Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế nhà nước và doanh nghiệp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN, ý nghĩa thực tiễn và liên hệ vận dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.98 KB, 23 trang )

Câu 13: MQH giữa lợi ích kinh tế nhà nước và doanh nghiệp trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở VN? Ý nghĩa thực tiễn và liên hệ vận dụng?
Trả lời:
1/. MQH giữa lợi ích kinh tế nhà nước và doanh nghiệp trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở VN:
a/. Về phía nhà nước:
Nhà nước khơng kinh doanh, nhưng Nhà nước là chủ thể tạo ra môi trường kinh doanh,
xác lập các điều kiện cho mơ hình kinh doanh nảy nở. Do đó, Nhà nước kiến tạo phục vụ cho sự
phát triển của doanh nghiệp.
Từ thực tiễn đổi mới hơn 30 năm qua, nhất là qua những năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội IX của Đảng, chúng ta dần thấy rõ hơn những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của Nhà nước là chủ thể tạo ra mội trường kinh doanh, xác lập các
điều kiện cho kinh doanh nảy nở.
- Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp
của toàn dân, của tồn xã hội; trong đó việc hình thành và phát triển một hệ thống doanh nghiệp
Việt Nam lớn mạnh, có sức cạnh tranh cao, có uy tín lớn là một nhiệm vụ chiến lược.
Mọi cơng dân có quyền tự do đầu tư, kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề, địa
bàn mà pháp luật khơng cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền sở hữu hợp pháp; có quyền
bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội, các nguồn lực phát triển, trong cung cấp và tiếp nhận thông
tin.
Nhà nước định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế,
chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường, phù hợp yêu cầu xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở hình
thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự hình thành, phát
triển của các thị trường (hàng hóa và dịch vụ, tài chính và tiền tệ, bất động sản, lao động, khoa
học và công nghệ,...), Nhà nước tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi để phát huy các
nguồn lực cho phát triển theo cơ chế thị trường, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng,
cạnh tranh lành mạnh, cơng khai và minh bạch, có trật tự, kỷ cương, các giao dịch thị trường
diễn ra phù hợp với các nguyên tắc của kinh tế thị trường; hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng
1



hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội quan trọng; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các
cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước
quản lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật; tác động đến thị trường chủ yếu thơng qua cơ chế,
chính sách và các cơng cụ kinh tế, sử dụng một số biện pháp để hỗ trợ thị trường trong nước khi
cần thiết, không trái với các cam kết hội nhập.
Nhà nước thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển, khơng phân biệt hình thức sở hữu,
đối với một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm, đối với một số mục tiêu (như xuất khẩu, tạo việc làm,
xóa đói, giảm nghèo, khắc phục những rủi ro), một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Nhà nước quan tâm bồi dưỡng, đào tạo và biểu dương các doanh nhân có tài, có đức và thành
đạt.
Nhà nước định hướng, tạo mơi trường để phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ
chế thị trường, hình thành một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức cạnh
tranh cao, có thương hiệu uy tín, chủ lực là một số tập đoàn kinh tế lớn dựa trên chế độ cổ phần.
Doanh nghiệp nhà nước không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả; chủ yếu
dưới hình thức cơng ty cổ phần nhiều chủ sở hữu; phát huy vai trò nòng cốt, tập trung vào một
số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, một
số lĩnh vực cơng ích; làm nịng cốt trong các tập đồn kinh tế lớn có tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Các loại hình kinh tế tập thể, nhất là các hợp tác xã được đổi mới và phát triển mạnh. Kinh tế tư
nhân được khuyến khích và phát triển mạnh khơng hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh
vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không
cấm. Thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào các ngành nghề, các lĩnh vực
kinh doanh quan trọng.
- Bên cạnh đó, đã xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ là tạo
ra thể chế quản trị hiệu quả, một chính phủ mạnh, một nền cơng vụ chuyên nghiệp, gọn nhẹ,
minh bạch, luôn sáng tạo và lấy sự cơng hiến, phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc làm chính, một
chính phủ thân thiện. Nhiệm vụ xây dựng thể chế, đổi mới tư duy về quản trị, cải cách bộ máy
lên đầu tiên và chuyển từ quản lý sang phục vụ người dân, doanh nghiệp và cán bộ phải gương
mẫu trong lời nói và hành động, nói đi đơi với làm. Do đó, xây dựng chính phủ kiến tạo địi hỏi
phải có nhiều giải pháp đồng bộ, phải được sự đồng tình ủng hộ của tồn thể hệ thống chính trị

2


và toàn dân tộc Việt Nam, đặc biệt cần quyết tâm chính trị cao và lãnh đạo quyết liệt của Đảng.
Thơng điệp của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xn Phúc về xây dựng một Chính phủ kiến tạo,
liêm chính, hành động và phục vụ đã và đang thu hút sự quan tâm, đồng tình ủng hộ của nhân
dân cả nước.
Theo Thủ tướng, có 4 nội dung chính của Chính phủ kiến tạo, đó là:
Thứ nhất, là một Chính phủ chủ động thiết kế ra một hệ thống pháp luật tốt, những chính
sách tốt, thể chế tốt để ni dưỡng nền kinh tế phát triển.
Thứ hai, là Nhà nước không làm thay thị trường, những lĩnh vực nào thị trường có thể
giải quyết được, thì Nhà nước khơng can thiệp, mà thay vào đó là tạo điều kiện hỗ trợ. Nhà
nước chỉ đầu tư vào những lĩnh vực mà các doanh nghiệp tư nhân không thể làm hoặc không
muốn làm.
Thứ ba, Chính phủ phải kiến thiết được mơi trường kinh doanh thuận lợi, khơng chỉ đứng
đầu trong nhóm các nước ASEAN, mà cịn phấn đấu vươn lên tiêu chí của các nước nhóm
OECD.
Thứ tư, là Chính phủ phải nói đi đơi với làm, siết chặt kỷ cương, đặc biệt phải thay ngay
cán bộ không đáp ứng yêu cầu công việc. Cần xây dựng chính quyền điện tử, thương mại điện
tử đến tòa án điện tử... Đây là yếu tố quan trọng để xây dựng Chính phủ kiến tạo.
Chính phủ kiến tạo là Chính phủ chủ động hơn trong xây dựng thể chế, pháp luật chứ
khơng chỉ điều hành trên những gì pháp luật có sẵn. Bộ máy Chính phủ phải năng động hơn,
sáng tạo hơn, tránh phải rơi vào thế bị động. Như vậy, có thể hiểu Chính phủ kiến tạo là Chính
phủ ln hồn thiện mình, tiến đến hiện đại, phục vụ và xây dựng hành lang pháp lý, môi
trường cho người dân và doanh nghiệp phát triển ngày một tốt hơn. Để đạt được điều đó, Chính
phủ cần có những hành động cụ thể, như: đổi mới tư duy điều hành của Chính phủ; tập trung
hồn thiện thể chế, cơ chế chính sách, pháp luật theo hướng cắt giảm rào cản, tháo gỡ khó khăn
cho người dân, cải thiện môi trường kinh doanh; chuyển mạnh từ Nhà nước quản lý sang Nhà
nước phục vụ người dân, doanh nghiệp. Cụ thể:
- Đổi mới tư duy về phương thức chỉ đạo, điều hành của Chính phủ

