ chết, ơng Diêu hồn tồn có
quyền định đoạt đất.

 Hợp đồng trên có giá trị pháp lý về cả nội dung và hình thức.
Bài thảo luận số 3 : Vấn đề chung của hợp đồng ( tiếp )
VẤN ĐỀ 1 : BUỘC TIẾP TỤC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG
Bản án số 01/2010/DSST ngày 22/01/2010 của Tòa án nhân dân huyện Krong Pắc
tỉnh Đắk Lắk
Thực tiễn xét xử :
- Bà Thanh ơng Hữu có xác lập 4 hợp đồng mua bán cà phê với bà Phượng qua

điện thoại. Với tổng số là 11000 kg cà phê nhân xô đã quy chuẩn.
- Qua 4 lần xác lập hợp đồng qua điện thoại, bà Phương đã giao 188,600,000
đồng tương đương với 7.792,67 kg cà phê nhân xô đã quy chuẩn.
- Từ khi nhận tiền, bà Thanh ông Hữu chưa giao được số cà phê nào cho bà
Phượng cả, nay bà Phượng khởi kiện yêu cầu bà Thanh ông Hữu phải giao


7.792,67 kg cà phê. Nguyện vọng của vợ chồng bà Thanh ông Hữu là trả dần
số cà phê trong thời hạn nhiều năm.
Hướng giải quyết của Tòa án :
-

Tòa án cấp sơ thẩm :
+ Buộc ông Trần Duy Hữu và bà Trần Thị Thanh có trách nhiệm giao trả cho
bà Nguyễn Thị Phượng 7.792,67 kg cà phê nhân xô đã quy chuẩn.
+ Bác yêu cầu của ông Hữu bà Thanh xin giao trả 7.792,67 kg cà phê cho bà
Phượng trong thời hạn nhiều năm.

VẤN ĐỀ 2 : ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT, HỦY BỎ DO KHÔNG THỰC HIỆN
ĐÚNG HỢP ĐỒNG.
Bản án số 19/2017/DS-ST ngày 03/5/2017
Thực tiễn xét xử :
-

-

Chị Trương Thị V là kế tốn của Phịng giao dịch xã TB thuộc Chi nhánh NN&PTNT
do bất cẩn đã chuyển nhầm cho anh Đặng Trường T số tiền là 50.000.000 đồng. Anh T
đã hai lần rút tiền và chuyển tiền tổng cộng 45.000.000 đồng. Anh T thừa nhận hành
vi của mình và hứa trả lại nhưng không thực hiện.

Ngân Hàng yêu cầu anh T có trách nhiệm trả lại 40.000.000 đồng với lãi suất
10%/năm. Anh T đồng ý trả tiền cho Ngân Hàng nhưng trả dần mỗi tháng và không
đồng ý trả lãi.

Hướng giải quyết của tòa án :
-

Buộc bị đơn Đặng Trường T có trách nhiệm trả cho nguyên đơn NN&PTNT số tiền
40.000.000 đồng.

VẤN ĐỀ 3 : ĐỨNG TÊN GIÙM MUA BẤT ĐỘNG SẢN.
Quyết định giám đốc thẩm số 17/2015/DS-GĐT ngày 19/5/2015
Thực tiễn xét xử :
-

-

Bà Nguyễn Thị Tuệ sống ở Nhật Bản có nguyện vọng mua nhà ở Việt Nam, tuy
nhiên vì pháp luật Việt Nam khơng cho phép bà Tuệ đã nhờ ơng Nguyễn Văn Bình
mua giúp.
Bà Tuệ đưa cho ơng Bình 360 chỉ vàng để mua nhà, giao dịch khơng có biên nhận.
Hợp đồng mua bán nhà đã ghi bên mua là ơng Bình và bà Vân, người đứng tên
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở là tên ơng Bình và
bà Vân.


-

Gia đình ơng Bình ở nhà của bà Tuệ và có tu sửa căn nhà, nay bà Tuệ yêu cầu ông
Bình trả căn nhà những ông Bình không đồng ý.


