Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Quá trình đổi mới nhận thức của ĐCSVN về kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN VN, ý nghĩa và định hướng vận dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.07 KB, 10 trang )

Câu 9: Quá trình đổi mới nhận thức của ĐCSVN về kinh tế nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN VN? Ý nghĩa và định hướng vận dụng?
Trả lời:
1/. Quá trình đổi mới nhận thức của ĐCSVN về kinh tế nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN VN.
Trong quá trình đổi mới, nhận thức của Đảng ta về những nội dung cơ bản của nền kinh
tế như chế độ sở hữu và thành phần kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, chế độ phân phối và hội
nhập kinh tế quốc tế từng bước phát triển, tiến tới hình thành những nét cơ bản về nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, quá trình phát triển nhận thức của Đảng về sở hữu và thành phần kinh tế
Trước Đại hội VI của Đảng, chế độ sở hữu với nhiều hình thức sở hữu đan xen, hỗn hợp
và nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh khác nhau
không được thừa nhận ở nước ta. Chế độ sở hữu được quy về hai hình thức chính là sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể. Các hình thức sở hữu tồn dân, tập thể và các thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, cịn các hình thức sở hữu và thành phần
kinh tế khác như kinh tế cá thể, tiểu chủ,… là đối tượng cải tạo, phải thu hẹp dần và tiến tới bị
thủ tiêu, xóa bỏ.
Đến Đại hội VI, quan điểm nói trên đã được thay đổi một cách căn bản, khi Đảng xác định quá
trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là q trình chuyển hóa từ nền kinh tế cịn
nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa(1). Có thể nói, đây là điểm đột phá
trong lý luận về mơ hình phát triển. Bởi trước đó, trong các văn kiện chỉ mới nói tới việc sử
dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, thì nay đã khẳng định là chuyển nền kinh tế tự cung, tự cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X, Đảng đã
hoàn thiện quan niệm về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Cụ thể:
- Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, tập thể và tư nhân, hình thành nhiều hình thức sở
hữu: sở hữu nhà nước; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu hỗn hợp và sở hữu nhà đầu tư
nước ngoài.
1



- Các thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi(2). Các
thành phần kinh tế này có các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng với sự đan xen, hỗn hợp
của các loại hình sở hữu.
Trên cơ sở đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội, tại các Đại hội VI, VII, VIII, IX và X, Đảng đều chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Trong nền kinh tế ấy, như khẳng
định của Đảng tại Đại hội X: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận
hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước
pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo
môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư
nhân có vai trị quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”(3). Quan điểm này
cũng được Đảng tái khẳng định và cụ thể hóa thêm tại Đại hội XI.
Đến dự thảo Văn kiện trình Đại hội XII, Đảng ta xác định: Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các
chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật;…
Thứ hai, quá trình phát triển nhận thức của Đảng về doanh nghiệp nhà nước
Trước đây, với nhận thức giản đơn coi càng nhiều sở hữu nhà nước đồng nghĩa với việc
càng tiến gần đến chủ nghĩa xã hội, Việt Nam cũng như nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác đã
chủ trương xây dựng nền kinh tế gồm hai thành phần chủ yếu: kinh tế nhà nước với lực lượng
chủ yếu là các xí nghiệp quốc doanh và kinh tế tập thể với lực lượng chủ yếu là các hợp tác xã.
Kinh tế tư nhân bị xóa bỏ hầu như hoàn toàn trong hầu hết các ngành sản xuất vật chất của nền
kinh tế; kinh tế cá thể chỉ được hoạt động trong nông nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ.
Với nhận thức như vậy, xí nghiệp quốc doanh chiếm vị trí độc tơn, được Nhà nước trực
tiếp phân bổ các nguồn lực và kiểm soát tất cả các khâu hoạt động kinh tế, không phải cạnh
2



