Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.23 KB, 8 trang )

Giá trị của triết học Becun đối với sự nghiệp cách tân xã hội
Triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại
1. Điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm của triết học Tây Âu thời Phục hưng và cận
đại
Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội phong kiến
sang xã hội tư bản (thế kỷ XV - XVI). Tính chất quá độ đó biểu hiện trên tất cả các mặt
của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá tư tưởng thời kì này.
Về kinh tế: Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và
các đạo luật hà khắc Trung cổ đã bước vào thời kì tan rã. Nhiều công trường thủ công
xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước khác, thay thế cho nền
kinh tế tự nhiên kém phát triển.
Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển của khoa học, kĩ thuật.
Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện. Với việc sáng chế ra máy kéo sợi và
máy in đã làm cho công nghiệp dệt, công nghệ ấn loát đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh.
Sự khám phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người có thể sản xuất
có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động.
Những phát kiến về đường biển, tìm ra những miền đất mới, phát hiện ra châu Mỹ càng
tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Thương mại, thị
trường trao đổi hàng hoá giữa các nước được mở rộng; giao lưu quốc tế được tăng cường,
nhờ đó mà các nước phát triển sớm như Anh, Pháp, Tây Ban Nha thi nhau xâm chiếm
thuộc địa để mở rộng việc khai thác thiên nhiên và thị trường tiêu thụ hàng hoá.
Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã hội Tây
Âu thời kì này, sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện gồm các
chủ xưởng công trường thủ công, xưởng thợ, thuyền buôn Vai trò và vị trí của họ trong
kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn di cư ra thành thị, trở
thành người làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ tham gia vào lực lượng lao
động xã hội mới, làm hình thành giai cấp công nhân. Các tầng lớp xã hội trên đại diện
cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang
suy tàn.
Về văn hoá, tư tưởng: Cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội, khoa học kĩ thuật và tư
tưởng thời kì Phục hưng cũng đạt được sự phát triển mạnh mẽ. Các nhà tư tưởng thời


Phục hưng đã phê phán mạnh mẽ các giáo lý Trung cổ. Mở đầu là nhà triết học người
phía Nam nước Đức, Nicôlai Kuzan (1401-1464). Tiếp đó là các nhà khoa học - triết học
như Nicôlai Côpecnich (1475-1543) người Ba Lan; Lêôna đơ Vanhxi (1452-1519) - nhà
danh hoạ, nhà toán học, cơ học, kĩ sư người Italia; Gioocđanô Brunô (1548-1600) người
Italia; Galilêô Galilê (1564-1642) người Italia. Trong số những thành tựu khoa học tự
nhiên có ảnh hưởng to lớn đến nhận thức duy vật về thế giới, nổi trội hơn cả là thuyết
nhật tâm của Nicôlai Côpecnich (1475-1543), nhà bác học vĩ đại người Ba Lan. Nicôlai
Côpecnich đã đứng trên lập trường của triết học duy vật để bác bỏ thuyết địa tâm do
Ptôlêmê (người Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ thứ II, một giả thuyết sai lầm coi quả đất là
trung tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich đã giáng một
đòn nặng nề vào thế giới quan tôn giáo, thần học. Giả thuyết của ông là một cuộc cách
mạng trên trời, báo trước một cuộc cách mạng trong lĩnh vực các quan hệ xã hội sắp xảy
ra.
Trong thời đại Phục hưng, các nhà tư tưởng tư sản đã bênh vực triết học duy vật, vận
dụng nó để chống lại chủ nghĩa kinh viện và thần học Trung cổ. Cuộc đấu tranh của chủ
nghĩa duy vật chống chủ nghĩa duy tâm thường được biểu hiện dưới hình thức đặc thù là
khoa học chống tôn giáo, tri thức thực nghiệm đối lập với những lập luận kinh viện. Cuối
cùng, sự chuyên chính của giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện Trung cổ đã
không ngăn được sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm và triết học duy vật -
tiền đề cho những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học trong các thế kỷ
tiếp theo.
Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các mặt của đời sống xã
hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa tư bản, của khoa học và tư tưởng, trong đó
có chủ nghĩa duy vật triết học, nhưng với những đặc điểm mới.
Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước Tây Âu là thời
kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị trước giai cấp phong kiến. Ba cuộc
cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành công: Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ
XVI ; Cách mạng tư sản Anh (1642-1648); Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794). Đây
cũng là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành phương
thức sản xuất thống trị Tây Âu. Nó tạo đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ

thuật phát triển mà trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là
cơ sở cổ điển. Đặc điểm của khoa học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực
nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự
trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển, nếu có nói đến vận động
thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho triết học
duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu hình.
Chính những điều kiện kinh tế - chính trị và khoa học tự nhiên thời cận đại đã quy định
những đặc trưng về mặt triết học thời kì này:
Thứ nhất, đây là thời kì thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm, của
những tư tưởng vô thần đối với hữu thần luận.
Thứ hai, chủ nghĩa duy vật thời kì này mang hình thức của chủ nghĩa duy vật siêu hình,
máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong lĩnh vực tư duy triết học và
khoa học.
Thứ ba, đây là thời kì xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh vực xã hội,
nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích xã hội và
lịch sử.
Những đặc điểm ấy thể hiện rõ nét trong quan niệm của một số triết gia, điển hình như
B.Xpinôda, Ph.Bêcơn. T.Hôpxơ, R.Đêcactơ, G.Lamettri, Đ.Điđơrô, P.Hônbách,
G.G.Rutxô.
Thứ tư, trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật vô thần của thời cận đại, chủ
nghĩa duy tâm và thần học buộc phải có những cải cách nhất định. Nhu cầu ấy được phản
ánh đặc biệt trong triết học duy tâm chủ quan của nhà triết học thần học người Anh
G.Beccơli.
2. Triết học Becon
a. Phranxis Bêcơn (1561-1621)
Phranxis Bêcơn (Francis Bacon) là nhà triết học vĩ đại thời cận đại. C.Mác coi Ph.Bêcơn
là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm. Bắt đầu từ Ph.Bêcơn, lịch
sử triết học Tây Âu bước sang một giai đoạn phát triển mới với những màu sắc riêng.
Ph.Bêcơn sinh trong một gia đình quý tộc Anh. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học
Kembritgiơ, ông công tác nhiều năm trong ngành ngoại giao cho vương triều Xtiua. Mặc

dù sống ở nước Anh trước thời kì cách mạng tư sản, nhưng Ph.Bêcơn là người nhiệt liệt
ủng hộ những cải cách tư sản nhằm phát triển đất nước, ủng hộ sự phát triển của khoa học
và triết học. Những tác phẩm lớn của ông là Đại phục hồi các khoa học (1605), Công cụ
mới (1620)
b. Quan niệm của Ph.Bêcơn về bản chất, nhiệm vụ của khoa học và triết học
Sống trong thời kỳ đêm trước của cuộc cách mạng tư sản Anh, Ph.Bêcơn đã nhận thấy
vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học và triết học và sự cần thiết phải đẩy mạnh sự
phát triển của chúng như một nền tảng lý luận của công cuộc phát triển kinh tế của đất
nước. Ông coi đó là một phương tiện cơ bản nhằm xoá bỏ những bất công xã hội, xây
dựng cuộc sống phồn vinh. Khác với những nhà nhân đạo cộng sản không tưởng,
Ph.Bêcơn khẳng định phải cải tạo chính xã hội hiện thực đương thời trên cơ sở phát triển
khoa học và triết học chứ không phải bằng cách tạo ra mô hình lý tưởng. Ông cho rằng,
mục đích của xã hội là nhận thức các nguyên nhân và mọi sức mạnh bí ẩn của các sự vật
và mở rộng sự thống trị của con người đối với giới tự nhiên trong chừng mực con người
có thể làm được.
Chịu ảnh hưởng của quan niệm trước đây coi triết học là khoa học của các khoa học,
Ph.Bêcơn hiểu triết học theo hai nghĩa. Triết học theo nghĩa rộng là tổng thể các tri thức
lý luận của con người về Thượng đế (học thuyết về Thượng đế), về giới tự nhiên (học
thuyết về giới tự nhiên) và về bản thân con người (học thuyết về con người); học thuyết
về Thượng đế là thần học, chỉ có bộ phận thần học tự nhiên (tức học thuyết lý giải
Thượng đế dưới góc độ nghiên cứu khoa học, vạch ra những khía cạnh hợp lý của nó)
mới thuộc về triết học, còn bộ phận thần học Thượng đế (tức xem xét Thượng đế dưới
góc độ tôn giáo) thì thuộc về lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng Học thuyết về tự nhiên trong
triết học được Ph.Bêcơn gần như đồng nhất với khoa học tự nhiên, còn học thuyết về con
người thì được coi là nhân bản học. Theo Ph.Bêcơn, khác với bộ môn lịch sử và các dạng
nhận thức nghệ thuật chỉ đơn thuần dựa vào khả năng trí nhớ hay biểu tượng của con
người, triết học và khoa học mang tính lý luận và khái quát cao. Tư duy triết học là tư
duy lý tính, mang tính trí tuệ cao nhất.
Theo nghĩa rộng, triết học hầu như đồng nhất với tất cả các khoa học, bao chứa mọi khoa
học khác. Theo nghĩa hẹp, triết học là bộ phận cơ bản nhất trong tổng thể các khoa học.