Hướng giải quyết của Tòa án :
-

-

Tòa án cấp sơ thẩm : Buộc ơng Bình phải trả nhà cho bà Tuệ nhưng khơng tính
cơng sức quản lí, giữ gìn nhà cho ơng Bình
Tịa án cấp phúc thẩm : Khơng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tuệ do Tòa
phúc thẩm cho rằng thời điểm đó bà Tuệ chưa có quyền mua nhà tại Việt Nam nên
bà Tuệ chỉ có quyền địi lại số tiền đã đưa cho ơng Bình.
Tịa Giám đốc thẩm : Hủy hai bản án của Tòa sơ thẩm và Tịa phúc thẩm vì những
quyết định đó khơng đúng và không đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Giao lại hồ
sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy
định của pháp luật.

BÀI THẢO LUẬN SỐ 4 : BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ.
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ.
Bản án số 208/2010/DS-PT 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
Thực tiễn xét xử :
-

Bà Khen và ơng Thảo có thế chấp cho DN cầm đồ Bá Minh của nguyên đơn Phạm
Bá Minh một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000 đồng,
thời hạn vay là 6 tháng, lãi suất thỏa thuận là 3%tháng. Đến nay có trả được 22
tháng tiền lãi, là 29.600.000 đồng, nợ 10.000.000 tiền lãi. Ông Minh kiện yêu cầu
bị đơn trả 10.000.000 đồng tiền lãi và 60.000.000 đồng tiền gốc. Bị đơn đồng ý trả
số tiền 70.000.000 đồng, nhưng xin trả trong vòng 12 tháng.

Hướng giải quyết của tòa án:

-

-

Tòa án sơ thẩm : Điều chỉnh lãi suất theo pháp luật hiện hành và buộc bị đơn phải
trả nguyên đơn 38.914.800 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Nguyên đơn phải trả lại bản chính giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương.
Tóa án phúc thẩm : Bác yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Điều chỉnh lãi suất
theo pháp luật hiện hành và buộc bị đơn phải trả nguyên đơn 38.914.800 đồng
ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Nguyên đơn phải trả lại bản chính giấy
chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương.

VẤN ĐỀ 2 : ĐĂNG KÍ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM.
Quyết định giám đốc thẩm số 02/KDTM-GĐT ngày 09/01/2014.
Thực tiễn xét xử :


-

-

-

Ngân hàng ViettinBank và Cơng ty Ngọc Quang kí kết 13 hợp đồng tín dụng, để
đảm bảo cho các hợp đồng tín dụng, hai bên đã kí kết 09 Hợp đồng cầm cố, thế
chấp và bảo lãnh gồm : 04 hợp đồng cầm cố, 02 hợp đồng thế chấp, 03 hợp đồng
bảo lãnh.
Đến hạn thanh tốn, cơng ty Ngọc Quang khơng thanh tốn được các hợp đồng tín
dụng, Ngân hàng ViettinBank tự xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh của công
ty Ngọc Quang, bán cho Công ty Đồng Lực để thu hồi nợ. Sau đó Ngân hàng khởi

kiện Công ty Ngọc Quang yêu cầu trả số nợ cịn lại là 5.273.000.000 đồng.
Cơng ty Ngọc Quang phản tố cho rằng việc tự ý xử lí tài sản cầm cố thế chấp bảo
lãnh của Ngân hàng ViettinBank là trái quy định của pháp luật, u cầu Tịa án vơ
hiệu giao dịch giữa Ngân hàng ViettinBank và Công ty Đồng Lực.

Hướng giải quyết của Tòa án :
-

-

Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm : Không chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng
ViettinBank. Tuyên bố giao dịch giữa Ngân hàng ViettinBank và Công ty Đồng
Lực là vô hiệu, buộc hai bên phải hồn trả lại tài sản cho Cơng ty Ngọc Quang.
Tịa Giám đốc thẩm : Xác định nếu cơng ty Ngọc Quang khơng trả được nợ thì
Viettinbank có quyền tự xử lý tài sản thế chấp theo thỏa thuận. Việc vô hiệu hợp
đồng giữa Viettinbank và công ty Đồng Lực là không đúng. Hủy bản án sơ thẩm
và phúc thẩm.
VẤN ĐỀ 3 : ĐẶT CỌC.

