Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.26 KB, 80 trang )

Lời mở đầu
Trong những năm vừa qua, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ không
ngừng tăng lên và đang dần khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế quốc
dân. Hàng năm các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoảng 26% GDP, 31%
tổng sản lượng công nghiệp, thu hút 26% lực lượng lao động. Doanh nghiệp vừa
và nhỏ chiếm 97% tỷ trọng số lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đây là
khu vực được đánh giá là rất có tiểm năng phát triển kinh tế.
Nghị định số 90/NĐ-CP ngày 23-11-2002 của Chính phủ về trợ giúp phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã nêu :" Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là
một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát tiển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa vả nhỏ phát huy tính chủ động sáng tạo,
nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học-công nghệ và nguồn lực..."
Nhận thức được điều này, trong thời gian qua các ngân hàng thương mại
đã chú trọng quan tâm đến các doanh nghiệp này. Nhất là khi môi trường kinh
doanh giữa các ngân hàng này càng trở nên khốc liệt thì việc nhắm tới các doanh
nghiệp vừa và nhỏ như là một đối tượng khách hàng đầy tiềm năng là chiến lược
phát triển tất yếu của các ngân hàng thương mại.
Nắm được chủ trưởng của Đảng và Nhà nước cũng như để bắt kịp với xu
hướng vận động của nền kinh tế, ngân hàng Công Thương Thanh Xuân trong
thời gian qua đã đẩy mạnh tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Và hoát
động này đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ nhưng cũng bộc lộ nhiều khó
khăn, hạn chế đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực tìm cách giải quyết để ngân hàng có
thể phát triển hơn nữa và tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy sau một
thời gian thực tập tại ngân hàng, em đã chọn đề tài :"Nâng cao chất lượng tín
1 1
dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Thanh
Xuân" cho chuyên đề tốt nghiệp.
Ngoài Lời mở đầu, Mục lục, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
Chuyên đề được kết cấu thành ba chương như sau:
Chương I: Tín dụng ngân hàng và Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với


DNV&N
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại NHCT
Thanh Xuân
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N ở
NHCT Thanh Xuân
2 2
Chương I-Tín dụng ngân hàng và Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với
DNV&N
1.1_Khái quát về DNV&N
1.1.1_Khái niệm
Việc đưa ra một khái niệm chính xác về doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất
khó khăn. Hiện nay, trên thế giới mỗi nước lại có một khái niệm về doanh nghiệp
vừa và nhỏ riêng của mình. Trong khu vực Đông Nam Á, Inđônêxia phân loại
doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên 3 tiêu thức là số lượng lao động, tổng giá trị
tài sản và doanh thu; Singapo thì chỉ dựa vào số lượng lao động và tổng giá trị tài
sản. Trong khu vực Châu Á, Hồng Kông xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ
dựa trên tiêu thức số lượng lao động, nhưng số lượng lao đông đặt ra cho các
ngành là khác nhau, với ngành dịch vụ thì lượng lao động nhỏ hơn so với lượng
lao động trong ngành công nghiệp. Cũng như vậy nhưng Hàn Quốc chia theo
thành 3 ngành, đó là các ngành: chế tạo máy và khai khoáng, xây dựng, dịch vụ.
Trên thế giới, Canada, Úc và Mỹ đều phân loại dựa vào số lượng lao động,
nhưng số lượng lao động làm tiêu chí thì ở mỗi nước là khác nhau.
Như vậy, ta thấy cho mặc dù có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại
doanh nghiệp vừa và nhỏ thì 2 tiêu thức được sử dụng phổ biến nhất là số lượng
lao động trung bình và tổng sổ vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm về
doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ đơn thuần phản ánh qui mô của doanh
nghiệp mà nó còn bao chùm nội dung về kinh tế, tổ chức sản xuất, quản lý và
tiến bộ khoa hoc công nghiệp. Tuỳ theo thực trạng về quy mô của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, trình độ phát triển của mỗi
nền kinh tế có tính đến xu hướng phát triển trong thời gian tới mà các nước có

3 3
tiêu chí xác định riêng của mình. Như vậy việc phân loại doanh nghiệp vừa và
nhỏ chỉ mang tính tương đối và nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Đối với Việt Nam, sau một thời gian nghiên cứu yêu cầu thực tế và học
hỏi kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, ngày 23/11/20011, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 90/NĐ-CP quy định lại tiêu chí để xác định doang nghiệp
vừa và nhỏ, như sau: " Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh
đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người ".
1.1.2_Đặc điểm
Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là mối quan tâm của các
NHTM vì đây là đối tượng khách hàng ngày càng có vai trò quan trọng trong
hoạt động của các ngân hàng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ bên cạnh những hạn
chế còn có những mặt tích cực. Việc tìm hiểu đặc điểm của doanh nghiệp vừa và
nhỏ sẽ giúp cho hoạt động giữa NHTM và các doanh nghiệp này đạt được hiệu
quả cao.
a_Quy mô hoạt động nhỏ
Quy mô hoạt động của một doanh nghiệp thường được đánh giá dựa trên
hai tiêu chí cơ bản là số vốn hoạt động và số lượng lao động trung bình. Đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ, số vốn đăng kí là dưới 10 tỷ đồng và số lượng lao
động trung bình không quá 300 người. Do đó, có thể nói quy mô hoạt động của
những doanh nghiệp này là không lớn khi so sánh trong tương quan nền kinh tế.
Quy mô vốn nhỏ bé, nên hầu hết các doanh nghiệp này đều gặp khó khăn
về vốn. Việc tiếp cận với các nguồn tài chính khác với những doanh nghiệp này
cũng là một vấn đề nan giải. Nguồn vốn tự có thấp, khả năng tiếp cận với các
nguồn vốn từ những tổ chức tín dụng thấp đã khiến cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ gặp hàng loạt các khó khăn khác trong quá trình sản xuất kinh doanh.
4 4
b_Khả năng cạnh tranh thấp
Do đặc điểm lượng vốn hoạt động nhỏ, thêm vào đó khả năng tiếp cận các