Đó là nền tảng và cơ sở của mọi khoa học khác, đồng thời nó đã bao chứa toàn bộ các
lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Ph.Bêcơn cho rằng nhiệm vụ của triết học là đại phục hồi các khoa học, nghĩa là phải cải
tạo toàn bộ các tri thức mà con người đạt được thời đó. Ph.Bêcơn chỉ ra rằng khoa học
mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại chứ không riêng cho ai. Những quan niệm giản
đơn, hẹp hòi, coi khoa học như là một nghề thủ công có lãi chỉ làm cho khoa học bị què
quặt đi mà thôi. Bằng khoa học, con người tiếp cận với thế giới.
Đánh giá cao vai trò của tri thức lý luận trong việc cải tạo xã hội, Ph.Bêcơn khẳng định
"tri thức là sức mạnh". Từ đó ông đi đến một một kết luận mang tính cách mạng đối với
người đương thời, coi "hiệu quả và sự sáng chế thực tiễn là người bảo lãnh và ghi nhận
tính chân lý của các triết học". Muốn chinh phục tự nhiên thì con người cần phải nhận
thức các quy luật của nó, vận dụng và tuân theo chúng.
c. Quan niệm về thế giới
Phát triển các quan niệm duy vật thời cổ đại, Ph.Bêcơn cho rằng để lý giải được tính
muôn màu muôn vẻ của thế giới, chỉ cần mỗi vật chất là đủ. Để giải thích thế giới, ông đã
cải biến thuyết bốn nguyên nhân của Arixtốt theo hướng duy vật. Ông xoá bỏ nguyên
nhân mục đích của các sự vật và cho rằng, mọi cái trên thế gian chỉ tồn tại từ ba nguyên
nhân: hình dạng, vật chất và vận động. Khác với Arixtốt, ông coi hình dạng của sự vật là
cái nằm chính trong bản thân sự vật, là bản chất hoàn toàn khách quan của nó; không thể
có cái gọi là "hình dạng của hình dạng" phi vật chất, cũng như "vật chất đầu tiên" phi
hình dạng là không có thực; mọi "hình dạng" đều chỉ là "hình dạng" của vật chất. Cả ba
nguyên nhân "hình dạng", "vật chất" và "vận động", thực chất đều là bản tính của vật
chất. Vì thế vật chất có bản tính là tích cực, có sinh khí chứ không phải thụ động.
Ph.Bêcơn đã có bước tiến rất xa so với các nhà triết học trước đó và đương thời khi quan
niệm rằng có sự thống nhất giữa vật chất và vận động, giữa bản chất của sự vật và vận
động của nó. Khẳng định vận động là đặc tính của sự vật, Ph.Bêcơn cho rằng nhận thức
sự vật là nhận thức vận động của chúng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận xét, Ph.Bêcơn đã
hiểu "rằng trong những đặc tính vốn có của vật chất, vận động là đặc tính thứ nhất và
quan trọng nhất, không phải chỉ với tính cách là máy móc và toán học mà hơn nữa còn
với tính cách là xu hướng, sức sống của vật chất".