Quyết định giám đốc thẩm số 79/2012/DS-GĐT ngày 23/02/2012.
Thực tiễn xét xử :
Ông Lộc mua nhà của bà Hạnh, căn nhà này do bà mua đấu giá của Cơ quan thi
hành án dân sự, ông có đặt cọc cho bà Hạnh 2.000.000.000 đồng, trong hợp đồng
đặt cọc các bên có thỏa thuận là nếu khơng hồn tất thủ tục đúng hạn thì sẽ bị phạt
cọc số tiền tương đương tiền cọc. Đến hạn bà Hạnh không thực hiện được theo
thỏa thuận và sau 5 tháng cũng không thực hiện đúng cam kết nên ông Lộc khởi
kiện yêu cầu bà Hạnh thực hiện cam kết là hoàn trả tiền cọc cùng tiền phạt cọc là
4.000.000.000 đồng. Tuy nhiên bà Hạnh khơng đồng ý phạt cọc vì cho rằng lý do
không thực hiện đúng cam kết là do cơ quan thi hành án dân sự chậm sang tên cho
bà.

Hướng giải quyết của Tòa :
-

Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm : Buộc bà Hạnh phải trả cho ơng Lộc
4.000.000.000 đồng ngay sau khi án có hiệu lực.
Tịa Giám đốc thẩm : Xem xét lại để xác định việc bà Hạnh không thực hiện đúng
thỏa thuận nếu là do lỗi chủ quan (bà chậm sang tên) thì bà bị phạt cọc, nếu do lỗi


khách quan ( do cơ quan thi hành án dân sự chậm trễ) thì bà Hạnh khơng bị phạt
cọc. Hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm.
VẤN ĐỀ 4 : BẢO LÃNH
Quyết định giám đốc thẩm số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011.
Thực tiễn xét xử :
-

Bà Nhung cho bà Mát vay 500.000.000 đồng với lãi suất 1,2%/tháng với sự bảo
lãnh của bà Thắng. Đến hạn bà Mát không trả tiền gốc và lãi, nên bà Nhung khởi
kiện yêu cầu bà Mát và bà thắng trả nợ. Sau đó do Tịa án hướng dẫn bà khởi kiện
yêu cầu bà Thắng trả cả gốc lẫn lãi cho bà Nhung.

Hướng giải quyết của Tòa án :
-

Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm : Buộc bà Thắng phải trả tiền nợ và lãi
607.106.000 cho bà Nhung thay cho bà Mát.
Tòa Giám độc thẩm : Hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm do Tòa án chưa xác định
đúng năng lực thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ thực hiện được một phần của bà
Mát mà đã để bà Thắng chịu trách nhiệm toàn bộ số tiền nợ và lãi. Giao lại hồ sơ
cho Toán án sơ thẩm xét xử theo đúng quy định của pháp luật.


Bài thảo luận số 5 : Trách nhiệm dân sự, vi phạm hợp đồng.
VẤN ĐỀ 2: PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG.

Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011.
Thực tiễn xét xử :
-

-

Công ty Tân Việt xác lập hợp đồng mua bán vải thành phẩn với Cơng ty Tường
Long nhưng vì lí do khách quan nên Cơng ty Tường Long hủy bỏ hợp đồng.
Vì trước đó, Cơng ty Tân Việt đã đưa 30% giá trị đơn hàng cho Công ty Tường
Long và công ty Tường Long cũng đã giao một phần hàng cho Công ty Tân Việt
nên sau khi hủy bỏ hợp đồng Công ty Tường Long đã hồn trả số tiền cịn lại cịn
lại là 336.140.060 đồng.
Cơng ty Tân Việt khởi kiện u cầu Cơng ty Tường Long phải thanh tốn phạt cọc
và tiền phạt hợp đồng đối với phần hàng chưa giao (8%). Công ty Tường Long chỉ
thừa nhận tiền phạt hợp đồng đối với phần hàng chưa giao và cho rằng tiền phạt
cọc thực chất chỉ là phần tiền thanh toán trước.

Hướng giải quyết của tòa án :


-

Tòa án sơ thẩm : Chấp nhận một phần yêu cầu của ngun đơn, khơng chấp nhận
số tiền phạt cọc.
Tịa phúc thẩm : Giữ nguyên bản án sơ thẩm.