nguồn tài chính khác là thấp nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp khó
khăn trong việc mở rộng quy mô hoạt động, triển khai các dự án lớn, đầu tư sản
xuất mới. Bên cạnh đó, do không đủ vốn để đầu tư nâng cấp, đổi mới các máy
móc thiết bị, càng không đủ vốn cho hoạt động nghiên cứu khoa học kĩ thuật, các
doanh nghiệp này thường sử dụng công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém.
Chính vì vậy, các sản phẩm sản xuất ra thường có chất lượng thấp mà chi phí bỏ
cũng không nhỏ. Điều này làm giảm tính cạnh tranh của sản phẩm. Cũng vì lý do
vốn mà các doanh nghiệp này có nhiều hạn chế trong việc marketing, quảng cáo
sản phẩm, nắm bắt thông tin thị trường...Những điều này đã hạn chế khả năng
chiếm lĩnh thị trường, cũng như việc phát triển doanh nghiệp, do đó mà sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thấp.
c_Chịu ảnh hưởng lớn từ môi trường bên ngoài
Số lượng các doanh nghiệp nhỏ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các
doanh nghiệp, tuy nhiên tổng lượng vốn của các doanh nghiệp này lại không
chiếm phần lớn lượng vốn của nền kinh tế. Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp
lớn là trụ cột và được ví như đầu tàu của nền kinh tế. Các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thường làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, hoặc nếu là đối thủ thì cũng
luôn tránh phải đối đầu trực tiếp với các doanh nghiệp lớn vì khả năng cạnh
tranh thấp. Họ hoạt động không chỉ tuân theo xu thế vận động của nền kinh tế
như các doanh nghiệp lớn mà còn chịu ảnh hưởng rất lớn từ các doanh nghiệp
này.
d_Tính linh hoạt cao
5 5
Bên cạnh những những khuyết điểm kể trên, doanh nghiệp vừa và nhỏ còn
có một số ưu điểm nổi bật như bộ máy tổ chức đơn giản, gọn nhẹ, có tính năng
động, sự linh hoạt cao và khả năng thích ứng cao hơn các doanh nghiệp lớn trước
những biến động của thị trường.
Vì chịu ảnh hưởng lớn từ môi trường bên ngoài nên trong hoạt động sản
xuất kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính nhạy cảm cao đối với sự
thay đổi không ngừng của thị trường. Họ luôn phải cập nhật các thông tin từ thị

trường, từ các doanh nghiệp lớn và từ đối thủ.
Bên cạnh đó, chỉ cần một lượng vốn bổ sung không nhiều, các doanh
nghiệp này có thể dễ dàng đổi mới thiết bị và công nghệ hơn so với các doanh
nghiệp lớn. Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ứng dụng được các kĩ
thuật tiên tiến kết hợp tự động hoá, cơ khí hoá với lao động thủ công, trên cơ sở
đó từng bước đổi mới công nghệ. Do đó các doanh nghiệp này có thể thay đổi
một cách linh hoạt theo xu hướng của thị trường mà không cần quá nhiều vốn
đầu tư. Tuy nhiên, vốn lại luôn là vấn đề khó khăn của các doanh nghiệp này, vì
vậy nếu được đánh giá đúng khả năng, có dự án khả thi thì việc đầu tư cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đem lại lợi nhuận cao cho các NHTM
1.1.3_Vai trò của DNV&N
Khi nói đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia, chúng ta thường nghĩ
ngay đến các doanh nghiệp khổng lồ quen thuộc. Chẳng hạn như khi nói đến
nền kinh tế Nhật Bản thì người ta nghĩ ngay tới Mitsubishi, Toyota; nói đến Hàn
Quốc là Samsung...Trong khi đó, trên thực tế thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại
đóng một vai trò không nhỏ đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
a_Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động
Do có lợi thế là chỉ cần một lượng vốn nhỏ cũng có thể thành lập được
công ty, nhà xưởng, mở văn phòng... với chi phí thấp, tính năng động và tính linh
6 6
hoạt cao, có khả năng thích ứng với những nhu cầu thường xuyên thay đổi của
thị trường nên ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam số lượng doanh
nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn chiếm khoảng hơn 90% tổng số các doanh nghiệp.
Thêm vào đó, phần lớn các doanh nghiệp này hoạt động trong lĩnh vực
thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông sản, xây dựng và
giao thông vận tải...., lại thường sử dụng công nghệ lạc hậu, nửa cơ giới nửa thủ
công do vậy khả năng thu hút lao động của các doanh nghiệp này là rất lớn. Ở
Việt Nam, các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đóng góp hơn 25% GDP, 26%
việc làm thường xuyên và tạo ra 1,2 triệu việc làm mới mỗi năm. Trong khi đó
các doanh nghiệp lớn có kĩ thuật sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là