Ph.Bêcơn đã tìm cách phân loại các dạng vận động. Theo ông có 19 dạng vận động: 1)
vận động xung đối; 2) vận động móc nối; 3) vận động giải phóng mà thông qua đó sự vật
hướng tới thoát khỏi áp lực; 4) vận động, trong đó sự vật hướng tới khối lượng và kích
thước mới; 5) vận động liên tục; 6) vận động có lợi; 7) vận động tự hợp lại với quy mô
lớn; 8) vận động tự hợp lại với quy mô nhỏ; 9) vận động từ tính; 10) vận động sản sinh
ra; 11) vận động chạy trốn; 12) vận động thức tỉnh; 13) vận động mô tả, ghi nhận; 14)
vận động ngoại tuyến; 15) vận động theo xu hướng; 16) vận động hùng tráng; 17) vận
động tự quay; 18) vận động rung động; 19) đứng yên.
Từ đây, có thể thấy rằng, về cơ bản Ph.Bêcơn đã phân loại vận động theo cảm tính, mô
tả, chưa biết phân loại theo cấp độ khác nhau về cấu trúc của vật chất, mà hầu như quy
toàn bộ các dạng vận động thành các hình thức vận động cơ học; không thấy được sự
phát triển của thế giới vật chất đã dẫn đến xuất hiện những hình thức vận động khác nhau
về chất, phù hợp với trình độ cấu trúc của vật chất. Tuy nhiên việc coi đứng yên là một
dạng vận động ở Ph.Bêcơn là một quan niệm duy vật và cách mạng trong bối cảnh lịch sử
hồi đó. Ông cũng là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.
d. Nhận thức luận và phương pháp luận
Bêcơn là người ủng hộ nhiệt thành sự phát triển của khoa học. Ông nói: "Mục đích của
tôi là ở chỗ chỉ ra uy thế thực sự của khoa học mà không cần phải tô vẽ và cường điệu, và
làm rõ ý nghĩa và giá trị chân chính của nó."
Với hoài bão xây dựng một cách nhìn mới về thế giới thật sự khách quan, Bêcơn đồng
thời chỉ ra những hạn chế trong khả năng nhận thức của con người, những hạn chế không
phải chỉ dẫn đến những sai lầm vụn vặt và nhất thời, mà là những sai lầm nghiêm trọng
không thể tránh khỏi của con người trong nhận thức. Ông gọi chúng là các “ngẫu tượng”
(Idola theo tiếng cổ Hi Lạp nghĩa là hình ảnh bị xuyên tạc). Để nhận thức chân lí và khắc
phục được các ngẫu tượng, thì phải vạch ra cơ chế và bản chất của chúng. Do vậy, Bêcơn
coi học thuyết về các ngẫu tượng tựa như phần mở đầu trong nhận thức và phương pháp
luận của mình.
Các ngẫu tượng có nguồn gốc hoàn toàn khách quan, bởi vì chúng một phần có trong bản
chất của trí tuệ con người, một phần xuất hiện trong quá trình lịch sử nhận thức của nhân
loại, một phần nảy sinh trong sinh lí và nhân cách của mỗi người. Theo Bêcơn, "trí tuệ