BÀI THẢO LUẬN SỐ 6:BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG (PHẦN
CHUNG)
Vấn đề 1: Xác định tổn thất về tinh thần được bồi thường.
Bản án số 08/2017/DS-ST: “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức
khỏe bị xâm phạm”.
Anh Vũ Minh Hiếu dùng gậy đánh bà Vũ Thị Nhị làm bà bị gãy tay phải điều trị tại bệnh
viện, tinh thần bị khủng hoảng. Trong thời gian bà Nhị điều trị thì bà khơng đi làm được
và cần có người chăm sóc. Nay bà Nhị khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh Hiếu phải bồi
thường thiệt hại về sức khỏe và tổn thất về tinh thần cho bà, trong trường hợp anh Hiếu
khơng đủ tài sản thì bố mẹ anh phải bồi thường phần còn thiếu cho bà.
Hướng giải quyết của Tòa:
Chấp nhận yêu cầu của bà Nhị: Buộc anh Hiếu phải bồi thường thiệt hại do xâm phạm
sức khỏe và tổn thất tinh thần cho bà Nhị. Do anh Hiếu chưa đủ 18 tuổi nên trong trường
hợp tài sản của anh Hiếu khơng đủ thì bố mẹ anh phải bồi thường phần còn thiếu cho bà
Nhị.
Vấn đề 2: Xác định thiệt hại vật chất được bồi thường khi tính mạng bị xâm phạm
Bản án số 60/2009/HSST
Anh Hùng và anh Thọ có mâu thuẫn với nhóm người anh Quyên. Sau đó anh Thọ đã gọi
thêm anh Hưng, và anh Hưng đã sử dụng con dao chém chết anh Quyên. Người đại diện
của anh Quyên yêu cầu Tòa án buộc các bị cáo phải bồi thường tất cả chi phí mai táng,
phí tổn thất về tinh thần cho gia đình của anh Qun và trợ cấp ni con của anh Quyên.
Hướng giải quyết của Tòa:
Chấp nhận yêu cầu của người đại diện hợp pháp của anh Quyên.
Vấn đề 4: Xác định người có trách nhiệm bồi thường (cùng gây ra thiệt hại)
Bản án số 19/2007/DS-ST: “Yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe và tài sản bị xâm
hại”.
Chị Tám có mâu thuẫn với vợ chồng anh Lễ, chị Hà. Sau đó chị Hiền (chị ruột của Tám)
có tham gia vào. Sau khi lời qua tiếng lại thì ai về nhà nấy. Đến 18h cùng ngày, anh Hải
(em vợ anh Lễ) cùng chị Tám và chị Hiền có xơ xát, giằng co lẫn nhau nên làm hư hại
một số tài sản của bà Khánh (mẹ của chị Tám và Hiền). Khoảng 10 ngày sau thì chị Hiền



nhập viện. Nay bà Khánh được chị Hiền ủy quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh Lễ,
chị Hà và anh Hải phải bồi thường do xâm phạm sức khỏe của chị. Ngồi ra thì bà Khánh
cịn khởi kiện u cầu Tịa buộc anh Hải phải bồi thường tồn bộ số tiền thiệt hại về tài
sản cho bà.
 Hướng giải quyết của Tịa án:
Khơng chấp nhận u cầu của chị Hiền về việc buộc anh Lễ, chị Hà, anh Hải phải bồi
thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm của chị vì khơng có chứng cứ.
Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Khánh: Xác định thiệt hại về tài sản của bà Khánh
do cả chị Hiền lẫn anh Hải gây ra nên hai người phải liên đới trả nợ nhưng bà chỉ khởi
kiện anh Hải nên Tòa chỉ buộc anh Hải bồi thường 1/3 số tiền bà yêu cầu.
Quyết định giám đốc thẩm số 226/2012/DS-GĐT: “Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị
xâm hại”.
Bà Nguyễn Huệ Lan đã đánh bà Trần Thị Hộ khiến bà Hộ bị thương hỏng mắt trái. Do
bà Hộ có chửi bới nên ông Trần Thúc Bảo (là cha chồng của bà Lan) đã kêu các con đánh
bà Hộ, việc này có quan hệ nhân quả đến thương tích của bà Hộ. Bà Hộ khởi kiện u
cầu Tịa án buộc bà Lan, ơng Bảo cùng các con ông phải bồi thường thiệt hại do xâm hại
sức khỏe của bà và phí tổn thất tinh thần cho bà.
 Hướng giải quyết của Tòa:
Tòa sơ thẩm: Yêu cầu bà Lan phải bồi thường cho bà Hộ, do Bà Hộ có lỗi nên phải chịu
20% chi phí điều trị.
Tịa phúc thẩm: Buộc bà Lan bồi thường cho bà Hộ, tăng phí bồi thường tổn thất về tinh
thần cho bà Hộ, bà Hộ chịu 20% chi phí do có lỗi.
Tịa giám đốc thẩm: Buộc ơng Bảo phải liên đới với bà Lan để chịu trách nhiệm dân sự
đối với bà Hộ. Xác định việc bà Hộ chửi gia đình ơng Bảo khơng phải lỗi trực tiếp gây ra
thương tích cho bà Hộ nên bà khơng phải chịu chi phí do có lỗi.
BÀI THẢO LUẬN THỨ BẢY:BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
(PHẦN CỤ THỂ)
Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra.