đối với các xí nghiệp tự động hoá sản xuất đã làm cho số người thất nghiệp ngày
càng tăng, phát sinh nhiều tiêu cực cho xã hội.
Ở Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng một vai trò quan
trọng trong việc thu hút các lao động nông nghiệp ở nông thôn trong các làng
nghề truyền thống. Các doanh nghiệp này đã giúp cho người nông dân có thêm
được thu nhập với các nghề truyền thống từ bao đời bằng việc xuất khẩu các mặt
hàng thủ công mĩ nghệ. Nhờ đó giảm được lượng lao động ồ ạt đổ lên thành phố
trong lúc nông nhàn, hơn thế nữa là giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc từ bao
đời nay của Việt Nam.
b_Thu hút nguồn vốn trong dân
Tiềm lực tài chính trong dân là rất lớn, tuy nhiên lại nằm rải rác, không tập
trung thành những khoản lớn đủ để đáp ứng cho những nhu cầu vốn với quy mô
lớn. Để thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì yêu cầu về vốn là không lớn
do đó các doanh nghiệp này được thành lập một cách dễ dàng, nằm phân tán
trong dân, đi vào tận các làng xóm. Vì vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng
vai trò quan trọng trọng việc thu hút nguồn vốn từ dân, tận dụng những nguồn
vốn nhỏ bé này cho sản xuất kinh doanh không để chúng nhàn rỗi. Mặc dù, số
7 7
vốn của một doanh nghiệp loại này nhỏ nhưng do số lượng doanh nghiệp là rất
lớn nên tổng lượng vốn thu hút được khá lớn.
c_Đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế
Do qui mô vừa và nhỏ nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đặt văn
phòng làm việc, nhà xưởng ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ, ở cả những nơi cơ sở
hạ tầng chưa phát triển nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, phát
triển kinh tế địa phương. Quy mô hoạt động cũng như trình độ công nghệ của
các doanh nghiệp này rất thích hợp với những ngành cần nhiều lao động thủ
công như ngành chế biến thuỷ-hải sản, may mặc, da giày, mà đây lại là những
ngành đem lại nhiều kim ngạch xuất khẩu cho cả nước. Đặc biệt với ngành thủ
công mỹ nghệ truyền thống, ngành mà việc sử dụng các công nghệ hiện đại và
sản xuất hàng loạt là rất khó khăn, thêm vào đó là việc phân bố rải rác ở khắp các

vùng nông thôn, thì doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò vô cùng quan trọng
trong việc thu gom, tiêu thụ sản phẩm không chỉ với thị trường trong nước mà
còn xuất khẩu ra nước ngoài.
Bên cạnh đó, do lợi thế của mình các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích
hợp với khu vực kinh doanh thương mại-dịch vụ bán lẻ. Trong khi đó các doanh
nghiệp lớn khó có thể tổ chức được một mạng lưới bán lẻ để tiêu thụ hàng hoá
của mình mà phải thông qua mạng lưới bán lẻ của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính vì vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng được nhu cầu của người tiêu
dùng kể cả ở những nơi xa xôi, cơ sở hạ tầng thấp kém một cách nhanh chóng
thuận tiện, do đó mà rút ngắn khoảng cách về kinh tế giữa các vùng, góp phần
làm cho nền kinh tế phát triển một cách đồng đều trên toàn lãnh thổ.
Thu hút được một lượng vốn lớn nhàn rỗi trong dân, khai thác tận dụng
được các tiềm năng thế mạnh của từng vùng, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp
lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế. Theo số liệu của UNDP thì doanh nghiệp
8 8
vừa và nhỏ đã đóng góp 26%GDP. Sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đã góp phần đáng kể trong việc huy động vốn đầu tư toàn xã hội, giải quyết
công ăn việc làm, tăng thu cho ngân sách Nhà nước, đóng góp phần lớn trong giá
trị GDP mà nền kinh tế tạo ra hàng năm.
d_Tạo sự linh hoạt cho nền kinh tế
Trên thực tế, tỷ trọng số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước luôn
chiếm trên 90%. Với ưu thế về yêu cầu vốn không lớn, và linh hoạt trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, do đó số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ gia tăng
không ngừng. Điều này góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn nhàn rỗi từ
dân, như vậy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tăng hiệu quả cho
việc sử dụng các nguồn lực tài chính. Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng đối
với công cuộc phát triển kinh tế đặc biệt là với Việt Nam- một nước đang phát
triển và đang trong lộ trình hội nhập kinh tế thế giới.
Bên cạnh đó, sự phát triển không ngừng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã

thu hút được một lượng lớn lao động nông nghiệp đang gia tăng ở các vùng nông
thôn chuyển sang làm việc ở lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ; nâng cao đời sống
cho nhiều bộ phận dân cư nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá. Có thể nói,
sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần quan trọng trong quá
trình chuyến dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Việc phát triển không ngừng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra sự
cạnh tranh không nhỏ giữa các doanh nghiệp kể cả với các doanh nghiệp lớn
trong nền kinh tế. Trong một thị trường cạnh tranh, những sản phẩm được sản
xuất ra phải không ngừng nâng cao chất lượng nếu không muốn bị đào thải. Mà
doanh nghiệp vừa và nhỏ lại nhạy cảm với sự biến động của thị trường, có tính
linh hoạt trong sản xuất, các sản phẩm sản xuất ra luôn bám sát với yêu cầu của
thị trường với chi phí thấp. Đây là thách thức rất lớn với những doanh nghiệp
lớn, khiến cho các doanh nghiệp này khó có thể lũng đoạn thị trường. Do đó, các
9 9
doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho nền kinh tế trở nên năng động, linh hoạt hơn,
lộ trình hội nhập với kinh tế thế giới cũng vì thế được rút ngắn hơn.
1.2_Tín dụng ngân hàng
1.2.1_Tín dụng- một hoạt động chủ yếu của các NHTM
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Ngân hàng được ví như mạch máu của
nền kinh tế. Sự phát triển kinh tế là điều kiện ra đời ngân hàng, đến lượt mình hệ
thống ngân hàng lại thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ngân hàng là một trong
những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm
nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài
chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất
về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ
vàng. Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu có. Họ thực hiện cất trữ hộ,
việc cất trữ hộ nhiều nghười khác là điều kiện để thực hiện thanh toán hộ. Điều
này đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Do tính chất vô danh của tiền,