con người tự đặt ra chướng ngại vật và cạm bẫy cho mình”. Vì các ngẫu tượng thường
xuyên ám ảnh con người, tạo nên cho nó những tư tưởng và ảo ảnh giả dối, xuyên tạc bộ
mặt thật của thế giới, nói tóm lại, cản trở con người xâm nhập vào thế giới cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu". Vì vậy, quá trình con người đấu tranh khắc phục những hạn chế
khách quan đó cũng là quá trình con người đấu tranh vì sự hoàn thiện bản thân mình.
Bêcơn phân loại các dạng ngẫu tượng như sau:
Dạng ngẫu tượng loài: nó sinh ra do việc loài người thường xuyên nhầm lẫn bản chất trí
tuệ của mình với bản chất khách quan của sự vật. Ai cũng dễ dàng gán cho sự vật những
đặc tính của riêng con người. Bêcơn nói: "Các ngẫu tượng loài có cơ sở trong chính bản
thân loài người, bởi vì thật là sai lầm khi khẳng định cảm giác cảm tính của chúng ta là
thước đo sự vật. Ngược lại, tất cả các giác quan cũng như trí tuệ đều được dựa trên sự
tương đồng của con người, chứ không phải dựa trên sự tương đồng của thế giới. Trí tuệ
con người cũng tương tự như chiếc gương méo, khi nó pha trộn bản chất của mình với
bản chất của sự vật thì nó phản ánh các sự vật dưới dạng bị xuyên tạc, bóp méo".
Sở dĩ có loại ngẫu tượng này, theo Bêcơn, là do các giác quan cũng như trí tuệ của con
người còn chưa được hoàn thiện. Một trong những biểu hiện của ngẫu tượng này là ở
chỗ, người ta thường hay bảo thủ, coi ý kiến và suy nghĩ chủ quan của mình là thước đo
tất thảy mọi vật. Ngẫu tượng loài do vậy rất bền vững. Chúng ta chỉ có thể hạn chế ảnh
hưởng của ngẫu tượng này bằng cách hoàn thiện các nhận thức của con người như thực
nghiệm v.v
Việc Ph.Bêcơn đòi hỏi nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan là hợp lý. Ông nhận
xét đúng rằng, con người thường hay chủ quan, duy ý chí trong hoạt động của mình.
Nhưng ông lại sai lầm khi phủ nhận hoàn toàn cái chủ quan trong nhận thức. Việc đòi hỏi
nhận thức phải "khách quan thuần tuý" của ông là một điều không tưởng, tuy nhiên nó có
ý nghĩa tích cực trong việc phê phán các quan niệm thần học chủ quan kinh viện thời đó,
vì sự tiến bộ của khoa học.
Dạng ngẫu tượng hang động: Ngoài những ngẫu tượng đối với cả loài người, thì mỗi
người còn có các đặc tính chủ quan, tâm lí, tính cách đặc thù của mình làm xuyên tạc bản
chất khách quan của sự vật. Chúng còn xuất hiện do hoàn cảnh giáo dục của mỗi người
cũng khác nhau. Thực chất ngẫu tượng hang động chính là ngẫu tượng loài, nhưng biểu

hiện ở mỗi người cụ thể ở mức độ và hình thức khác nhau. Sở dĩ gọi là ngẫu tượng hang
động vì mượn câu chuyện của Platôn về hang động, Ph.Bêcơn ví trí tuệ của con người
như hang động méo mó của Platôn, mà trong đó thể hiện cái bóng của các sự kiện diễn ra
bên ngoài.
Để hạn chế dạng ngẫu tượng này, mỗi người cần phải hoàn thiện nhân cách của mình,
thận trọng trong quá trình nhận thức, dựa vào kinh nghiệm tập thể v.v
Ngẫu tượng thị trường: Nó xuất hiện do mọi người thường hay sùng bái, chạy theo các
quan điểm của ai đó có uy tín, hoặc ủng hộ những quan điểm phổ biến giáo điều, các tập
quán truyền thống, trong đó bên cạnh nhiều yếu tố tích cực, cũng chứa đựng không ít
những điều lạc hậu. Các ngẫu tượng này còn xuất hiện do ngôn ngữ khoa học của chúng
ta đôi chỗ còn chưa thật chuẩn xác. Quan niệm trên của Ph.Bêcơn có nhiều điểm hợp lý
và tiến bộ.
Ngẫu tượng nhà hát: Đó là những ảnh hưởng có hại của nhiều học thuyết, quan niệm
thống trị làm cản trở quá trình nhận thức chân lý. Phê phán tệ sùng bái cá nhân của nhiều
nhà khoa học thời đó, Ph.Bêcơn khẳng định "chân lý là con gái của thời gian chứ không
phải của uy tín". Để tìm ra chân lý chúng ta không nên rơi vào chủ nghĩa hoài nghi luận,
nhưng cũng không nên giáo điều trong nhận thức.
Nhìn chung, việc xác định bản chất và nguyên nhân của các ngẫu tượng của Ph.Bêcơn
còn mang nặng tính trực quan, chủ yếu xét ở khía cạnh nhận thức luận, vì vậy chưa đưa
ra được các giải pháp khắc phục ngẫu tượng một cách hợp lý. Công lao của ông trong học
tuyết về ngẫu tượng là ở chỗ ông đã đặt ra vấn đề cơ sở xã hội của quá trình nhận thức; ở
chỗ khẳng định quá trình nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan, xem xét với tinh
thần phê phán, cách mạng chứ không giáo điều. Những tư tưởng đó có ý nghĩa to lớn
không chỉ đối với thời đại của ông mà còn đối với cả hiện nay.
Ph.Bêcơn là một trong những người đầu tiên nhận thức được hạn chế của tam đoạn luận
và của lôgic hình thức - cái mà từ trước đến bấy giờ vẫn được coi là phương pháp nhận
thức vạn năng, đồng thời ông là một trong những người khởi xướng ra tư tưởng lôgic
mới.
Ph.Bêcơn liệt kê, phân tích những phương pháp nhận thức cơ bản đang được sử dụng phổ
biến để từ đó đưa ra một phương pháp nhận thức mới cao hơn.