Bản án số 19/2012/DSST ngày 12/6/2012.
Cháu Mai Công Hậu là người chưa thành niên (chưa đủ 16 tuổi), chưa có tài sản
riêng, do điều khiển xe máy không đi đúng làn đường quy định nên đã đâm vào xe của bà
Nguyễn Thị Nam, khiến bà Nam bị thương và phải điều trị tại bệnh viện. Bà Nam khởi


kiện yêu cầu Tòa án buộc mẹ của Hậu phải bồi thường tổng cộng 85.755.000đ (đã trừ đi
số tiền 3.000.000 mà mẹ của Hậu đã bồi thường).
Hướng giải quyết của Tòa:
- Buộc cha, mẹ cháu Hậu phải bồi thường cho bà Nam.
- Số tiền bà Nam đưa ra là quá cao, xác định cha, mẹ Hậu liên đới bồi thường số
tiền là 42.877.000đ.
Vấn đề 2 : Bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra.
Bản án số 285/2009/HSPT ngày 23/12/2009.
Cao Chí Hùng là người lái xe th cho Cơng ty TNHH vận tải Hồng Long. Trong
khi thực hiện cơng việc được giao, Cao Chí Hùng đã lái xe lấn làn đường và gây tai nạn
và khiến anh Trần Ngọc Hải tử vong. Chị Thủy (vợ anh Hải) yêu cầu tăng nặng hình phạt
dân sự đối với Hùng, nhận tiền cấp dưỡng trong một lần, tiền bồi thường trong 5 tháng
chị không đi làm và tiền cấp dưỡng nuôi bà Bá là người ni dưỡng anh Hải. Phía Cao
Chí Hùng kháng cáo yêu cầu được giảm mức bồi thường. Phía cơng ty Hồng Long
kháng cáo khơng đồng ý bồi thường cho bị hại.
Hướng giải quyết của Tịa:
- Khơng chấp nhận kháng cáo của cơng ty Hồng Long. Buộc cơng ty Hoàng Long
phải bồi thường cho chị Thủy.
- Chấp nhận yêu cầu của Cao Chí Hùng.
- Khơng chấp nhận kháng cáo của chị Thủy.
Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra.
Bản án số 23/2017/DS-ST: “Yêu cầu bồi thường do súc vật gây ra”.
Bà Nga thả heo ăn ở chân cầu được xây trên đất của ông Nhã. Sau đó, chó của ơng
Nhã đã cắn chết một con heo của bà Nga. Bà Nga khởi kiện yêu cầu ông Nhã bồi thường

giá trị con heo là 1.000.000đ.
Hướng giải quyết của Tịa:
Xác định trường hợp trên hai bên có lỗi như nhau trong việc quản lý vật ni của
mình, đã gây thiệt hại cho bà Nga nên mỗi bên chịu 50% mức độ lỗi. Buộc ơng Nhã bồi
thường ½ giá trị con heo cho bà Nga.
Bài tập tháng thứ nhất.
Vấn đề 1 : Được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Vấn đề 2 : Giao kết hợp đồng có điều kiện phát sinh.


Quyết định giám đốc thẩm số 14/2015/DS-GĐT ngày 18 tháng 5 năm 2015.
Thực tiễn xét xử :
-

Bà Tao thỏa thuận bán căn nhà 36 Nguyễn Thị Diệu phường 6, Quận 3 TP. Hồ Chí
Minh với giá 1600 lượng vàng SJC. Bà Diệp đã đặt cọc 390 lượng vàng cho bà
Tao, theo thoản thuận thì bà Diệp phải trả 1000 lượng vàng trong đợt 2 nhưng vì
khơng đủ nên bà Diệp đã nhờ bà Tao tới nhà ơng Phương kí hợp đồng giả việc
mua bán nhà để bà Diệp vay tiền ông Phương trả tiền đợt 2. Nhưng tại nhà ông
Phương bà Tao chỉ nhận được 410 lượng vàng sau đó nhận thêm 340 lượng vàng
tại nhà bà Diệp. Còn lại 250 lượng bà Tao để cho bà Diệp đóng tiền mua hóa giá
nhà. Sau đó phát sinh tranh chấp do con trai bà Tao khơng đồng ý việc mua nhà
hóa giá và bán lại nhà cho bà Diệp

Hướng giải quyết của Tòa án :
-

Tòa Giám đốc thẩm : Hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao lại hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân thành phần TP Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm theo đúng quy định
của pháp luật.


