Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Ương ấu trùng cua (Scylla paramamosain) theo hai giai đoạn (Zoea1 – Zoea5 và Zoea5 – Cua1) với các mật độ khác nhau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.85 KB, 37 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG








LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ NGÀNH: 304


THỰC NGHIỆM ƯƠNG ẤU TRÙNG CUA BIỂN
THEO HAI GIAI ĐOẠN (Zoea
1
– Zoea
5
và Zoea
5

Cua
1
) VỚI CÁC MẬT ĐỘ KHÁC NHAU





Sinh viên thực hiện
NGUYỄN THANH HÙNG
MSSV: 06803014
LỚP: NTTS K1




Cần Thơ – 2010
2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ NGÀNH: 304


THỰC NGHIỆM ƯƠNG ẤU TRÙNG CUA BIỂN
THEO HAI GIAI ĐOẠN (Zoea
1
– Zoea
5
và Zoea
5


Cua
1
) VỚI CÁC MẬT ĐỘ KHÁC NHAU



Cán bộ hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Th.s TĂNG MINH KHOA NGUYỄN THANH HÙNG
MSSV: 06803014
LỚP: NTTS K1





Cần Thơ – 2010

3

LỜI CẢM TẠ
Trong quá trình thực hiện đề cương khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Nuôi trồng
thủy sản em xin chân thành bài tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thầy Tăng Minh Khoa
cùng với quí Thầy Cô- Khoa Sinh Học Ứng Dụng đã tận tình dạy bảo, truyền đạt cho
em những kiến thức vô cùng quí báu trong những năm học vừa qua và thời gian em
thực hiện đề tài tốt nghiệp. Em mong rằng trong cuộc sống quí Thầy Cô mãi là tấm
gương sáng để dìu dắt chúng em trên bước đường sự nghiệp.
Em xin bài tỏ lòng biết ơn đối với tập thể lớp Nuôi Trồng Thủy Sản K1 và gia đình đã
động viên an ủi và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài còn nhiều thiếu xót kính mong được sự góp ý của quí

Thầy Cô em xin chân thành cảm ơn.
Cuối cùng em xin chúc quí Thầy Cô - Khoa Sinh Học ứng Dụng – Trường Đại Học
Tây Đô được nhiều sức khõe để tiếp tục triền đạt nhiều hơn nữa những kiến thức vô
cùng quí báu cho thế hệ trẻ.




Em xin chân thành cảm ơn và ghi nhớ





NGUYỄN THANH HÙNG






4

TÓM TẮT
Cua biển (Scylla paramamosain) là đối tượng có giá trị kinh tế cao, tuy nhiên việc sản
xuất ra con giống còn gặp nhiều khó khăn nhất là tỷ lệ sống. Nghiên cứu được tiến
hành nhằm xác định ảnh hưởng của mật độ ương lên sự sinh trưởng và tỷ lệ sống của
ấu trùng cua. Trong giai đoạn từ Zoae
1
-Zoae

5
(thí nghiệm 1) được tiến hành ương ở
các mật độ 300 con/L, 400 con/L và 500 con/L và từ Zoae
5
- Cua
1
(thí nghiệm 2) với
mật độ ương 30 con/L, 40 con/L và 50 con/L. Kết quả thí nghiệm 1 cho thấy mật độ
ương 500 con/L cho tỷ lệ sống (14.7±10.88%) cao hơn mật độ 400 con/L (10,1±1,9%)
có ý nghĩa thống kê và cao hơn nghiệm thức mật độ 300 con/L (12,5±2,78) không có
ý nghĩa thống kê (p>0,05). Qua đó cho thấy khi ương ấu trùng Cua từ giai đoạn
Zoae
1
-Zoae
5
ở mật độ 500 con/L sẽ cho tỷ lệ sống cao hơn từ đó giúp tiết kiệm thể
tích ương đồng thời tiết kiệm được lượng thức ăn dẫn đến làm giảm chi phí sản xuất
góp phần tăng thêm lợi nhuận cho nhà sản xuất giống. Ở thí nghiệm 2 mặt dù tỷ lệ
sống ở nghiệm thức mật độ 30 con/L (11,8±1,56%) cao hơn so với nghiệm thức mật
độ 40 con/L (9±2,05%) và nghiệm thức mật độ 50 con/L (7,37±2,06) nhưng khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Do đó trong tương lai cần phải có định
hướng ương Cua ở giai đoạn Megalopa-Cua
1
ở mật độ cao hơn nhằm tiết kiệm chi phí
sản xuất nâng cao lợi nhuận cho các nhà sản xuất.