tranh thị trường nên không chú trọng đến hiệu quả, khơng có động lực quan tâm đến năng suất,
chất lượng sản phẩm. Chính vì vậy, tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả đã kéo dài và
phổ biến ở hầu hết các xí nghiệp quốc doanh. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở hầu hết các hợp
tác xã. Đó là một trong các nguyên nhân quan trọng dẫn đến khủng hoảng trầm trọng của nền
kinh tế vào những năm 80 của thế kỷ XX.
Từ Đại hội VI và các kỳ đại hội tiếp theo, trên cơ sở thừa nhận sự tồn tại khách quan, lâu
dài của nhiều thành phần kinh tế, nhận thức về vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế cũng được đổi mới một cách căn bản. Theo đó, doanh nghiệp nhà nước phải có cơ cấu
hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng; không nhất thiết
phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế(4).
Từ đổi mới nhận thức này, Đảng đã ban hành các chủ trương về tiếp tục đổi mới cơ chế
quản lý để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh
tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Sự đổi mới
quan trọng ở đây là phân biệt rõ quyền sở hữu nhà nước về tài sản có tại các doanh nghiệp và
quyền sử dụng tài sản đó để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, thể
hiện trên các mặt sau:
- Tách bạch vai trò của Nhà nước với tư cách là bộ máy cơng quyền quản lý tồn bộ nền
kinh tế - xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước ở doanh nghiệp nhà nước.
- Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh
của doanh nghiệp nhà nước.
- Thu hẹp và tiến tới xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, ủy ban
nhân dân đối với tài sản, vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có tài sản, vốn nhà nước.
- Tiếp tục đổi mới, củng cố và phát huy vai trị của mơ hình cơng ty đầu tư và kinh doanh
vốn nhà nước(5).
Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu: Tiếp tục đẩy mạnh cơ
cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng: doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh
vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác khơng đầu tư.

Thứ ba, q trình phát triển nhận thức của Đảng về phân phối
3


Trước đổi mới, nhận thức về phân phối trong chủ nghĩa xã hội có phần giản đơn, cho
rằng phân phối càng đồng nhất càng tốt và đã đồng nhất công bằng xã hội với chủ nghĩa bình
quân, lẫn lộn giữa thu nhập theo lao động và phúc lợi xã hội, thành kiến với thu nhập cao, bất
kể nguồn thu nhập đó do lao động hay khơng do lao động.
Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới, việc phân phối bình quân và việc phân phối theo
lao động như quan niệm trước đây trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội đã được thừa
nhận là một sai lầm rất nghiêm trọng(6). Qua các kỳ Đại hội (VI, VII, VIII, IX, X và XI), nhận
thức của Đảng về phân phối đã được đổi mới và hoàn thiện dần.
Tại Đại hội VI, Đảng đã khẳng định phải thực hiện công bằng xã hội, thực hiện đúng
nguyên tắc phân phối theo lao động. Cụ thể, bảo đảm cho tập thể, người lao động có thu nhập
thỏa đáng phụ thuộc trực tiếp vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, có tác dụng khuyến
khích nhiệt tình lao động(7).
Đến Đại hội VII, Đảng đã mở rộng nội dung của nguyên tắc phân phối theo hướng thực
hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu; khuyến khích tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động(8); nâng cao phúc lợi xã
hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế(9); có chính sách bảo trợ và điều tiết hợp lý thu nhập
giữa các bộ phận dân cư, các ngành và các vùng(10). Đến Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII (01-1994), Đảng đã đưa ra quan điểm: “Phân phối theo lao động là chủ yếu,
khuyến khích và đãi ngộ xứng đáng các tài năng; đồng thời phân phối theo nguồn vốn đóng góp
vào sản xuất, kinh doanh”(11). Đây là lần đầu tiên, ngoài phân phối theo lao động là chính, việc
phân phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất, kinh doanh được chính thức thừa nhận và
được coi là một sự phân phối hợp pháp, hợp lý trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội VIII, Đảng đã khẳng định: “Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức
đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc
lợi xã hội, đi đơi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động”(12). Ở

đây, việc phân phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất, kinh doanh khơng được nhắc tới,
thay vào đó là các nguồn lực khác, trong đó có nguồn vốn.
4