VẤN ĐỀ 1 : CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG
Bản án 195/2017/DS-PT ngày 28/6/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang.
-

-

Thực tiễn xét xử : Ông Danh S trong lúc nhảy múa với ơng Danh H thì té ngã,
chấn thương sọ não, sau một thời gian chữa trị thì tử vong. Gia đình ơng Danh
S khởi kiện ơng Danh H u cầu bồi thường số tiền là 120.000.000 đồng.
Hướng giải quyết của Tòa án:
Tòa án cấp sơ thẩm : giải quyết theo quan hệ pháp luật “ Đòi bồi thường thiệt
hại do tính mạng bị xâm phạm”, ơng Danh H khơng có nghĩa vụ phải bồi
thường.

VẤN ĐỀ 2: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI PHÁT SINH TRONG TAI NẠN GIAO
THÔNG
Quyết định giám đốc thẩm số: 30/2006/HS-GĐT ngày 26-9-2006.
-

-

Thực tiễn xét xử : Chị Nguyễn Thị Tuyết Trinh nhờ Nguyễn Văn Giang điều
khiển moto chở bà Phạm Thị Phê và bà Phạm Thị Huol về nhà. Trên đường đi
thì đâm phải bà Nguyễn Thị Giỏi đang đi bộ qua đường, khiến bà bị ngã chấn
thương sọ não chết trên đường cấp cứu.
Hướng giải quyết của Tòa án :



Tòa án cấp sơ thẩm : Xử phạt chị Nguyễn Thị Tuyết 18 tháng tù treo, buộc chị,
anh Dương Văn Mướt và Nguyễn Văn Giang liên đới bồi thường 7.857.000
đồng cho bà Phùng Thị Vồi.
Tòa án cấp phúc thẩm : Xử phạt chị Nguyễn Thị Tuyết 18 tháng tù treo, buộc
chị, anh Dương Văn Mướt và Nguyễn Văn Giang liên đới bồi thường
25.357.000 đồng cho bà Phùng Thị Vồi.
Tòa Giám đốc thẩm : Hủy bản án cấp phúc thẩm giao lại cho Toàn án nhân dân
tỉnh An Giang.
VẤN ĐỀ 3: BỒI THƯỜNG TRONG HAY NGOÀI HỢP ĐỒNG
Quyết định giám đốc thẩm số: 451/2011/DS-GDT ngày: 20-6-2011.
-

-

Thực tiễn xét xử : Ông Đào Văn Nghinh có vay Chi nhánh ngân hàng nơng nghiệp
và phát triển nông thôn Yên Đổ một số tiền, khi vay ơng có thế chấp một căn nhà
cho ngân hàng. Sau này vì kinh tế khó khăn, làm ăn xa và sức khỏe không được tốt
nên không kịp đến trả lãi ngân hàng. Vì thế, Ngân hàng đã bán đấu giá ngôi nhà
của ông, nay ông khởi kiện Ngân hàng vì cho rằng việc tự ý phát mại ngơi nhà của
ông là không đúng với quy định pháp luật và làm thiệt hại tới quyền lợi của ông.
Hướng giải quyết của Tòa án :
Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm: Đình chỉ giải quyết vụ án.
Tịa án Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Hủy quyết định giải quyết kháng cáo và
quyết định đình chỉ vụ án, giao lại cho Toàn án nhân dân xét xử sơ thẩm theo đúng
pháp luật.

Bản án số 750/2008/DS-PT.
-

-


Thực tiễn xét xử : Bệnh nhân Trương Hồng Bá tiễn hành phẫu thuật nang mũi
mơi phải ở Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, sau đó vì nhiễm trùng
sau phẫu thuật do virust dẫn tới suy đa cơ quan nên bệnh nhân đa tử vong tại
bệnh viện Chợ Rẫy. Vợ của bênh nhân là bà Võ Thị Yên Phi khởi kiện Bệnh
viên Đại học Y Dược và yêu cầu bồi thường 403.229.187 đồng.
Hướng giải quyết của tòa án :
Tòa án cấp sơ thẩm : Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Hoàng
Yến.




×