5

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
Trong nghề nuôi thủy sản nước lợ thì nghề nuôi giáp xác là một trong những đối
tượng quan trọng, mặc dù số lượng loài nuôi không nhiều so với thủy sản nước ngọt,
nhưng sản lượng và giá trị kinh tế thì không kém gì so với các đối tượng nước ngọt.
Với sự bấp bênh của con tôm dẫn đến nghề nuôi cua biển lại phát triển rầm rộ trong
những năm gần đây. Nhất là ở các tỉnh như Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh, Vũng Tàu,
Khánh Hoà, Thừa Thiên - Huế, Thanh Hoá, Hải Phòng… với diện tích 124.268 ha
(Nguyễn Cơ Thạch, 2003). Cua biển (Scylla paramamosain) còn gọi là cua xanh là
đối tượng từ lâu đã quen thuộc với nhiều người dân ở vùng ven biển, chúng được
nhiều người ưa thích bởi có kích thước lớn, tăng trọng nhanh, là nguồn thực phẩm
thơm ngon, giàu dinh dưỡng và có giá trị kinh tế. Tuy nhiên, nguồn giống chủ yếu
khai thác từ tự nhiên và phụ thuộc vào mùa vụ nên không đáp ứng đủ nhu cầu con
giống cho người dân.
Nghề nuôi cua biển được thực hiện với nhiều hình thức khác nhau như nuôi cua con
thành cua thịt trong các đầm quảng canh hay nuôi trong đăng quầng ở các bãi triều,
nuôi cua gạch trong ao và lồng, nuôi cua lột và nuôi cua ốp thành cua chắc trong ao
(Trần Ngọc Hải và csv., 2006).
Tuy nhiên, nguồn cua giống hiện nay cung cấp cho nuôi thương phẩm chủ yếu từ tự
nhiên, nhưng sản lượng cua tự nhiên đang giảm dần do đánh bắt quá mức (khai thác
tiêu thụ trực tiếp, khai thác nguồn giống cho nuôi ao) và do diện tích rừng ngập mặn
đã và đang bị thu hẹp đáng kể do các hoạt động nuôi tôm làm mất đi môi trường sinh
sống và làm bãi đẻ cho cua. Để đảm bảo nguồn giống cho ương nuôi và giảm bớt áp
lực khai thác cua tự nhiên, vấn đề sản xuất giống nhân tạo cua biển phải được quan
tâm và phát triển (Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005). Một trong những khó khăn ảnh
hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống và sự phát triển của ấu trùng là ảnh hưởng của mật độ

ương lên tỷ lệ sống và sự phát triển của ấu trùng.
Cua biển từ giai đoạn Megalopa xuất hiện cặp càng nên dễ dàng ăn lẩn nhau ở mật độ
dầy do đó ương ấu trùng cua hai giai đoạn (Zoea
1
– Zoea
5
và Zoea
5
– Cua
1
) với mật độ
giảm dần nhằm giảm bớt tỷ lệ hao hụt.
Xuất phát từ vấn đề trên đề tài “Ương ấu trùng cua (Scylla paramamosain) theo hai
giai đoạn (Zoea
1
– Zoea
5
và Zoea
5
– Cua
1
) với các mật độ khác nhau” được tiến
hành nhằm xác định mật độ ương tốt nhất để tăng tỷ lệ sống của ấu trùng cua, sẽ góp
phần vào việc phát triển kỹ thuật ương cua biển ngày càng hiệu quả hơn.