nhà buôn tiền có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để cho vay.
Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền- kẻ cho vay
nặng lãi- thành nhà buôn tiền- Ngân hàng. Hoạt động cho vay dựa trên tiền gửi
của khách, tạo nên lợi nhuận lớn nên các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu
hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền.
Tóm lại: đứng trên góc độ các loại hình mà ngân hàng cung cấp thì ngân
hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán- và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong
10 10
nền kinh tế. Như vậy, ngay từ khi mới được hình thành cho đến nay, hoạt động
tín dụng luôn là hoạt động nòng cốt của các ngân hàng thương mại.
Tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy
nhiên, khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc các trung gian
khác)- ví dụ như tín dụng ngân hàng- thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay.
Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định
nhằm đảm bảo tính an toàn và khă năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể
hoá trong các qui định của ngân hàng Nhà nước và các NHTM. Ba nguyên tắc cơ
bản như sau:
Thứ nhất: khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian
xác định. Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản
tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có
trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu
cầu người nhân tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để
ngân hàng tồn tại và phát triển.
Thứ hai: khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích
được thoả thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các
qui định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp qui định phạm vi hoạt động cho
các ngân hàng. Bên cạnh đó, mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt
động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân

hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ đó là phù hợp
với cương lĩnh của ngân hàng.
Thứ ba: ngân hàng tài trợ trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực
hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án
hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn
đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn
11 11
liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an
toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
1.2.2_Các hình thức tín dụng ngân hàng
Trong một môi trường cạnh tranh gay gắt với đòi hỏi ngày càng cao và đa
dạng của hàng triệu khách hàng, các ngân hàng cũng luôn phải đa dạng hoá các
loại hình dịch vụ của mình nhằm đáp ứng được nhu cầu của thị trường, từ nhu
cầu của quốc gia, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp, các hộ gia đình cho
đến nhu cầu của mỗi các nhân riêng biệt. Bên cạnh đó, phần lớn nguồn vốn đưa
và kinh doanh của ngân hàng là lượng vốn nhãn rỗi trong dân cư, của các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế..do đó khi cấp tín dụng ngân hàng luôn phải xác định loại
hình cấp phát hợp lý nhằm hạn chế được rủi ro ở mức thấp nhất trên cơ sở đó tối
đa hoá lợi nhuận.
a_Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Căn cứ vào thời hạn tín dụng, người ta chiưa tín dụng thành 3 loại:
 Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn tín dụng dưới 12 tháng. Tín
dụng ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng
vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất, và phục vụ nhu
cầu sinh hoạt của cá nhân.
 Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín
dụng trung hạn nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm trang thiết bị, xây dựng
với qui mô nhỏ, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ hay để đầu tư cho các dự
án trung hạn. Ngoài ra, ngân hàng còn cấp tín dụng trung hạn cho người
tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như

nhà cửa, phương tiện vận chuyển.
12 12
 Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng
này được sử dụng nhằm cấp vốn cho các dự án lớn, đầu tư xây dựng cơ
bản, cải tiến khoa học công nghệ....
Tại các NHTM, tín dụng ngắn hạn thường được ưu tiên hơn và chiếm tỷ
trọng cao hơn tín dụng trung, dài hạn do nguồn vốn dành cho tín dụng
trung, dài hạn thường đắt và khan hiếm hơn. Hơn thế nữa, tín dụng trung,
dài hạn lại thường có rủi ro cao hơn. Việc phân chia các loại hình tín dụng
theo thời gian giúp cho ngân hàng có thể tính toán một cách tương đối rủi
ro có thẻ xảy ra, khả năng sinh lời của tài sản. Điều này cung liên quan
mật thiết đến công tác quản lý thanh khoản của các NHTM.
b_Căn cứ vào đối tượng khách hàng
Căn cứ vào đối tượng khách hàng, tín dụng ngân hàng được chia làm 2
loại như sau:
 Tín dụng cho khách hàng là các tổ chức kinh tế- xã hội: các tổ chức kinh
tế-xã hội bao gồm các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các tổ chức tín
dụng khác, các hộ sản xuất kinh doanh...
 Tín dụng cho khách hàng cá nhân: là loại tín dụng chỉ cấp cho nhu cầu của
từng cá nhân nhỏ lẻ.
Hiện nay, các ngân hàng thường phân chia các đối tuong khách hàng thành
khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng doanh
nghiệp lớn. Việc phân chia này giúp cho ngân hàng quản lý khách hàng và các
khoản vay tốt hơn do mỗi đối tượng này lai có nhu cầu tín dụng khác nhau. Bên
cạnh đó, quy trình nghiệp vụ tín dụng cho khách hàng doanh nghiệp và khách
hàng cá nhân rất khác nhau.
c_Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng
Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng, người ta có những loại tin dụng sau:
13 13
 Cho vay: đây là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng và cũng là