3


Thay đổi tư duy về phương thức chỉ đạo, điều hành của Chính phủ được thể hiện rõ qua
thơng điệp của Thủ tướng Chính phủ trong rất nhiều phiên làm việc: chuyển từ phương thức
mệnh lệnh hành chính sang Nhà nước kiến tạo, phục vụ; chính quyền khơng được trở thành
gánh nặng của người dân, doanh nghiệp; đồng thời, cần phân định rõ chức năng quản lý nhà
nước và chức năng thị trường, hạn chế, tiến tới xóa bỏ cơ chế xin - cho, cái gì thị trường làm
được thì để cho thị trường làm, Chính phủ tập trung vào cơng tác xây dựng thể chế, chính sách,
tạo mơi trường cho đầu tư kinh doanh phát triển.
Bên cạnh đó, Chính phủ đã chú trọng nhiều hơn đến các mục tiêu, chỉ tiêu liên quan đến
cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đã có những điều
chỉnh phù hợp hơn với các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra.
Phong cách điều hành hoạt động của Thủ tướng và các thành viên Chính phủ đã có sự
thay đổi mạnh mẽ. Trong hai năm đầu tiên của nhiệm kỳ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc được
đánh giá là có mật độ đến các tỉnh làm việc dày đặc nhất. Thủ tướng cũng là lãnh đạo có nhiều
chỉ đạo cụ thể nhất, cùng với Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ làm việc với các Bộ, ngành
về thực thi nhiệm vụ được giao, nhằm rút ngắn khoảng cách từ lời nói đến việc làm. Theo
phong cách đó, nhiều nơi đã ký cam kết về tạo môi trường và thúc đẩy doanh nghiệp phát triển,
nhiều văn bản chính sách, pháp luật cũng đã được ban hành nhanh chóng, tình trạng nợ đọng
nhiệm vụ cũng có chuyển biến rõ nét.
- Xây dựng, hồn thiện thể chế
Trong hai năm 2016-2017, Chính phủ tập trung vào việc xây dựng bộ máy chính quyền
liêm chính, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 123/2016/NĐ-CP, đưa ra những quy định mang tính
ngun tắc cho việc kiện tồn bộ máy và đổi mới hoạt động của các Bộ, ngành Trung ương.
Theo đó, nhiều nơi đã triển khai việc kiện tồn bộ máy, đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức,
đặc biệt là việc sáp nhập, cắt giảm các đầu mối và biên chế trực thuộc.
Ngày 5-9-2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 26/CT-TTg về tăng cường kỷ
luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Chính phủ cũng đã có các biện

pháp xử lý kịp thời, nghiêm minh và hợp lòng dân các vụ việc có dấu hiệu vi phạm của công
4


chức ở tất cả các cấp chính quyền, từ những vụ việc nhỏ, như trong vụ Cafe Xin chào tại huyện
Bình Chánh cho đến vụ ơ nhiễm mơi trường tại Formosa Hà Tĩnh năm 2016.
Cơng tác đấu tranh phịng chống tham nhũng trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp
nhà nước cũng được đẩy mạnh. Trong 2 năm 2016, 2017 Cơ quan thanh tra đã kiến nghị xử lý
kỷ luật hành chính 1.581 tập thể và nhiều cá nhân; ban hành trên 118.000 quyết định xử phạt vi
phạm hành chính tổ chức, cá nhân với số tiền 3.180 tỷ đồng; chuyển cơ quan điều tra xử lý hình
sự 83 vụ, 176 đối tượng. Qua việc chủ động thanh tra, kiểm tra, Chính phủ và chính quyền các
cấp đã kịp thời phát hiện và chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền nhiều vụ án tham nhũng
lớn, qua đó giúp củng cố niềm tin của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp và xây dựng Chính
phủ kiến tạo phát triển.
Cải cách hành chính với trọng tâm là đơn giản hóa và cơng khai thủ tục hành chính trong
các lĩnh vực quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương đã được đặc biệt quan tâm. Thủ
tướng và các Phó Thủ tướng đã có nhiều chỉ đạo, quán triệt nhằm đẩy mạnh cải cách hành
chính, kiên quyết tháo gỡ những điểm nghẽn cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao
sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan nhà nước.
- Về cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của doanh
nghiệp
Tháng 4-2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 09/2016/NQ-CP, đề ra những nhiệm
vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
trong 2 năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020. Chỉ một tháng sau, Nghị quyết số 35/NQCP ngày 16-5-2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 đã được
Chính phủ thơng qua. Đây là lần đầu tiên, Chính phủ có riêng một nghị quyết về phát triển
doanh nghiệp ở Việt Nam, với mục tiêu đến năm 2020, cả nước có trên 1 triệu doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, đề ra 9 nguyên tắc và 17 giải pháp hỗ trợ, phát triển doanh
nghiệp.
Trong năm 2016-2017, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều nghị định quy định về điều
kiện đầu tư kinh doanh với việc loại bỏ nhiều điều kiện kinh doanh được ban hành chưa đúng

thẩm quyền; trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục
5


ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư nhằm xây dựng môi trường kinh
doanh lành mạnh; Ban hành Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 6-1-2017 nhằm điều chỉnh việc
thi hành Luật Đất đai theo hướng tháo gỡ những vướng mắc trong thực hiện pháp luật về đất đai
và tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp tiếp cận đất đai phục vụ sản xuất kinh doanh.
Nhiều hành động quyết liệt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh đã được xúc tiến trong
năm 2016 và 2017, như: tăng cường trực tiếp đối thoại, tiếp nhận kiến nghị, phản ánh của doanh
nghiệp; yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương thực hiện chủ trương “3 đồng hành, 5 hỗ trợ” đối
với doanh nghiệp (Ba đồng hành là: đồng hành đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng
lực cạnh tranh; đồng hành trong hoàn thiện thể chế, pháp luật trên các lĩnh vực như xuất nhập
khẩu, thuế, đất đai, xây dựng, tín dụng, đầu tư... bảo đảm cơng khai, minh bạch, giảm chi phí
cho người dân, doanh nghiệp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp; đồng hành
và thực hiện tốt cơ chế đối thoại, tham vấn ý kiến của doanh nghiệp, nhất là trong quá trình xây
dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
ngành, lĩnh vực, phát triển kinh tế vùng và địa phương. Năm hỗ trợ là: hỗ trợ khởi nghiệp, đổi
mới sáng tạo; hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt động; hỗ trợ tạo mơi trường thuận lợi, bảo đảm
quyền kinh doanh bình đẳng, tiếp cận nguồn lực và cơ hội; hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản
phẩm gắn với doanh nghiệp; hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực); chấm điểm lãnh đạo
địa phương qua phát triển của doanh nghiệp. Website Doanhnghiep.chinhphu.vn đã bắt đầu hoạt
động từ ngày 1-10-2016 và từ ngày 5-10-2016 đã tiếp nhận phản ánh của doanh nghiệp báo cáo
Thủ tướng Chính phủ.
Những thơng điệp mạnh mẽ và hành động quyết liệt đó của Chính phủ đã nhận được sự
phản hồi tích cực từ khu vực kinh tế tư nhân. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng nhanh,
trong khi số lượng doanh nghiệp giải thể giảm đi. Tính chung cả năm 2016, số doanh nghiệp
đăng ký thành lập mới đạt mức kỷ lục với 110,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 16,2% so với năm
2015; tổng vốn đăng ký là 891,1 nghìn tỷ đồng, tăng 48,1%. Trong năm 2016, có 26.689 doanh
nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 24,1% so với năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng

ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm 2016 lên gần 136,8 nghìn doanh
nghiệp. Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong năm 2016 là 60.667 doanh nghiệp, giảm
6