Đến Đại hội IX, Đảng chỉ rõ: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; đồng thời phân phối theo mức
đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội”(13). Đây
là một bước tiến mới so với các nguyên tắc phân phối được nêu trong Văn kiện các Đại hội VI,
VII và VIII, bởi nó đã khẳng định nguyên tắc phân phối của cả thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội - thời kỳ cịn tồn tại nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế.
Tại các Đại hội X và XI, Đảng tiếp tục khẳng định và hoàn thiện nguyên tắc phân phối đã
được nêu qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX và coi đó là nguyên tắc phân phối của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm, một mặt, thực hiện công bằng xã hội và khuyến khích mọi người
làm giàu, xóa đói, giảm nghèo; mặt khác, giúp kiềm chế sự gia tăng bất bình đẳng xã hội với
nội dung phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã
hội, phúc lợi xã hội(14).
Trong dự thảo Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta xác định: thị trường đóng vai trị chủ yếu
trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải
phóng sức sản xuất. Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế,
tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà
nước và cơng cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh
doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội trong từng bước, từng chính
sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, quá trình phát triển nhận thức của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
Nhận thức của Đảng về quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta trong những năm qua cũng
có những thay đổi mang tính bước ngoặt.
Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng chỉ rõ: “Nước ta phải tham gia sự phân công lao động
quốc tế; trước hết và chủ yếu là mở rộng quan hệ phân công, hợp tác tồn diện với Liên Xơ, Lào

và Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở
mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp
phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngồi trên ngun tắc bình đẳng, cùng có
lợi”(15).
5


Tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3-1989), quan điểm
trên được tiếp tục khẳng định và phát triển khi Đảng kết luận rằng, trong nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, thị trường xã hội là một thể thống nhất, thông suốt trong cả nước và gắn với
thị trường thế giới; nước ta phải đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại và tham gia tích cực vào
sự phân cơng lao động quốc tế(16).
Đến Đại hội VII (6-1991), quan điểm của Đảng về quan hệ kinh tế đối ngoại có những
thay đổi mạnh mẽ với chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước, các tổ chức quốc
tế, các cơng ty và tư nhân nước ngồi(17).
Đặc biệt, đến Đại hội VIII (6-1996), quan điểm của Đảng về quan hệ kinh tế đối ngoại đã
có những thay đổi mang tính bước ngoặt với nội dung mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế
giới(18).
Đến Đại hội IX (4-2001) và các Đại hội tiếp theo, quan điểm nói trên tiếp tục được khẳng
định và phát triển thêm với chủ trương tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư theo hướng giảm
mạnh, tiến tới xóa bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngồi(19); mở rộng,
nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế(20) nhằm góp
phần để nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành thông suốt, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội(21). Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn
mạnh quan điểm: Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả
ngoại lực và nội lực, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Điểm bổ sung ở đây là cụm
từ “tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể”, “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự

chủ”, thể hiện sự phát triển về tư duy và kinh nghiệm rút ra trong hội nhập kinh tế quốc tế của
nước ta trong gần 30 năm đổi mới.
2/. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn vận dụng
Giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (2001 đến
nay) “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo
6


định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Như vậy, Đại hội IX của Đảng (4/2001) chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường
định hướng XHCN”. Đây là kết quả của quá trình 15 năm đổi mới tư duy và thực tiễn ở nước ta,
được đúc kết lại trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá và rút ra các bài học lớn tại các kỳ Đại hội
Đảng, đặc biệt là Đại hội VII, VIII.
Nhận thức về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được sáng tỏ,
được phát triển cả về lý luận và thực tiễn qua Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Đặc biệt là
quan điểm về tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là: “ Thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ
và khơng ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển nền kinh tế
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ
đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều hành nền kinh tế của nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Ngoài mục tiêu của nền kinh thị trường là lợi nhuận
thì mục tiêu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhằm
phát triển lực lượng, giải phóng sức sản xuất của xã hội và từng bước xây dựng tiền đề vật chất
cho chủ nghĩa xã hội. Đó là kim chỉ nam cho sự phát triển mơ hình có tính đặc thù mà trong lịch
sử chưa có tiền lệ.