Mục tiêu đề tài
6

Xác định mật độ ương thích hợp nhằm nâng cao tỷ lệ sống của cua giống.
Giúp chủ động được nguồn giống nuôi. Góp phần hoàn thiện quy trình ương ngày một

tốt hơn.
Nội dung đề tài
Đánh giá ảnh hưởng của mật độ ương lên tỷ lệ sống của hai giai đoạn (Zoea
1
– Zoea
5

và Zoea
5
– Cua
1
) để đưa ra mật độ ương tốt nhất, từ đó góp phần nâng cao năng xuất
và hiệu quả kinh tế trong ương nuôi ấu trùng cua biển.
Ương ấu trùng cua Scylla paramamosain giai đoạn (Zoea
1
– Zoea
5
) với các mật độ
khác nhau. (300con/L; 400con/L; 500con/L).
Ương ấu trùng cua Scylla paramamosain giai đoạn (Zoea
5
– Cua
1
) với các mật độ
khác nhau. (30con/L; 40con/L; 50con/L).

7

CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


2.1. Đặc điểm sinh học của cua biển
2.1.1. Hình thái cấu tạo và phân loại
Theo Estampador (1949) loài Scylla paramanosain được phân loại theo hệ thống phân
loại của như sau:
Ngành : Arthropoda
Ngành phụ: Crustacea
Lớp: Malacostraca
Lớp phụ: Eumalacostraca
Bộ: Decapoda
Bộ phụ: Pleocyemat
Họ: Portunidae
Họ phụ: Portuninae
Giống: Scylla
Loài: Scylla paramamosain

Hình 2.1: Hình dạng loài cua biển Scylla paramamosain
Cua biển có tên tiếng Anh là mud crab, green crab, hay mangrove crab, tên tiếng việt
là cua biển, cua xanh, loài phân bố chủ yếu ở vùng biển nước ta là loài Scylla
8

paramanosain (cua sen) và loài Scylla olivacea (cua lửa). Cua có thân hình dẹp theo
hướng lưng bụng. Toàn bộ cơ thể được bao bọc trong lớp vỏ kitin dày và có màu xanh
lục hay vàng sậm. Cơ thể cua được chia thành hai phần: phần đầu ngực và phần bụng.
2.1.2. Phân bố
Theo Keenan et al (1998), Gopurenko et al (1999), loài Scylla paramamosain được
phân bố khắp khu vực biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, từ Nam Phi đến Biển
Đỏ, từ Okinnawa đến Tahiti và xuống tận miền Bắc nước Úc, Nhật Bản, Nam Trung
Quốc: Xiamen, Hong Kong, Singapore, Cambodia…Ở Trung Java: Indonesia và ở
Việt Nam chủ yếu là vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long.

Ở Việt Nam, Tại Đồng Bằng Sông Cửu Long theo Keenan et al. (1998) có hai loài chủ
yếu là Scylla paramamosain (cua sen) và Scylla olivacea (cua lửa), trước đây bị nhầm
lẫn là Scylla serrata (Hoàng Đức Đạt, 1992; Nguyễn Anh Tuấn và csv., 1996). Nhưng
thực sự loài Scylla serrata không được tìm thấy ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, cũng
như ở Việt Nam. Theo Le Vay et al. (2001), loài Sylla paramamosain chiếm trên 95%
trong quần thể Scylla, và loài Scylla olivacea chỉ chiếm khoảng 5%.
2.1.3. Vòng đời
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004). Vòng đời cua biển trải qua nhiều
giai đoạn và có tập tính sống cư trú khác nhau. The Ong (1964) lần đầu tiên đã mô tả
các giai đoạn của ấu trùng cua biển Scylla spp. Theo Sivasubramaniam and Angell
(1992), trứng cua nở thành ấu trùng Zoea
1
mất 16 − 17 ngày ở nhiệt độ 23 − 25
o
C.
Ấu trùng cua sau khi nở là Zoea
1
trải qua 4 lần lột xác để biến thái thành Zoea
5
trong
thời gian 17 − 20 ngày, mỗi giai đoạn mất 2 − 3 ngày. Từ Zoea
5
biến thái thành
Megalopa kéo dài trong khoảng thời gian 8 − 11 ngày. Ấu trùng Zoea có tính hướng
quang và sống phù du. Giai đoạn Megalopa chỉ lột xác một lần và mất 7 − 8 ngày để
biến thành Cua
1
(cua con). Cua con tiếp tục trải qua 16 − 18 lần lột xác nữa để trở
thành cua trưởng thành và thành thục thời gian này ít nhất khoảng 338 − 523 ngày.
Trước mùa sinh sản, cua di cư ra vùng biển ven bờ lột xác tiền giao vĩ rồi di cư ra biển,