15,2% so với năm 2015, bao gồm 19.917 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời
hạn, tăng 27,3% và 40.750 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải
thể, giảm 26,9%.
Năm 2017, tính chung cả nước có 126.859 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (tăng
15,2%) với tổng vốn đăng ký là 1.295,9 nghìn tỷ đồng (tăng 45,4%). Bên cạnh đó, có 26.448
doanh nghiệp quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong năm 2017 là
60.553 doanh nghiệp, giảm 0,2% so với năm 2016.
Kết quả đạt được cho thấy, khung khổ pháp lý mới cùng với các giải pháp của Chính phủ
trong việc hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp phát triển đã phát huy hiệu quả, môi trường kinh
doanh được cải thiện rõ rệt, doanh nghiệp đã tìm thấy cơ hội kinh doanh và niềm tin vào thị
trường. Sự quyết liệt hành động của Chính phủ đã thắp lên ngọn lửa niềm tin của cộng đồng
doanh nghiệp, thể hiện một Chính phủ kiến tạo luôn hướng tới việc cải thiện môi trường kinh
doanh, hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp.
- Nhà nước đến gần người dân hơn thông qua phát huy dân chủ trong xã hội
Nguyên tắc công khai, minh bạch và bảo đảm sự tham gia của người dân được ghi nhận
trong nhiều đạo luật quan trọng, như: Luật Ngân sách nhà nước; Luật Đầu tư cơng, Luật Đấu
thầu; Luật Tiếp cơng dân; Luật Phịng, chống tham nhũng... và tiếp tục được thực hiện nghiêm
túc trong năm 2016-2017. Trong các chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ, việc phát huy sự tham
gia, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp được ghi nhận như là một giải
pháp, nhiệm vụ của các cấp chính quyền nhằm xây dựng Nhà nước kiến tạo, phát triển, đặc biệt
là Nghị quyết số 35, Chỉ thị 26/CT-TTg ngày 5-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường
kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
Kể từ khi nhậm chức đến nay, Thủ tướng luôn dành ưu tiên cho việc tiếp xúc, lắng nghe,
đối thoại, chỉ đạo, định hướng rất cụ thể để từ đó đưa ra giải pháp xử lý, khắc phục, đặc biệt là
tại các điểm nóng. Nhờ đó, bước đầu đáp ứng nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp. Thí

dụ: việc họp bàn, thị sát nhằm tìm kiếm giải pháp cho tình trạng ngập mặn ở đồng bằng sơng
Cửu Long; khắc phục sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung; tình hình vệ sinh, an tồn
thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội; việc chỉ đạo, nắm tình hình để
7


đưa ra biện pháp xử lý theo phản ánh về việc bổ nhiệm người thân của lãnh đạo địa phương vào
các vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt tại một địa phương; chỉ đạo, xử lý vụ việc liên quan đến
Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam công bố kết quả sai lệch về việc kiểm tra
150 mẫu nước mắm; trực tiếp chỉ đạo khắc phục hậu quả sau bão của bão số 12 ở miền Trung...
Kết quả đạt được về xây dựng Chính phủ kiến tạo trong hai năm 2016-2017 là rất đáng
khích lệ, tuy nhiên, đây mới là kết quả bước đầu. Để đạt được mục tiêu xây dựng Chỉnh phủ
kiến tạo ở Việt Nam, địi hỏi phải có giải pháp đồng bộ, quyết liệt hơn nữa. Trên cơ sở các kết
quả đạt được qua hai năm qua, trong thời gian tới cần tập trung đổi mới mạnh mẽ phương thức
điều hành của Chính phủ theo các chức năng của Chính phủ kiến tạo; khắc phục tình trạng thể
chế phân mảnh, nhất là trong khâu xây dựng và ban hành chính sách pháp luật; củng cố, mở
rộng mối quan hệ giữa Chính phủ và doanh nghiệp; nhanh chóng xây dựng một cơ chế minh
bạch, hữu hiệu để tuyển dụng người tài vào cơ quan Nhà nước; củng cố mối quan hệ giữa Nhà
nước với nhân dân trên cơ sở phát huy dân chủ xã hội.
b/. Về phía doanh nghiệp:
Doanh nghiệp với chức năng chính là tiến hành các hoạt động kinh tế với mục tiêu xác
định, trước hết là mục tiêu lợi nhuận. Vì vậy về phía doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm chỉnh
những gì pháp luật khơng cấm, thực hiện cạnh tranh bình đẳng, hoạt động có trách nhiệm với
xã hội và cộng đồng. Việc chạy theo lợi nhuận gây ra thảm họa môi trường, thảm họa xã hội là
đe dọa đến lợi ích của nhà nước và xã hội. Doanh nghiệp phải có trách nhiệm với sự tồn tại ổn
định của Nhà nước thông qua không chỉ là những khoản thuế nộp vào ngân sách nhà nước mà
quan trọng hơn, doanh nghiệp tạo ra nền tảng kinh tế cho xã hội, từ đó tạo lập sự ổn định xã
hội và cũng là tiền đề cho sự ổn định của chế độ nhà nước.
Nội hàm của trách nhiệm với xã hội bao gồm nhiều khía cạnh liên quan đến ứng xử của
doanh nghiệp đối với các chủ thể và đối tượng có liên quan trong quá trình hoạt động của doanh

nghiệp, từ người sản xuất, tiếp thị, tiêu thụ, tiêu dùng đến các nhà cung ứng nguyên liệu, vật
liệu tại chỗ; từ đội ngũ cán bộ, nhân viên cho đến các cổ đơng của doanh nghiệp. Trong đó, có
cả trách nhiệm về bảo vệ tài nguyên, môi trường mà về thực chất, cũng là có trách nhiệm chung

8


với lợi ích cộng đồng xã hội, bao gồm cả những hoạt động nhân đạo, từ thiện, hoạt động đóng
góp cho sự phát triển chung của đất nước.
Do vậy, những người lãnh đạo doanh nghiệp thời nay phải là những người có tầm nhìn
xa, trơng rộng để hướng tới mục tiêu hoạt động tồn diện, khơng chỉ giới hạn bởi thặng dư, lợi
nhuận kinh tế đơn thuần. Thước đo thành công của họ bắt nguồn từ những tác động mà họ tạo
ra đối với nhu cầu xã hội. Các doanh nhân này cần tìm kiếm những giải pháp để thay đổi xã hội
theo chiều hướng ngày càng tốt hơn và ngược lại, các doanh nghiệp của họ sẽ có những điều
kiện để phát triển bền vững hơn. Lợi ích dài hạn chủ yếu của CSR là cho chính nội bộ doanh
nghiệp, như cải thiện quan hệ trong công việc, giảm bớt tai nạn, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc,
tăng năng suất lao động. Ngồi ra, CSR cịn giúp nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong quan
hệ với khách hàng và các đối tác, tạo ra ưu thế trong cạnh tranh và thuận lợi trong việc kêu gọi
đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài.
Thực tiễn cho thấy, những doanh nghiệp thực hiện tốt CSR sẽ không thua thiệt, mà
thường đạt được những lợi ích đáng kể, bao gồm giảm chi phí, tăng doanh thu, tăng giá trị
thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất và thêm cơ hội tiếp cận những thị
trường mới.
Diễn giải cụ thể hơn, mỗi doanh nghiệp khi đã tự quyết định một cách tự nguyện về thực
hiện trách nhiệm xã hội của mình, thì bên cạnh những đóng góp, chi phí vì lợi ích cộng đồng xã
hội, đương nhiên, họ cịn có những lợi ích riêng trong kinh doanh, thơng qua các hoạt động của
mình, đó là:
- Bảo vệ thương hiệu khơng bị xã hội chỉ trích; nâng cao uy tín của sản phẩm một cách
bền vững; mở rộng thị trường và tạo lập ưu thế về giá cả; được tham gia các chương trình đầu
tư phát triển doanh nghiệp vì trách nhiệm xã hội.