Theo Ph.Bêcơn, từ trước đến bấy giờ người ta chủ yếu dùng hai phương pháp nhận thức
là "phương pháp con nhện" và "phương pháp con kiến". Phương pháp con nhện là
phương pháp xuất phát từ vài bằng chứng và cứ liệu vụn vặt người ta đã vội vã đưa ra các
tiền đề và khẳng định một cách vô căn cứ về bản chất của sự vật. Phương pháp đó chẳng
khác gì con nhện chăng tơ, chỉ trong khoảnh khắc đã xong nhưng không chắc chắn.
Phương pháp con kiến là sự miêu tả, lượm lặt, sưu tầm từng ít dữ kiện về sự vật, nhưng
rốt cuộc chẳng biết khái quát, rút ra những kết luận đúng đắn trên cơ sở những dữ kiện
đó. Phương pháp này chỉ cho ta hiểu những nét bề ngoài vụn vặt chứ không thể khám phá
được bản chất đích thực của sự vật.
Để khắc phục những hạn chế nói trên, Ph.Bêcơn đưa ra "phương pháp con ong". Bản chất
của "phương pháp con ong" là từ những tri thức do cảm tính đem lại chế biến chúng, như
con ong biến mật hoa thành mật ong, rút ra những tri thức mới bằng tư duy lý tính.
Phương pháp nhận thức tối ưu, theo Ph.Bêcơn, là phương pháp quy nạp. Ông coi phương
pháp quy nạp là chiếc la bàn của khoa học. Nhưng ông không thoả mãn với những
phương pháp quy nạp đã có (quy nạp đầy đủ, quy nạp không đầy đủ). Ông là người đầu
tiên khám phá ra phương pháp quy nạp loại trừ, tức phương pháp quy nạp mà trong đó có
phân tích, loại bỏ những dữ kiện phụ, đi đến khẳng định bản chất của sự vật.
Nhìn chung, trong vấn đề phương pháp luận, Ph.Bêcơn là nhà duy cảm (mặc dù không
cực đoan), thiên về sự phát triển khoa học tự nhiên thực nghiệm; là người có công khởi
xướng ra tư tưởng cần thiết phải xây dựng một hệ thống phương pháp luận mới, phù hợp
với sự phát triển của khoa học thời cận đại.
e. Nhân bản học và quan niệm về tôn giáo
Ph.Bêcơn coi con người là sản phẩm cuả tạo hoá, do vậy khoa học về con người cũng là
khoa học về tự nhiên. Tiếp thu quan niệm của Arixtốt về con người, Ph.Bêcơn chia linh
hồn thành các dạng "linh hồn thực vật", "linh hồn động vật", "linh hồn lý tính". Hai phần
đầu thuộc về linh hồn cảm tính, có cả ở thực vật và động vật. Trong con người, linh hồn
cảm tính là một dạng chất lỏng, pha loãng trong cơ thể. Chúng vận động theo các dây
thần kinh, tựa như các đường ống, tác động lên các giác quan, điều khiển chức năng sống
của cơ thể. Bộ phận linh hồn này có thể bị huỷ hoại cùng cơ thể khi con người chết đi.
Linh hồn lý tính có nguồn gốc từ Thượng đế. Đó là một khả năng kì diệu mà chúa đã ban

cho con người, mang tính thần thánh. Vì con người có cả hai dạng linh hồn nên con
người vừa rất gần với động vật lại vừa có cái gì đó siêu phàm, và do đó, bản chất con
người không cho phép con người theo lập trường hoàn toàn vô thần. Con người cần có
tôn giáo để vượt qua những lúc con người mềm yếu, bất lực. Tôn giáo mang lại cho con
người niềm tin nhưng nhà thờ không được phép dùng các biện pháp chống lại các nhà vô
thần, không được cản trở các hoạt động khoa học, nghệ thuật của con người.
Nhìn chung, quan niệm trên của Ph.Bêcơn thể hiện sự thoả hiệp giai cấp tư sản Anh thời
đó với các vấn đề tôn giáo.

×