khoản mục mang lai nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng. Trong cho vay,
người ta lại chia ra thành các loại: cho vay thấu chi, cho vay trực tiếp từng
lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay gián tiếp, cho
vay trả góp...
 Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc
cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác
trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Tổng số tiền
thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải
tương đương với giá trị của tải sản đó tại thời điểm kí hợp đồng.
 Bảo lãnh: bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình
thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như
cam kết. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh;
khách hàng của ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo
lãnh là bên thứ ba.
Tóm lại: hiện nay, các NHTM đều thực hiện đa dạng hoá các hình thức tín
dụng từ cho vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách, mua các tài sản để
cho thuê...Để mở rộng tín dụng có hiệu quả, các ngân hàng không chỉ xây dựng
và thực hiện đúng đắn chính sách tín dụng mà phải luôn đa dạng hoá cá hình
thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Việc phân
loại các hình thức tín dụng theo các tiêu chí khác nhau giúp cho ngân hàng quản
lý thanh khoản tốt hơn, tăng khả năng dự báo và phong ngừa rủi ro, trên cơ sở đó
thu được lợi nhuận tối đa.
1.3_Chất lượng tín dụng đối với DNV&N
1.3.1__Khái niệm
14 14
Trong bất cứ nền kinh tế cạnh tranh nào, doanh nghiệp muốn đứng vững
và phát triển thì việc cải thiện chất lượng tín dụng là điều thiết yếu. Trong ba yếu
tố chất lượng, giá cả và lượng hàng bán thì yếu tố chất lượng là quan trọng nhất
vì chất lượng được nâng lên giá thành sẽ hạ, đảm bảo thoả mãn cho khách hàng

cả về chất lượng và giá cả, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường.
Có thể hiểu chất lượng tín dụng như sau: chất lượng tín dụng là sự đáp
ứng yêu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo
sự tồn tại , phát triển của ngân hàng.
Như vậy, chất lượng tín dụng được thể hiện trên các phương diện sau:
 Đối với khách hàng: tín dụng được cấp phải phù hợp với mục đích sử
dụng và đáp ứng được vốn của khách hàng, với lãi suất kì hạn hợp lý, thủ
tục đơn giản, thuận tiện, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm
bảo nguyên tắc tín dụng. Khoản tín dụng này phải giúp cho khách hàng
tạo ra lợi nhuận đủ để chi trả lãi cho khoản vay và tăng được giá trị tài sản
sở hữu cho khách hàng.
 Đối NHTM: phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực
của bản thân ngân hàng và đảm bảo được không chỉ mức độ an toàn của
vốn vay mà còn cả tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả
đầy đủ,đúng hạn và có lãi khi kết thúc hợp đồng tín dụng.
 Đối với sự phát triển của kinh tế- xã hội: tín dụng phục vụ sản xuất lưu
thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn, việc làm, khai thác những
tiềm năng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất, đáp ứng được những mục tiêu chung của Nhà nước về phát triển
kinh tế xã hội.
1.3.2_Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
a_Chỉ tiêu định tính
15 15
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể vừa trừu tượng, chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Việc quy định tiêu chuẩn cụ
thể cho các chỉ tiêu định tính là rất khó khăn, và nó chỉ mang tính tương đối. Căn
cứ vào tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng trong tương quan của toàn hệ thống
ngân hàng của mỗi một nền kinh tế, mỗi ngân hàng sẽ tự xác định tiêu chí cho
chỉ tiêu định tính khác nhau.
Các chỉ tiêu định tính có thể được đánh giá trên các khía cạnh sau:

 Việc thực hiện luật, các văn bản, chế độ hiện hành của ngành về
hoạt động tín dụng.
 Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù
hợp với yêu cầu cạnh tranh, phát triển kinh doanh của ngân hàng
trong từng giai đoạn cụ thể.
 Sự đóng góp của hoạt động tín dụng ngân hàng đến quá trình phát
triển kinh tế- xã hội.
 Uy tín của ngân hàng, mức độ thoả mãn của khách hàng đối với các
khoản tín dụng.
b_Chỉ tiêu định lượng
Đây là các chỉ tiêu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá chất
lượng tín dụng. Thông qua các chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xác định được một
cách khá chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng mình thông qua những
con số cụ thể. Vì thế, những con số được đưa ra để tính toán các chỉ tiêu này cần
phải chính xác và đầy đủ.
 Nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng:
 Dư nợ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: là số dư cuối kì trên bảng
cân đối kế toán của ngân hàng, chỉ tiêu này phản ảnh lượng vốn tại
16 16
thời điểm đó mà ngân hàng đã giải ngân cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
 Doanh số cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ: được tính bằng cách
cộng dồn các khoản vay trong một niên độ kế toán. Chỉ tiêu này
phản ánh lượng vốn mà các ngân hàng đã giải ngân cho các trong
nghiệp vừa và nhỏ trong một thời kì nhất định.
 Tỷ lệ dư nợ đối với DNV&N trên tổng dư nợ: phản ánh tỷ trọng dư
nợ tín dụng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng dư nợ của ngân
hàng.
 Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng đối với DNV&N: được tính bằng cách
lấy dư nợ cuối kì trừ đi dư nợ đầu kì, rồi chia cho dư nợ đầu kì.