Quan điểm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng tại Đại
hội XI được nêu cụ thể hơn:“nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa
được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”. Phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phục vụ yêu cầu tăng trưởng kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa
trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản
7


chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa có nhân
tố của kinh tế thị trường vừa có nhân tố định hướng XHCN. Trong đó, nhân tố kinh tế thị
trường đóng vai trò như là “động lực” thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, còn nhân tố
định hướng XHCN đóng vai trị hướng dẫn, điều khiển, chế định sự vận động của nền kinh tế
theo những mục tiêu đã xác định. Vì thế có thể khẳng định rằng, trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta vẫn có những thuộc tính, những quy luật chung của kinh tế thị trường, nhưng nhất thiết
phải có những đặc điểm riêng biệt của nó. Biểu hiện là Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường
bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách,... và sử dụng cơ chế thị trường để
kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất; phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường và định hướng phát triển nền kinh tế. Phân phối trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phối
hợp các hình thức phân phối khác như: phân phối theo vốn, tài năng, tài sản đóng góp vào sản
xuất và thông qua phúc lợi xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1/2016) tiếp tục làm rõ hơn những vấn đề cốt lõi
về bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội XII khẳng
định:“Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam

lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Điều đó có
nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không khác biệt mà mang đầy đủ các đặc trưng phổ biến của
kinh tế thị trường như: tự do kinh doanh và cạnh tranh; mở cửa và hướng tới tự do hóa; đa dạng
hóa các hình thức sở hữu; lấy quy luật giá trị và quan hệ cung cầu để xác định giá cả; coi cạnh
tranh là động lực phát triển;... vận hành với các cơ chế, cách thức được xác định rõ theo hướng
vừa bảo đảm phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, vừa bảo đảm công bằng xã hội và phát
huy vai trị tích cực trong hỗ trợ phát triển của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang tính phổ biến
(đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng riêng của tính định hướng xã
hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này cùng tồn tại, kết hợp và bổ sung cho nhau. Trong đó,
8


nhóm đặc trưng chung đóng vai trị là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhóm đặc trưng
riêng đóng vai trị hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn
đã chứng minh việc lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự
nắm bắt và vận dụng xu thế khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng
Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát,
đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của
lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Như vậy, có thể thấy,
quan điểm của Đảng về quan hệ kinh tế đối ngoại đã có sự thay đổi mạnh mẽ, từ chỗ khép kín,
chỉ có quan hệ kinh tế với một số ít nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam chuyển sang thực hiện đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế với tất cả các nước và khu vực trên thế giới với
phương châm tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
Tóm lại, quá trình hình thành và phát triển lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam cho thấy, từ chỗ chấp nhận đến thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản

xuất hàng hóa, của các thành phần kinh tế và cơ chế thị trường, từ nhận thức dần dần về các bộ
phận cấu thành, những yếu tố riêng rẽ, đến nay mơ hình tổng thể về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ nét hơn với đầy đủ hơn các yếu tố cấu thành, mối quan hệ
giữa các bộ phận cấu thành, vị trí, vai trị, chức năng của từng yếu tố, từng bộ phận. Theo đó, tư
duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được sáng tỏ, góp phần
làm cho nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng rõ nét hơn. Đó là thành quả của quá trình gắn lý luận với thực tiễn, tổng kết thực tiễn để
làm rõ lý luận, thành quả của quá trình tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của đất nước trên cơ sở nhận thức sâu sắc bối cảnh
thời đại, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm đổi mới, cải cách của các nước và tinh hoa nhân loại.
Mặc dù khơng có những bước đột phá nhanh và mạnh trong tư duy lý luận về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng những đổi mới về lý luận theo hướng thận trọng, vững
9


chắc, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, vừa hoàn thiện đã góp phần quan trọng quyết định sự thành
cơng của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta./.

10



×