- Duy trì hoặc ký thêm hợp đồng kinh tế với các đối tác đầu tư, bạn hàng; có thêm điều
kiện để mở rộng quy mơ sản xuất, hiện đại hố cơng nghệ, tăng năng suất và chất lượng sản
phẩm; tăng việc làm, giảm số cơng nhân bỏ việc; tăng uy tín xã hội để doanh nghiệp có khả
năng cạnh tranh cao, dễ dàng hoạt động hơn.
- Có thêm điều kiện vật chất để cải thiện đời sống người lao động. Cụ thể là tăng thu
nhập, nâng cao hơn chất lượng cuộc sống và sức khỏe cho người lao động và gia đình họ; hỗ trợ
9


người lao động thực hiện tốt hơn luật pháp lao động và mở rộng hơn khả năng bảo hiểm y tế, xã
hội cho họ…
Cần thấy rằng, nhận thức về CSR ở các nền kinh tế thị trường phát triển hoặc khá phát
triển trên thế giới hiện nay rõ ràng là khơng cịn mới lạ, mặc dù trong thực tế, cho đến nay,
không phải bất cứ doanh nghiệp, doanh nhân nào, dù ở những nền kinh tế phát triển nhất, như
Mỹ, Nhật Bản, Đức,… cũng đều có thể thực hiện tốt CSR mọi lúc, mọi nơi do những tác động
cạnh tranh quyết liệt của quy luật giá trị, giá trị thặng dư và siêu lợi nhuận chi phối.
Trong khi đó, dù CSR là khái niệm mới được du nhập vào Việt Nam khoảng hơn thập
niên qua, song càng những năm gần đây, đã có khơng ít doanh nghiệp Việt Nam, để tạo lập
được thương hiệu vững bền và sáng giá, họ không chỉ ra sức phát triển ngày càng lớn hơn về
quy mô giá trị tài sản, doanh thu, doanh lợi có được sau mỗi năm kinh doanh, mà cịn nỗ lực
đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển chung của cộng đồng, xã hội. Bởi lẽ, họ đều hiểu làm tốt
và ngày càng tốt hơn trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng xã hội cũng đã là một trong những
thước đo cơ bản để thương hiệu các doanh nghiệp nhờ đó mà đã sáng lại càng sáng hơn và do
vậy, con đường làm ăn của họ càng có thêm thuận lợi, phát triển hơn.
Do vậy, thực hiện CSR ngày càng được các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam nhận
thức sâu sắc hơn và coi đó là yêu cầu tất yếu, khách quan trong quá trình hội nhập. Mặc dù vậy,
cả về học thuật lẫn thực tiễn thể hiện, cần thấy đây vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ đối với khơng
ít các doanh nghiệp, doanh nhân ở nước ta. Trên thực tế, nhiều khi vấn đề này được vận dụng
rất khác nhau, mà một trong những nguyên nhân cơ bản là do chưa có được nhận thức đúng
đắn, thống nhất về nội hàm u cầu của nó. Chính vì thế, trên thực tế, đã có doanh nghiệp,

doanh nhân chỉ lo sản xuất, kinh doanh sao cho có lợi nhuận cao, khơng chỉ giải quyết tốt vấn
đề lợi ích cho doanh nghiệp, cho người lao động, mà cịn đóng góp khơng ít cho các hoạt động
nhân đạo, từ thiện xã hội; thế nhưng họ vẫn vi phạm Luật Doanh nghiệp, Luật Mơi trường, hoặc
có những biểu hiện vi phạm pháp luật khác. Có nhiều ngun nhân của tình hình này, song
trước hết là do họ chưa có một nhận thức đúng đắn, khách quan, khoa học và nhất là chưa có
được “cái tâm”, “cái đức” trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đối
với cộng đồng xã hội. Chính vì thế, trong tiến trình nhận thức của con người về vấn đề này, mặc
dù cho đến nay, không chỉ ở Việt Nam, mà cả trên thế giới vẫn chưa hoàn toàn thống nhất, thậm
10


chí vẫn cịn là chủ đề gây tranh cãi tại nhiều cuộc hội thảo, song có lẽ, hiện tại, theo chúng tơi,
chí ít nên tạm chấp nhận về một kiểu định nghĩa khái niệm CSR như đã được Nhóm Phát triển
kinh tế tư nhân của Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra trên đây.
Sự hình thành mơ hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
kết quả của nhiều năm tìm tịi, đổi mới, tổng kết lý luận - thực tiễn, đồng thời là sự khẳng định
con đường và mơ hình phát triển trong thực tiễn mang tính cách mạng, sáng tạo của Đảng và
nhân dân ta. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của cơng cuộc đổi mới gần hai thập
kỷ qua khẳng định xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một quá trình tất yếu phù hợp quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của
đất nước. Từ thực tiễn những thay đổi to lớn trong đời sống kinh tế, xã hội, nhân dân tin tưởng
ở đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước ta ngày càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm lãnh đạo
và quản lý. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng rõ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
từng bước được hình thành trên những nét rất cơ bản. Nhưng, đây là một sự nghiệp lâu dài, vơ
cùng khó khăn, phức tạp, vì rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, cịn nhiều vấn đề chưa rõ về cả lý luận
và thực tiễn, phải vừa tiếp tục tìm tịi, đổi mới, vừa coi trọng tổng kết lý luận - thực tiễn để làm
sáng tỏ dần, trên cơ sở đó có những quyết sách phù hợp, đột phá, để sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.

2/. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn vận dụng
Trong những năm qua Chính phủ cam kết lắng nghe cùng tham gia, đồng hành, đối thoại
thẳng thắn, tháo gỡ vướng mắc trở ngại để doanh nghiệp Việt Nam có thể bứt phá trong năm
2020 và những năm tiếp theo. Với tinh thần nhấn mạnh: “Với doanh nghiệp, một tinh thần dám
nghĩ dám làm, dám đột phá nhưng doanh nghiệp khơng được làm ẩu, vi phạm pháp luật. Cịn
các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm tốn, cơng an, tồ án,… cần thực sự trân trọng quyền con
người, quyền công dân, quyền kinh doanh, quyền tài sản,… theo Hiến pháp và pháp luật, theo
tinh thần cởi trói, tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp, phát triển lành mạnh, bền vững, từ đó,
góp phần tháo gỡ cùng Chính phủ.”
11


Nhấn mạnh năm 2020 là năm quan trọng về đối ngoại, đối nội của đất nước và cũng là
năm hoàn thành nhiều mục tiêu trung hạn của nhiều doanh nghiệp, Thủ tướng nêu 4 vấn đề để
cộng đồng doanh nghiệp thảo luận.
Theo đó, Chính phủ đề nghị doanh nghiệp nêu khó khăn, trở ngại trong q trình sản
xuất, kinh doanh như quy hoạch, tiếp cận đất đai, tín dụng, sử dụng lao động, thủ tục hành
chính, thuế, hải quan, giấy phép, cung cấp điện nước… Đặc biệt là vấn đề thanh kiểm tra chồng
chéo, gây khó khăn cho doanh nghiệp như thế nào, kể cả tình trạng cơ quan nhà nước dọa nạt
doanh nghiệp khi doanh nghiệp có ý kiến trái chiều. “Đặc biệt cần biết và xử lý sự trì trệ của
nhiều sở, ngành ở địa phương, đá qua đá lại, chậm chạp, làm mất thời cơ của doanh nghiệp; cần
chỉ rõ văn bản của bộ ngành nào bất hợp lý, mâu thuẫn, cản trở, không phù hợp; cơ quan nào
gây nhũng nhiễu ở địa phương hay tập trung ở Trung ương,” .
Thứ hai, đề nghị cộng đồng doanh nghiệp nêu những thách thức, sức ép đối với doanh
nghiệp trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, kinh tế đất nước ngày càng hội nhập, tác động
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đề xuất cách giúp doanh nghiệp tăng sức đề kháng,
cạnh tranh, vượt qua thách thức. Thủ tướng cũng đề nghị hiến kế cho Chính phủ hồn thành
mục tiêu năm 2020 và 5 năm tới.
Thứ ba, Chính phủ đề nghị nêu đề xuất những đột phá về cơ chế khuyến khích doanh
nghiệp.