Nhóm chỉ tiêu này phản ánh khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng đối
với đối tượng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như uy tín của ngân
hàng đối với đối tượng khách hàng này. Các chỉ tiêu trên càng cao càng thể hiện
được khả năng của ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng cho doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Tuy nhiên, các chỉ tiêu này không phản ánh hết được chất lượng tín dụng,
mà nó chỉ có thể phản ánh được quy mô, tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng tín dụng
vì đằng sau các khoản tín dụng đó còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tín dụng là khoản
mục đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt động đem
lại nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, khi đánh giá chất lượng tín dụng không chỉ dựa vào
nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng mà còn phải sử dụng một số nhóm chỉ tiêu khác
nhằm có sự đánh giá toàn diện hơn.
 Nhóm chỉ tiêu về nợ có đảm bảo:
 Chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy tỷ lệ phần trăm giữa nợ có tài
sản đảm bảo trên tổng dư nợ của NHTM tại một thời điểm nhất
17 17
định. Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng nợ có tài sản đảm bảo là lớn
hay nhỏ đối với tổng dư nợ.
Tài sản đảm bảo có thể giúp ngân hàng giảm thiểu được thiệt hại khi rủi ro
tín dụng xảy ra. Trong thực tế, các khoản vay cần có tài sản đảm bảo thì giá trị
của khoản vay đó không được vượt quá 70% giá trị tài sản đảm bảo. Các ngân
hàng đặc biệt là các NHTM Nhà nước đang cố gắng tăng dần tỷ trọng dư nợ có
tài sản đảm bảo, bởi đây là nguồn thu hồi nợ có giá trị của ngân hàng.
Bên cạnh đó, tài sản đảm bảo cũng làm tăng trách nhiệm của khách hàng
đi vay với khoản tín dụng được cấp, và tạo ra mối ràng buộc về lợi ích giữa
khách hàng và ngân hàng. Vì vậy, một tỷ lệ cao hay thấp dư nợ có tài sản đảm
bảo trên tổng dư nợ cũng phản ánh được chất lượng tín dụng của ngân hàng là
cao hay thấp. Tuy nhiên, chỉ tiêu này mới chỉ phản ánh khả năng thu hồi vốn của
ngân hàng khi có rủi ro xảy ra. Để đánh giá chất lượng tín dụng còn phải xét số
vốn thực tế chưa thu hồi được khi hết hạn hợp đồng tín dụng.

 Nhóm chỉ tiêu về nợ xấu:
 Tỷ lệ nợ quá hạn: được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn
trên tổng dư nợ của NHTM tại một thời điểm xác định. Nợ quá hạn
là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thoả thuận
trên hợp đồng. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng mất vốn của ngân
hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì khả năng mất vốn càng cao,
chất lượng tín dụng thấp.
 Tỷ lệ nợ khó đòi: là tỷ lệ phần trăm giữa nợ khó đòi trên tổng dư nợ
quá hạn của NHTM tại một thời điểm nhất định. Nợ khó đòi là
khoản nợ quá hạn đã quá một kì gia hạn nợ. Chỉ tiêu này phản ánh
một cách chính xác hơn khả năng mất vốn của ngân hàng. Tỉ lệ này
càng cao thì chất lượng tín dụng của ngân hàng càng thấp
18 18
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ
rủi ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng
hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản. Nợ khó đòi là một lời
cảnh báo cho ngân hàng. Tuy nhiên, khi đánh giá nợ quá hạn cũng cần phải chú ý
đến một số nghiệp vụ tín dụng như việc tính toán kì hạn nợ, điều chuyển kì hạn
nợ và gia hạn nợ có dựa trên những cơ sở đúng đắn hay không vì nợ gia hạn
không phải là nợ quá hạn có nghĩa là nó không nằm trong chỉ tiêu nợ quá hạn.
Nhưng chính nợ gia hạn cũng là phản ánh phần nào khả năng mất vốn của ngân
hàng. Nếu các ngân hàng gia hạn nợ không chú ý xem xét đến khả năng trả nợ
của khách hàng, mà chỉ cố gắng giảm chỉ tiêu nợ quá hạn nhằm tạo ra chất lượng
tín dụng giả tạo thì nợ gia hạn chính là nguy cơ lớn đối với ngân hàng, thậm chí
nó có thể dẫn ngân hàng đến tình trạng mất khả năng thanh toán.Vì vậy, trong
nhóm chỉ tiêu này ta có thể sử dụng cả chỉ tiêu nợ quá hạn như sau:
 Tỷ lệ nợ gia hạn: là tỷ lệ phần trăm giữa nợ gia hạn trên tổng dư nợ
của ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Tỷ lệ này càng thấp thì
chất lượng tín dụng của ngân hàng càng cao.
Những chỉ tiêu trên phản ánh mức độ an toàn vốn của ngân hàng. Những

chỉ tiêu này càng thấp thì phản ánh chất lượng tín dụng càng cao. Mặc dù mục
đích cao nhất của ngân hàng trong kinh doanh là an toàn, nhưng khi nói một
ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt thì không thể không nói đến khả năng sinh
lãi của các khoản tín dụng đó. Vì vậy, để có được sự đánh giá chính xác hơn về
chất lượng tín dụng thì không thể bỏ qua chỉ tiêu về lợi nhuận.
 Chỉ tiêu về lợi nhuận từ hoạt động tín dụng:
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng là lợi nhuận hàng năm từ hoạt động cho
vay của ngân hàng thường được tính tại thời điểm cuối năm. Chỉ tiêu này cao
phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng tốt và ngược lại. Vì bên cạnh mục
19 19
tiêu an toàn thì bất kì ngân hàng nào cũng phải hướng đến mục tiêu lợi nhuận
đặc biệt trong một nền kinh tế thị trường cạnh tranh.
Tóm lại: để có thể đánh giá chất lượng tín dụng một cách toán diện nhất
thì cần phải đánh giá đồng bộ các chỉ tiêu. Bởi vì mỗi chỉ tiêu chỉ có thể đánh giá
được chất lượng tín dụng là tốt hay xấu trên một phương diện nhất định.
1.3.3_Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
a_Nhân tố chủ quan
 Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, đảm bảo
hoạt động tín dụng của ngân hàng đi đúng quĩ đạo. Nó có ý nghĩa quyết định đến
sự thành công hay thất bại của một ngân hàng. Căn cứ vào tình hình cụ thể của
mỗi thời kì mà ngân hàng hoạch định cho mình một chính sách tín dụng phù
hợp. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ giúp cho ngân hàng thu hút được
khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời cho hoạt động tín dụng trên cơ sở phân
tán rủi ro, nhờ đó mà phát huy được năng lực của bản thân ngân hàng đồng thời
tận dụng được sự thuận lợi và hạn chế tối đa bất lợi từ môi trường kinh doanh.
Điều đó cũng có nghĩa là chất lượng tín dụng phụ thuộc vào sự đúng đắn của
chính sách tín dụng. Bất cứ ngân hàng nào muốn hoạt động tín dụng có chất
lượng đều phải có chính sách tín dụng thích hợp cho ngân hàng của mình.
 Quy trình tín dụng