trong quá trình di cư, trứng sẽ phát triển và chín dần. Cua ấp trứng trong khoang bụng,
cho đến khi nở thành ấu trùng Zoea
1
rồi tiếp tục lặp lại vòng đời.
Nhìn chung, chu kỳ sống của các loài cua biển theo Heasman (1980). Trích dẩn: Lee,
(1992) gồm 4 giai đoạn: giai đoạn ấu trùng, giai đoạn cua con (chiều rộng mai 20 − 80
mm), giai đoạn tiền trưởng thành (chiều rộng mai 70 − 150 mm) và giai đoạn trưởng
thành (chiều rộng mai 150 mm trở lên).
9


Hình 2.2: Vòng đời của cua biển Scylla sp.
Hình chụp: David Mann; Sắp sếp lại: Williams et al, 1999.

Eyespot eggs: trứng xuất hiện điểm mắt; Zoea
1
: ấu trùng Zoea
1
;
Zoea
5
: ấu trùng Zoea
5
; Megalopa: ấu trùng Megalopa; Crab
1
: giai đoạn cua con

2.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng
Hill (1979) đã phân tích và quan sát thấy rằng trong ống tiêu hóa của cua gồm nhiều
thành phần khoảng 50% nhuyễn thể, 21% giáp xác, 29% các mảnh vụn hữu cơ, ít khi

có cá trong ống tiêu hóa của cua. Sheen (2000) cũng cho rằng nhu cầu về thành phần
cholesterol trong thức ăn nhằm cải thiện tỷ lệ sống và tăng trưởng đối với cua Scylla
serrata, vì thế nhu cầu cholesterol trong khẩu phần ăn tối ưu là 0,5%.Tuy nhiên tính
ăn của cua sẽ thay đổi tuỳ từng giai đoạn phát triển của chúng:
Giai đoạn ấu trùng cua thích ăn các loài động vật phù du. Trong đều kiện nuôi cho ăn
với nhiều loại thức ăn khác nhau như: tảo, luân trùng, Artemia và cả thức ăn viên có
kích thước nhỏ. Theo Brick (1974) cho rằng nếu chỉ cấp tảo mà không bổ sung động
vật phù du thì ấu trùng Zoea
1
không chuyển sang giai đoạn Zoea
2
.
Hill (1984) cho rằng ở giai đoạn Megalopa thì mới ăn nhau bởi vì lúc này chúng có
cặp càng.
Giai đoạn cua con (kích thước khoảng 2 − 7 cm), tiền trưởng thành và trưởng thành:
ăn cua nhỏ, cá, xác động vật chết, nhuyễn thể Cua có tập tính trú ẩn vào ban ngày và
10

kiếm ăn vào ban đêm. Nhu cầu thức ăn của chúng khá lớn nhưng chúng lại có khả
năng nhịn đói 10 – 15 ngày ở trên cạn trong đều kiện ẩm ướt (Hill, 1976).
Trong đều kiện nuôi, nhiệt độ và độ mặn là hai yếu tố có ảnh hưởng lớn đến tính ăn và
hoạt động của cua (Manjulatha and Babu, 1998).
Nhu cầu dinh dưỡng của cua rất lớn, vì thế khi sản xuất hoặc nuôi thương phẩm nên
cung cấp đủ thức ăn cho cua để hạn chế ăn nhau, hạn chế sự hao hụt nâng cao tỷ lệ
sống cho cua.
2.1.5. Đặc điểm sinh trưởng
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, (2004) thì tuổi thọ trung bình của cua từ 2–
4 năm. Qua mỗi lần lột xác, khối lượng cua sẽ tăng lên 20–50%, và kích thước tối đa
mà cua có thể đạt được là 19 − 28 cm, với khối lượng 1 − 3 kg/con.
Cua biển là loài sinh trưởng không liên tục. Trước khi lột xác, cua phải tích lũy thật