Thứ tư, Thủ tướng đề nghị nêu đề xuất giải pháp cải thiện nâng cao tương tác giữa các bộ
ngành và địa phương; chia sẻ sáng kiến hay của doanh nghiệp mình, mơ hình tốt của địa
phương…
Trong những năm qua, các doanh nghiệp đã đầu tư một lượng vốn lớn trong tổng đầu tư
tồn xã hội; đóng góp tích cực vào tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước, xuất khẩu. Đây là
mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị để nâng cao khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm, hình
thành các chuỗi liên kết giá trị, tạo dựng thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế. Doanh
nghiệp trở thành lực lượng nòng cốt trong tạo việc làm, cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập
cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh
bùng nổ của khoa học, công nghệ, các doanh nghiệp có vai trị trọng tâm trong hệ sinh thái đổi
mới sáng tạo và khởi nghiệp. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã thành cơng, góp phần khơng nhỏ
12


trong việc tạo dựng các thương hiệu Việt Nam về công nghệ thông tin trên bản đồ khởi nghiệp
thế giới như FPT, Vingroup, TTC, trường đại học Phenikaa... khơi dậy niềm tin và sự kỳ vọng
vào việc sẽ tạo bước tiến đột phá trong phát triển.
Với quyết tâm đưa môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của Việt Nam vào tốp
đầu của ASEAN, hội nghị tiếp tục khẳng định cam kết Chính phủ đồng hành cùng cộng đồng
doanh nghiệp, lực lượng tiên phong trên mặt trận kinh tế đang ngày càng lớn mạnh, với hơn
126.000 doanh nghiệp thành lập mới mỗi năm.
Riêng năm 2019, dự kiến đạt 136.000 doanh nghiệp thành lập mới, tổng số vốn đăng ký
khoảng 1,7 triệu tỷ đồng, nâng tổng số doanh nghiệp đang hoạt động lên khoảng 760.000 doanh
nghiệp.
Mục tiêu truyền tải thông điệp của Chính phủ là: Thế giới đang thay đổi, hội nhập mạnh
mẽ, thách thức về môi trường, các vấn đề xã hội ngày một phức tạp, cộng đồng doanh nghiệp,
doanh nhân cần tăng cường đoàn kết, liên kết sức mạnh, phát huy lòng tự hào dân tộc để phát
triển lớn mạnh, đồng thời có trách nhiệm với cộng đồng, với xã hội, với quốc gia, dân tộc, tạo
dựng đất nước độc lập, tự chủ, bền vững và hùng cường. Chính phủ tiếp tục lắng nghe ý kiến
của doanh nghiệp, chuyên gia, hiệp hội, tổ chức quốc tế về các khó khăn, vướng mắc, đề xuất

các giải pháp và đối thoại. Đồng thời giải đáp, gỡ vướng để cải thiện hơn nữa môi trường kinh
doanh tại Việt Nam, kỳ vọng là cơ sở để có thêm nhiều giải pháp, chính sách mới thúc đẩy
doanh nghiệp phát triển, để Việt Nam đạt được mục tiêu có 1 triệu doanh nghiệp vào năm 2020.
Khơng chỉ có các chính sách mới, điều quan trọng nhất, theo một số nhà đầu tư là Chính
phủ phải luôn đồng hành cùng doanh nghiệp để xác định các vướng mắc, khó khăn, kịp thời
tháo gỡ bởi mơi trường kinh doanh luôn biến động, quy định hôm nay hỗ trợ doanh nghiệp
nhưng ngày mai có thể lại là rào cản…/.
Nhiệm vụ xây dựng thể chế, đổi mới tư duy về quản trị, cải cách bộ máy lên đầu tiên và
chuyển từ quản lý sang phục vụ người dân, doanh nghiệp và cán bộ phải gương mẫu trong lời
nói và hành động, nói đi đơi với làm. Do đó, xây dựng chính phủ kiến tạo địi hỏi phải có nhiều
giải pháp đồng bộ, phải được sự đồng tình ủng hộ của tồn thể hệ thống chính trị và tồn dân
tộc Việt Nam, đặc biệt cần quyết tâm chính trị cao và lãnh đạo quyết liệt của Đảng. Thông điệp
13


của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc về xây dựng một Chính phủ kiến tạo, liêm chính,
hành động và phục vụ đã và đang thu hút sự quan tâm, đồng tình ủng hộ của nhân dân cả nước.
Tuy nhiên, trong q trình phát triển, khái niệm về chính phủ kiến tạo cũng được hồn
thiện từng bước. Đầu tiên đó là chính phủ định hướng kiến tạo, đó là chính phủ ln hồn thiện
mình tiến đến hiện đại, phục vụ, xây dựng hành lang pháp lý và môi trường cho cho người dân
và doanh nghiệp phát triển ngày một tốt hơn.
Thực tế hiện nay, thơng điệp chính phủ kiến tạo có thể được hiểu hướng tới có chính phủ
như vậy và có các hành động cụ thể để đạt được, đó là: tập trung hồn thiện thể chế; rà sốt tồn
bộ cơ chế chính sách, hành lang pháp lý theo hướng xóa bỏ rào cản, tháo gỡ khó khăn cho
người dân, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; phải chuyển mạnh hơn từ quản lý sang phục
vụ người dân, doanh nghiệp và cán bộ phải gương mẫu trong lời nói và hành động, nói đi đơi
với làm dù trong bất cứ trường hợp nào(1).
Thời cơ và thách thức đối với xây dựng chính phủ kiến tạo hiện nay
Xây dựng chính phủ kiến tạo ở Việt Nam hiện nay có nhiều thời cơ, thuận lợi, nhưng
cũng gặp khơng ít khó khăn, thách thức. Có thể nêu một số thời cơ và thuận lợi như sau:

Xây dựng chính phủ kiến tạo là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh (2). Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tuyên bố trước quốc dân đồng bào, Chính phủ sẽ hành động vì dân, vì quyền lợi và
cuộc sống của dân, dựa vào dân... Người luôn yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải cần,
kiệm, liêm chính, chí cơng, vơ tư...
Xây dựng chính phủ kiến tạo là tiếp tục tinh thần đổi mới tư duy của Đảng trong hơn 30
năm vừa qua với tinh thần cái gì đưa đất nước phát triển, giàu mạnh và vì lợi ích quốc gia, dân
tộc thì đó là việc phải làm, không giáo điều, sách vở, quan liêu, bảo thủ. Đại hội XII của Đảng
và các hội nghị Trung ương khóa XII, trong đó đặc biệt là Hội nghị Trung ương 4 đã nhấn mạnh
việc đổi mới và hồn thiện hệ thống cơng vụ, bộ máy hành chính hiệu quả và liêm chính, chống
tham nhũng, suy thối, tha hóa...
Xây dựng chính phủ kiến tạo khi lịng dân đang khao khát có một chính phủ hiệu quả, đổi
mới mạnh mẽ, đột phá để đất nước phát triển, do vậy được sự đồng tình ủng hộ cao của nhân
dân trong cả nước.
14


Xây dựng chính phủ kiến tạo trong thời điểm đất nước đã có đội ngũ cán bộ, cơng chức
được đào tạo khá bài bản, có năng lực trình độ phù hợp và có nhiều yếu tố khách quan, chủ
quan cho hình thành chính phủ kiến tạo. Đặc biệt, các điều kiện cần và điều kiện đủ cho xây
dựng chính phủ kiến tạo đang được hình thành và từng bước định hình.
Xây dựng chính phủ kiến tạo trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế ngày một sâu
rộng, nhiều FTA được ký kết, nhiều hoạt động kinh tế, văn hóa, khoa học, cơng nghệ, giáo dục
và quốc phịng, an ninh được triển khai hợp tác. Nhiều đối tác chiến lược, chiến lược toàn diện
được ký kết với nước ta.
Nhiều tri thức, kinh nghiệm hay của nhân loại, những kiến thức quản trị chính phủ, quản
trị doanh nghiệp và quản trị xã hội hiệu quả trên thế giới đang tác động tích cực đến Việt Nam.
Hơn nữa, cơng nghệ cao đang phát triển như vũ bão, đặc biệt là cách mạng công nghiệp 4.0
đang đặt ra thách thức và yêu cầu đổi mới, cải cách chính phủ hiện nay.
Bên cạnh những thời cơ và thuận lợi, có thể nêu một số khó khăn và thách thức đối với
xây dựng chính phủ kiến tạo như sau:

Để xây dựng một chính phủ kiến tạo cần có một nhà nước kiến tạo. Tuy nhiên, để có
được điều đó cần phải có thời gian, có sự đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt, đột phá hơn nữa tư duy,
đặc biệt là tư duy lý luận. Đảng phải được đổi mới căn bản và triệt để hơn nữa, chống suy thoái,
ngăn chặn bằng được một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên thối hóa, biến chất. Đảng phải
trở thành Đảng của văn minh và hiện đại.
Muốn xây dựng một chính phủ kiến tạo, điều kiện tiên quyết là phải có thể chế chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội kiến tạo. Tuy nhiên, những thể chế này hiện nay cịn thiếu, chưa hồn
chỉnh hoặc chưa được định hình ở Việt Nam nên sẽ là lực cản lớn đối với xây dựng chính phủ
kiến tạo. Hay nói cách khác, chính phủ kiến tạo sẽ khó có thể hình thành nếu thiếu các thể chế
nêu trên.
Nhận thức về chính phủ kiến tạo cịn khác nhau và khơng ít tư duy, tư tưởng khơng chấp
nhận khái niệm này. Nói về xây dựng chính phủ kiến tạo thì mọi người dễ thống nhất nhưng khi
vận hành xây dựng chính phủ kiến tạo một cách thật sự thì khơng dễ đạt được sự ủng hộ cao vì
đụng chạm đến lợi ích, đặc biệt là lợi ích nhóm.
15


Bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hiện nay còn quá cồng kềnh, hoạt động
dựa vào nguồn ngân sách nhà nước và bị quan liêu hóa cao, thiếu gắn kết trực tiếp với thành
quả lao động của các thành viên các tổ chức đó, một sản phẩm tạo ra cịn được coi là thành tích
của nhiều tổ chức thì khó có thể có một chính phủ kiến tạo được hình thành, trừ khi có cải cách
mạnh mẽ và có giải pháp đột phá tổ chức lại các tổ chức này.
Hệ thống luật pháp chưa đồng bộ, cịn mâu thuẫn và chồng chéo, thiếu tính thống nhất,
khó áp dụng. Cùng một vấn đề nhưng lại có nhiều văn bản hướng dẫn khác nhau, văn bản của
cấp thấp hơn có thể phủ quyết văn bản của cấp cao hơn và nhiều khi trái ngược với văn bản của
cấp cao hơn...
Nhiều điểm nghẽn trong hệ thống hành chính cịn tồn tại chưa được loại bỏ, nền hành
chính cịn kém hiệu lực, hiệu quả.
Tính kỷ luật, đạo đức và văn hóa sống của đội ngũ cán bộ, cơng chức và người dân cịn
chưa cao, thói hình thức, dối trá, nói khơng đi đơi với làm, “nói thế mà khơng phải thế” vẫn còn

tồn tại nhiều, tham nhũng, tiêu cực cịn trầm trọng nên sẽ gây khó khăn khơng ít cho xây dựng
một chính phủ kiến tạo.
Một số giải pháp
Xây dựng chính phủ kiến tạo khơng phải là việc dễ dàng trong điều kiện hiện nay, địi hỏi
phải có nhiều giải pháp đồng bộ, phải được sự đồng tình ủng hộ của tồn thể hệ thống chính trị
và của tồn thể dân tộc Việt Nam, đặc biệt cần có quyết tâm chính trị cao và sự lãnh đạo quyết
liệt của Đảng. Có thể nêu một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần có sự đổi mới mạnh mẽ tư duy lý luận của Đảng. Đảng cần có quyết tâm
chính trị cao trong xây dựng nhà nước kiến tạo để làm nền tảng cho việc hình thành chính phủ
kiến tạo, tức là phải đồng bộ của ba bộ phận: Lập pháp, tư pháp và hành pháp, được xây dựng
và vận hành theo tinh thần kiến tạo.
Thứ hai, phải tổ chức lại theo hướng tinh gọn và đổi mới phương thức hoạt động của các
tổ chức chính trị - xã hội theo hướng xóa bỏ tình trạng quan liêu, bao cấp và hành chính hóa,
từng bước giảm bớt chi ngân sách nhà nước cho các tổ chức chính trị - xã hội, tiến tới không
dùng ngân sách nhà nước, lấy kết quả cuối cùng gắn với việc cải thiện và nâng cao mọi mặt về
16


vật chất và tinh thần của các thành viên của các tổ chức đó làm phương châm và mục tiêu hoạt
động.
Thứ ba, phải xây dựng một thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế văn hóa, thể chế xã
hội... theo hướng kiến tạo. Tạo môi trường sống và môi trường kinh doanh cho mọi người dân
và doanh nghiệp thực sự tự do và dân chủ, công bằng, văn minh, các quyền của con người được
bảo đảm đầy đủ.
Thứ tư, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực đủ mạnh, cơng khai, minh bạch và một cơ
chế giải trình rõ ràng, nghiêm minh, lấy thượng tôn pháp luật làm đầu, lấy đạo đức, văn hóa là
thước đo, lấy kết quả cuối cùng để đánh giá tốt, xấu, thành công, thất bại... Tất cả phải được
lượng hóa, khơng đánh giá chung chung, loại bỏ lối sống hình thức, giả dối, xu thời...
Thứ năm, để có chính phủ kiến tạo cần có bộ máy hành chính thực sự kiến tạo, do vậy
cần cải cách mạnh mẽ bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn, hiệu quả và hiệu lực. Xây dựng

một đội ngũ cơng chức chun nghiệp, có trình độ cao và có nhân cách tốt, có quyết tâm chính
trị và có khát vọng đưa đất nước đi lên ngày một giàu mạnh và phồn vinh.
Thứ sáu, cần được trang bị cơng nghệ hiện đại trong hoạt động hành chính theo hướng
chính phủ điện tử và chính phủ số. Đơn giản hóa các quy trình, thủ tục hành chính nhờ cơng
nghệ thông minh, công nghệ số và các công nghệ của cách mạng cơng nghiệp 4.0. Bên cạnh đó,
cần có chế độ lương phù hợp, thể hiện sự đánh giá của xã hội và chính phủ một cách xứng đáng
đối với sự đóng góp cơng sức, trí tuệ của cơng chức, tạo động lực cho họ làm việc theo đúng
tinh thần công vụ kiến tạo.
Thứ bảy, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, xóa bỏ tình trạng trên bảo dưới khơng nghe, tình
trạng vơ trách nhiệm trước hành động và quyết định sai trái của cá nhân và lãnh đạo; nêu cao
trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ, công chức trong thực thi cơng vụ trước chính phủ, chính
quyền, trước nhân dân và dân tộc.
Thứ tám, để có chính phủ kiến tạo cần phải có sự chủ động, sáng tạo, sự đồng hành mạnh
mẽ của các nhà lãnh đạo Đảng, Quốc hội, đồn thể chính trị - xã hội, các bộ, ngành, địa phương.
Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải cùng cam kết và nghiêm túc, khẩn trương thực hiện đổi mới
thể chế chính trị, đổi mới thể chế kinh tế, cải cách nền hành chính thì mới có thể thay đổi được
tình hình.
17