Qui trình tín dụng bao gồm những qui định cần phải thực hiện trong trong
từng khâu của công tác tín dụng từ khi thẩm định, chuẩn bị cho vay, giải ngân,
giám sát quá trình cho vay đến khi thu hồi được nợ. Chất lượng tín dụng có đảm
bảo được hay không tuỳ thuộc vào sự hợp lý của các qui định ở từng bước, sự
thống nhất, chặt chẽ nhưng không rườm rà của toàn bộ qui trình.
20 20
Trong qui trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay (khách hàng nộp hồ sơ
xin vay vốn, ngân hàng xem xét, cân nhắc để quyết định cho vay hay không) là
bước quan trọng nhất, có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng vì đây là cơ
sở để định lượng rủi ro trong quá trình vay. Giám sát quá trình cho vay giúp ngân
hàng nắm được tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, nhờ đó có thể có
những biện pháp xử lí kịp thời nhằm ngăn ngừa rủi ro khi chất lượng khoản cho
vay bị đe doạ trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản
tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn.
Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các "trục trặc" trong
hoạt động của khách hàng. Việc xem xét, tìm nguyên nhân là rất quan trọng để
giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của
khoản tín dụng.
 Công tác thẩm định dự án vay vốn
Thẩm định dự án là việc dùng các phương pháp phân tích, thu thập xử lý
thông tin, số liệu liên quan đến khách hàng vay vốn và dự án xin tài trợ để dựa
vào đó mà ngân hàng đưa ra quyết định có tài trợ hay không. Đây là công tác có
ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng. Nếu kết quả thẩm
định không chính xác sẽ dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng. Như khi dự án vay vốn
có tính khả thi, doanh nghiệp có năng lực sử dụng vốn vay nhưng kết quả thẩm
định lại đánh giá không chính xác tính khả thi của dự án, đưa đến quyết định
ngân hàng không cho vay; điều này khiến cho ngân hàng mất một khoản lợi
nhuận hơn thế nữa là mất một khách hàng tốt. Ngược lại, nếu thẩm định mà
không đánh giá hết rủi ro của dự án thì quyết định cho vay sẽ khiến ngân hàng

gặp rủi ro khó có thể thu hồi được vốn, giảm chất lượng tín dụng.
Công tác thẩm định phải chính xác, thận trọng nhưng không mất quá nhiều
thời gian vì điều này sẽ kéo dài thời gian thực hiện dự án, giảm hiệu quả sản xuất
21 21
kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thông qua quá trình thẩm định dự
án, ngân hàng có thể tư vấn cho chủ đầu tư trên cơ sở những kinh nghiệm vốn có
của mình, giúp cho dự án hiệu quả hơn, đồng thời thắt chặt hơn mối quan hệ
giữa ngân hàng và khách hàng.
 Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng. Nhờ có thông tin tín dựng, người quản lý có thể đưa ra những quyết
địng cần thiết liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay.
Thông tin tín dụng có thể thu được từ các nguồn có sẵn ở ngân hàng như hồ sơ
vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, phân tích của cán bộ tín dụng...;
thông tin từ phía khách hàng như phỏng vấn trực tiếp, báo cáo định kì, từ các cơ
quan, tổ chức chuyên cung cấp thông tin tín dụng; hoặc từ các nguồn thông tin
khác như báo chí...Số lượng và chất lượng của thông tin có được liên quan đến
mức độ chính xác trong việc phân tích khách hàng, đánh giá thị trường để đưa ra
những quyết định phù hợp. Thông tin càng đầy đủ, chính xác, toàn diện và nhanh
nhạy thì khả năng nắm bắt cơ hội và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng
càng cao, chất lượng tín dụng từ đó mà được nâng lên.
 Công tác tổ chức và trình độ nghiệp vụ của cán bộ
Cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất đối với hoạt động tín dụng
của ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng. Đây là những người trực tiếp thực
hiện tất cả các khâu của qui trình tín dụng do đó việc bảo đảm an toàn và tính
sinh lời cho mỗi khoản tín dụng phụ thuộc vào trình độ cũng như đạo đức nghề
nghiệp của cán bộ tín dụng. Xã hội ngày càng phát triển thì càng đòi hỏi chất
lượng nhân sự cao hơn để có thể xử lý kịp thời, linh hoạt và hiệu quả những tình
huống có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng, giúp ngân hàng ngăn ngừa và hạn
chế rủi ro tín dụng.

22 22
Tuy nhiên, có một đội ngũ cán bộ có trình độ mới chỉ là điều kiện cần, để
có thể đảm bảo được chất lượng tín dụng thì việc tổ chức sắp xếp cán bộ sẽ là
điều kiện đủ. Công tác tổ chức cần phải sắp xếp một cách khoa học, đúng người,
đúng việc, đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, giữa các khâu
của hoạt động tín dụng. Việc tổ chức một cách chặt chẽ sẽ giúp cho ngân hàng
đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt
động, làm cho bộ máy của ngân hàng hoạt động trôi chảy, nhịp nhàng, nhanh
nhạy trước sự biến động không ngừng của môi trường kinh doanh.
 Vốn tự có của ngân hàng
Vốn tự có là tiềm lực của ngân hàng, giúp cho ngân hàng có đủ khả năng,
điều kiện để mở rộng tín dụng, đáp ứng được nhu cầu về vốn ngày càng lớn của
các doannh nghiệp, tổ chức cũng như các cá nhân. Vốn chủ sở hữu của ngân
hàng càng lớn thì khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn càng cao. Bên cạnh đó, vốn
chủ sở hữu là điều kiện quan trọng để ngân hàng đầu tư đào tạo cán bộ, nâng cấp
trang thiết bị cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, hiện đại hoá các
qui trình kĩ thuật, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng tín dụng.
 Trang thiết bị, cơ sở vật chất của ngân hàng
Để có thể quản lý và thực hiện hoạt động tín dụng hiệu quả, ngoài việc
nâng cao công tác hoạch định chính sách, công tác tổ chức quản lý ngân
hàng...thì cần phải chú ý tới các phương tiện vật chất cần thiết phục vụ cho hoạt
động tín dụng. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà các ngân hàng đang
cạnh tranh rất khốc liệt bằng các dịch vụ mang tính hiện đại cao, đem lại nhiều
tiện ích cho người sử dụng thì việc hiện đại hoá ngân hàng, trang bị cơ sở vật
chất tiên tiến là bước đi tất yếu đối với mỗi ngân hàng nếu muốn tồn tại và phát
triển. Việc trang bị đầy đủ trang thiết bị tiên tiến phù hợp với khả năng tài chính,
qui mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng đáp ứng
được yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng với chi phí thấp. Ngoài
23 23
ra, ngân hàng còn có thể nắm bắt kịp thời, chính xác thông tin về tình hình hoạt

động tín dụng.
Tóm lại: chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ nhiều nhân tố
thuộc nội tại của mỗi ngân hàng. Sự ảnh hưởng của các nhân tố này là khác
nhau, tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế và tình hình cụ thể của mỗi
ngân hàng. Vấn đề cần quan tâm là làm thế nào để có thể phát huy được những
ảnh hưởng tích cực, sử dụng một cách linh hoạt các nhân tố này để có thể thực
hiện hoạt động tín dụng có chất lượng.
b_Nhân tố khách quan
 Khách hàng
Khi một khoản tín dụng đã được cấp thì việc đảm bảo an toàn và tính sinh
lời của khoản vốn đó phụ thuộc rất nhiều vào chính khách hàng. Vì lúc đó họ là
người nắm giữ khoản tín dụng. Vì vậy, khách hàng là một trong những nhân tố
quan trọng nhất ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Nếu chỉ có sự nỗ lực từ phía
ngân hàng thì khoản tín dụng được cấp cũng không được coi là có chất lượng.
Để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả cho các khoản tín dụng của ngân hàng thì
khách hàng phải có năng lực ( về tài chính, quản lý điều hành, trình độ lao
động...), có dự án kinh doanh khả thi và có đạo đức nghề nghiệp, có như vậy thì
chất lượng tín dụng mới được nâng cao.
Năng lực tài chính của khách hàng mà cụ thể ở đây là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ thể hiện ở khả năng sinh lãi, vốn tự có, tài sản đảm bảo... Năng lực
tài chính càng cao thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp càng cao, đảm bảo được
tính an toàn cho khoản vốn tín dụng.
Năng lực quản lý điều hành và trình độ của lao động trong doanh nghiệp
cũng không kém phần quan trọng. Đây là yếu tố mang tính quyết định đến việc
sinh lời của khoản tín dụng. Khả năng làm việc, trình độ cũng như năng lực quản
24 24
lý của doanh nghiệp sẽ làm cho khoản vốn được sử dụng đúng mục đích, có hiệu
quả tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp đủ để doanh nghiệp có thể trả lãi cho ngân
hàng đầy đủ, đúng hạn và tăng được vốn chủ sở hữu như kế hoạch đã đề ra.
 Môi trường kinh tế

Môi trường kinh tế là tiền đề cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong
nền kinh tế đó. Nền kinh tế phát triển ổn định sẽ làm cho các hoạt động kinh tế
diễn ra trôi chảy. Trong nền kinh tế ấy, hoạt động tín dụng sẽ khônh phải chịu
ảnh hưởng của lạm phát, khủng hoảng hay những sự biến động bất thường của
lãi suất, vì vậy mà chất lượng tín dụng được đảm bảo hơn. Trong trường hợp này
thì chất lượng tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào các nhân tố chủ quan tức là các
nhân tố thuộc phía NHTM.
Tuy nhiên, để phát triển nền kinh tế thì bất kì quốc gia nào cũng giữ cho
mình một mức lạm phát vừa phải phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế của chính
quốc gia đó. Vì vậy, qui mô tín dụng của các NHTM cấp ra và lãi suất tín dụng
phải phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu qui mô tín dung mở rộng
vượt quá mức tăng của nhu cầu vốn trong nền kinh tế thì rất có thể xảy ra lạm
phát, dẫn đến tình trạng đồng tiền mất giá, do đó chất lượng tín dụng bị giảm
xuống. Còn nếu lãi suất tín dụng không phù hợp với mức tăng trưởng GDP thì
ngân hàng khó có thể mở rộng cho vay. Bên cạnh đó, lãi suất ngân hàng còn phải
phù hợp với mức lợi nhuận của từng ngành, để khi cho bất kì một doanh nghiệp
trong một ngành cụ thể vay thì lợi nhuận họ thu được từ hoạt động kinh doanh
được tài trợ đủ để trả lãi cho ngân hàng và tăng được vốn chủ sở hữu như kế
hoạch.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng tín dụng thì công tác dự báo và khả năng
nắm bắt thông tin thị trường, khả năng ứng phó kịp thời trước những biến động
bất thường của nền kinh tế là vô cùng quan trong đỗi với mỗi ngân hàng thương
mại.
25 25

×