Với quyết tâm “phải chuyển từ phương thức mệnh lệnh hành chính sang Chính phủ kiến
tạo, phục vụ; quyết tâm xây dựng một chính phủ liêm chính, minh bạch, hiệu quả; nói khơng
với tham nhũng, tiêu cực, lãng phí” của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và với sự ủng
hộ của tồn hệ thống chính trị và tồn thể nhân dân, thì dù cịn nhiều thách thức, khó khăn ở
phía trước, nhưng chúng ta vững niềm tin chắc chắn chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động
và phục vụ sẽ được định hình và xây dựng ở Việt Nam trong thời gian tới, đưa đất nước phát
triển trên một tầm cao mới.
Về phía doanh nghiệp:
Thực tiễn cho thấy, thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nhân Việt Nam thời kỳ
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay và nhiều năm tới ngày càng được các doanh nhân nước ta

nhận thức sâu sắc và đó cũng chính là những đóng góp của các doanh nghiệp, doanh nhân vào
việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời
sống của người lao động và gia đình họ, có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như sự phát triển
chung của cộng đồng xã hội.
Thực tiễn cũng đã cho thấy, trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu, CSR đã trở thành
một trong những yêu cầu đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nếu doanh nghiệp nào đó khơng
tn thủ CSR sẽ khơng thể tiếp cận được với thị trường thế giới…
Thực hiện tốt trách nhiệm xã hội sẽ giúp nâng cao uy tín của doanh nghiệp, doanh nhân,
từ đó sẽ mang lại nhiều lợi nhuận kinh tế và lợi ích chính trị - xã hội cho họ. Tuy nhiên, cũng
không nên đồng nhất việc cứ làm từ thiện giỏi đã là thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, cho dù làm
từ thiện là một hoạt động thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực tế là đã có doanh
nghiệp tích cực làm từ thiện, nhưng vẫn vì chạy theo lợi nhuận mà vi phạm pháp luật, vi phạm
sự phát triển bền vững của cộng đồng xã hội. “Sự kiện Vê Đan” cùng một số doanh nghiệp khác
ở Đồng Nai đã “đầu độc” sông Thị Vải làm huỷ hoại môi trường mới đây là một minh chứng
điển hình cho trường hợp này.
Đến nay, chưa có cơ quan chức năng nào có thể thống kê đầy đủ con số các doanh nghiệp
thiếu trách nhiệm xã hội, thiếu văn hoá kinh doanh, đạo đức kinh doanh như vậy. Từ đó, càng
cho thấy tính cấp thiết của việc cần tăng cường đề cao hơn nữa tính tự giác, thậm chí đã đến lúc
khơng chỉ dừng lại ở ý thức tự giác trong nhận thức và hoạt động của mỗi doanh nghiệp, mà cần
18


luật pháp hoá vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo đúng các yêu cầu đã phản ánh
trong nội hàm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Cho đến nay, chúng ta đã có các doanh nghiệp sản xuất sạch: sản xuất rau sạch, nuôi
trồng thủy sản sạch, sản xuất than sạch... Nhưng những việc làm này hầu như cịn mang nhiều
tính bắt buộc hoặc là tự phát hơn là một việc làm tự nguyện, gắn liền với hoạt động kinh doanh
và hình ảnh của doanh nghiệp. Điều lưu ý nữa, do thói quen tiêu dùng và nhất là do “túi tiền”
còn hạn hẹp của đa số nguời tiêu dùng Việt Nam, nên thường sản phẩm sạch của các doanh
nghiệp này chủ yếu chỉ phục vụ cho các đối tượng khách hàng từ tầng lớp trung lưu, khá giả trở

lên, nên lợi nhuận và vòng quay lợi nhuận thu được cho các doanh nghiệp này cũng chưa phải
là hấp dẫn khiến cho không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể chuyên tâm vào sản xuất,
kinh doanh các sản phẩm này. Đó là cịn chưa kể cá biệt đã có doanh nghiệp sản xuất hoặc siêu
thị kinh doanh đã lợi dụng uy tín thương hiệu để đưa cả hàng “bẩn”, hàng nhái, hàng giả vào để
bán lẫn cùng hàng sạch cho người tiêu dùng.
Cần thấy rằng, trong thời gian qua, mặc dù công luận và các phương tiện thông tin đại
chúng đã thường xuyên đưa tin về những vi phạm gây ô nhiễm môi trường của nhiều doanh
nghiệp, nhưng dường như là đa số các cơ quan chức năng của các địa phương đều chưa có
những biện pháp đủ mạnh để xử lý các trường hợp đó, trong khi phần lớn các doanh nghiệp thì
tìm mọi biện pháp để né tránh trách nhiệm. Nhiều người cho rằng, nói về ý thức tự giác của
doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường trong thời điểm hiện nay dường như là một câu
chuyện xa vời và không thực tế! Nhưng rõ ràng, ô nhiễm môi trường từ hoạt động sản xuất, chế
biến các sản phẩm của các doanh nghiệp hiện nay đã lên tới mức báo động, thể hiện trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng nơng sản, thực
phẩm nói riêng đối với việc bảo vệ mơi trường cịn rất hạn chế.
Thứ nhất, như đã biết, tăng trưởng nhanh và bảo đảm tính bền vững của mơi trường sinh
thái đã ln là hai vấn đề nổi cộm, bức xúc của các nền kinh tế đang trong q trình đẩy mạnh
cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tiễn cho thấy, sau quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh,
nhiều nước đã phải trả giá đắt về sự bị huỷ hoại của tài nguyên, môi trường kèm theo sự gia
tăng thiên tai, dịch bệnh. Là nước đi sau, dù còn nghèo, chậm phát triển nhiều mặt, nhưng Việt
19


Nam đã cam kết thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ. Điều này cho thấy chúng ta không hy
sinh chất lượng sống của người dân vì mục tiêu tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, đó chỉ là sự cam kết của Chính phủ, cịn trên thực tiễn thì cho đến nay không phải
bất cứ doanh nghiệp nào cũng ý thức và thực hiện đầy đủ cam kết đó. Có nhiều ngun nhân
của tình hình này, song trước hết phải thấy trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp đó đã bị lợi
nhuận kinh tế lấn lướt, che phủ. Mặt khác cũng cần thấy rằng, hệ thống luật pháp của Việt Nam
về vấn đề này còn nhiều hạn chế, bất cập. Qua các vụ thực phẩm nhiễm độc vừa qua (nước

tương, sữa), chúng ta thấy các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước liên quan thường ở thế bị
động, có phần cơ bản là do các văn bản luật của ta chưa phù hợp, không bám sát thực tiễn,
thường tạo nhiều khe hở cho các vi phạm, nhưng lại khó xử lý, hoặc khơng thể xử lý được vì
nhiều khi, để xử lý nghiêm minh là phải xử lý toàn bộ hệ thống các cơ quan liên quan, từ Trung
ương đến địa phương. Quay trở lại “sự kiện Vê Đan” đã là minh chứng rõ: Bộ Khoa học – Công
nghệ và Môi trường đổ trách nhiệm cho địa phương; ngược lại, địa phương thì quy trách nhiệm
cho Bộ Khoa học – Công nghệ và Môi trường. Như vậy là, Luật Doanh nghiệp và Luật Môi
trường ở đây có vấn đề bất cập, cần phải được xem xét, điều chỉnh lại cho phù hợp.
Cũng cần thấy rằng, ngay cả khi quy định pháp luật đã có đủ, thì tính hiệu lực lại q thấp.
Nhiều vụ ơ nhiễm mơi trường đã diễn ra hơn chục năm không bị phát hiện, hoặc có phát hiện
nhưng lại khơng xử lý, hoặc có xử lý thì q nhẹ, có khi chỉ dăm ba cho đến vài chục triệu đồng
là xong. Điều đó cho thấy cơ quan quản lý không làm hết trách nhiệm của mình. Có lẽ, đây là
vấn đề mấu chốt, quan trọng nhất và chúng ta phải kiên quyết lập lại đúng trật tự, kỷ cương
pháp luật.
Thứ hai, nhìn chung, ý thức bảo vệ quyền lợi cộng đồng và ý thức bảo vệ ngay chính quyền
lợi cá nhân của người dân cịn rất thấp. Có thể nói, đứng trước các doanh nghiệp lớn, người dân
địa phương cảm thấy đơn lẻ, yếu thế, thiếu sự tin tưởng vào lẽ phải, vào sự hỗ trợ của các cơ
quan công quyền nhà nước. Bằng chứng là, trước nhiều sự kiện huỷ hoại môi trường của các
doanh nghiệp tại nhiều địa phương không phải là nhân dân sở tại không biết, mà vấn đề là dù họ
có bức xúc thì nhiều khi cũng khơng giải quyết được gì, vì mọi việc đều đã có “lo lót” trên
dưới, có khiếu kiện thì cũng bằng khơng.
20


Thứ ba, ở Việt Nam hiện nay hầu như không có các thiết chế đại diện, trung gian, đó là các
tổ chức phi chính phủ (NGOs), hiệp hội, nhóm lợi ích… là các tổ chức dân sự đóng vai trị rất
lớn ở các nước phát triển, vì thế khi xẩy ra các vấn đề bức xúc trên đây thì hầu như khơng có tổ
chức dân sự nào có thể đứng ra bênh vực quyền lợi cho nhân dân, cho người tiêu dùng về những
thiệt thịi đó. Cấu trúc trung gian của các tổ chức dân sự này tuy có thể phải tiêu tốn những
khoản chi phí cho hoạt động bộ máy, đại diện, nhưng xét về tổng thể, nó lại có thể giúp giảm

thiểu chi phí để những người dân, cộng đồng đơn lẻ đạt các mục đích xã hội của mình. Vai trị
của các hiệp hội kiểu đó ở nước ta hiện cịn rất thấp và hầu như khơng có sự hiện diện của hiệp
hội người tiêu dùng trong các vụ việc ô nhiễm thực phẩm, môi trường vừa qua.
Thứ tư, hiện nay, dư luận xã hội đang có chiều hướng đánh đồng hoạt động từ thiện với
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Như đã đề cập ở trên, từ thiện chỉ là một phần nhỏ trong
trách nhiệm xã hội, mà trách nhiệm xã hội lại chỉ là một tiêu chí bộ phận trong tổng thể các tiêu
chí khác hợp thành văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân. Một doanh nghiệp dù có đóng
góp hàng tỉ đồng từ thiện, nhưng nếu không thực hiện trách nhiệm xã hội một cách nghiêm túc,
đầy đủ thì vẫn có thể vì chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần mà dẫn đến hoạt động sản xuất,
kinh doanh bất hợp pháp, hoặc cũng có thể gây ơ nhiễm mơi trường, làm thiệt hại cho cộng
đồng xã hội nhiều tỉ đồng hơn thế.
Từ đó, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp ở nước ta là cần phải có một cách tiếp cận
toàn diện về trách nhiệm xã hội, cũng như cần phải luôn ý thức sâu sắc về mọi hoạt động của
mình, khơng chỉ tn thủ đúng pháp luật mà trước hết, cần phải có đạo đức, có văn hố doanh
nghiệp, văn hoá doanh nhân.
Để tăng cường trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay và trong thời gian tới, trước hết là tăng cường trách nhiệm của
doanh nghiệp đối với sự phát triển bền vững của đất nước, cụ thể là đối với thị trường, người
tiêu dùng và vấn đề bảo vệ môi trường, theo chúng tôi cần đồng thời thực hiện tốt các biện pháp
sau:
* Về phía các cơ quan quản lý nhà nước:
- Tăng cường tuyên truyền đối với các doanh nghiệp về nghĩa vụ và lợi ích của việc thực
hiện CSR. Việc tun truyền có thể được thực hiện thơng qua nhiều hình thức, như qua các
21


phương tiện thông tin đại chúng, các đợt tập huấn bắt buộc cho lãnh đạo các doanh nghiệp, các
hội nghị, hội thảo khoa học... Hơn nữa, việc tuyên truyền này cần được mở rộng đến cả các cơ
quan quản lý nhà nước có liên quan, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách vĩ mơ...
Đồng thời, nội dung của việc thực hiện CSR, các thông tin cập nhật về các bộ quy tắc ứng xử,

các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội liên quan phải được phổ biến đầy đủ và rõ ràng đến các doanh
nghiệp.
- Phân định rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể liên
quan trong việc hoạch định chính sách, thơng tin, tun truyền, kiểm tra, xử lý sai phạm của các
doanh nghiệp đối với các vấn đề liên quan đến CSR nói chung, trách nhiệm đối với thị trường,
người tiêu dùng và việc bảo vệ môi trường nói riêng. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà
nước với các chủ thể khác có liên quan cũng đóng vai trị hết sức quan trọng, bởi trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp chỉ được coi trọng và trở nên cấp thiết khi có cơ chế giám sát đồng bộ, có
sự kết hợp giữa chính quyền và các lực lượng dân sự trong xã hội, đặc biệt là các hiệp hội, tổ
chức phi chính phủ và các phương tiện truyền thơng, báo chí.
- Ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm
xã hội. Đặc biệt, cần quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản thực, phẩm
trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, sản xuất theo cơng nghệ sạch.
- Cần có các biện pháp đủ mạnh để xử lý vi phạm của các doanh nghiệp trong việc thực
hiện trách nhiệm xã hội, nhất là đối với các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng nông sản, thực
phẩm không bảo đảm chất lượng, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của người tiêu
dùng và gây ô nhiễm môi trường. Đồng thời, cần tăng cường các hình thức khuyến khích, động
viên, khen thưởng đối với các doanh nghiệp tự giác và thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, như giải
thưởng trách nhiệm xã hội, thương hiệu "xanh", cấp chứng chỉ cho các doanh nghiệp bảo đảm
các yêu cầu liên quan đến các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội trong các bộ quy tắc ứng xử được
áp dụng...
* Về phía các doanh nghiệp
- Cần thay đổi nhận thức về việc thực hiện CSR, đặc biệt là đối với đội ngũ các nhà quản
trị cấp cao trong doanh nghiệp. Việc thực hiện trách nhiệm xã hội không chỉ đơn giản là vấn đề
đạo đức kinh doanh hay các hoạt động từ thiện theo cách hiểu mang tính truyền thống; khơng
22


phải là các hoạt động đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ chi phí mà khơng đem lại lợi ích kinh tế,
ngược lại, thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ giúp các doanh nghiệp có được nhiều lợi thế trong

cạnh tranh trên thị trường.
- Các doanh nghiệp cần có chiến lược dài hạn trong việc xây dựng và thực hiện các tiêu
chuẩn trách nhiệm xã hội. Việc thực hiện CSR theo ý nghĩa đầy đủ và đích thực khơng phải là
một vấn đề đơn giản và nằm trong khả năng giải quyết tức thì của phần lớn các doanh nghiệp
Việt Nam, bởi sự hạn chế của nhận thức, của các yếu tố nguồn lực, trong đó có nguồn lực tài
chính, kỹ thuật, nhân lực trình độ cao. Vì vậy, các doanh nghiệp cần xây dựng một lộ trình phù
hợp trong việc từng bước thực hiện những nội dung trách nhiệm xã hội không chỉ phù hợp với
các chuẩn mực chung, mà cịn được các chủ thể có liên quan chấp nhận, góp phần tích cực vào
sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu và rộng hơn
vào kinh tế khu vực và toàn cầu./.

23



×