nhiều dinh dưỡng để quá trình lột xác được thuận lợi. Quá trình phát triển của cua trải
qua nhiều lần lột xác và biến thái. Đường tăng trưởng của cua theo dạng bậc thang,
cua tăng trưởng về kích thước và khối lượng đột ngột sau mỗi lần lột xác. Ở từng giai
đoạn thì thời gian giữa các lần lột xác cũng khác nhau. Cua lột xác để tăng kích thước
và quá trình này phụ thuộc rất lớn vào đều kiện dinh dưỡng, môi trường và giai đoạn
phát triển của cơ thể. Theo Manganapa et al, (1987) cho rằng cua đực tăng trưởng
nhanh hơn cua cái và tốc độ tăng trưởng của cua đực khoảng 1,3 g/ngày, trong khi đó
cua cái tăng trưởng 0,9 g/ngày. Quá trình lột xác của cua mang tính đặc trưng riêng
biệt từng loài, thông thường 2 − 3 ngày/lần. Cua càng lớn thì chu kỳ lột xác càng kéo
dài từ 15 − 30 ngày/lần. Nơi ẩn náo rất quan trọng trong thời gian lột xác của cua,
trước khi lột xác cua thường tìm đến những nơi bụi rậm, gốc cây kính đáo để trú ẩn và
lẩn tránh kẻ thù. Khi mới lột xác cua rất yếu vỏ mềm, nên biện pháp sinh tồn là tìm
nơi an toàn để lột xác. Đặc biệt, trong quá trình lột xác, cơ thể của chúng có thể tái
sinh những phần phụ bộ đã mất. Ðối với những con cua bị tổn thương, khi mất phần
phụ bộ thì cua có khuynh hướng lột xác sớm hơn (Trần Ngọc Hải và csv, 1999).
Quá trình tăng trưởng của cua biển còn chịu ảnh hưởng bởi nhiệt độ. Lee (1992) cho
rằng sự tăng trưởng của cua biển ngừng vào mùa đông, khi nhiệt độ giảm xuống 20
0
C.
Theo Manjulatha and Babu (1998) cho rằng nhiệt độ và nồng độ muối có ảnh hưởng
rất lớn đến sự lột xác và tăng trưởng của Cua. Nhiệt độ nước thấp hơn 24
o
C hoặc trên
34
o
C làm cua giảm ăn và kéo dài thời gian lột xác. Ở nhiệt độ từ 26 − 31
o
C, hoạt
động bắt mồi và lột xác của cua trong tình trạng bình thường. Loài S. paramamosain
có thể chịu đựng sự chênh lệch bất thường của nồng độ muối.



11

2.1.6 Đặc điểm sinh sản
2.1.6.1 Tuổi thành thục
Cua biển thành thục sinh dục vào khoảng 1 − 1,5 tuổi. Lúc này chiều rộng của vỏ
khoảng 10 cm và khối lượng thân trên dưới 150 gam (Nguyễn Thanh Phương và Trần
Ngọc Hải, 2004). Theo Prasad (1989), cua Scylla paramamosain chỉ tham gia sinh sản
khi chiều rộng mai đạt từ 120 − 180 mm. Thêm vào đó, không như cua đực, cua cái
không bao giờ đạt đến 100% độ thành thục ở bất cứ kích cỡ nào. Theo Le Vay (2001)
sự thành thục của cua biển tuỳ theo từng loài khác nhau.









Hình 2.3: Sự thay đổi hình dạng của cua biển ở giai đoạn thành thục
(Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005)
Theo Fielder and Heasman (1978), nhiệt độ có ảnh hưởng đến sự thành thục của cua.
Nếu nhiệt độ nước cao sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng, do đó sẽ rút ngắn thời gian
thành thục của cua.

GĐ1
GĐ2


GĐ3
GĐ3
GĐ4
12

Bảng 2.1 Các giai đoạn thành thục của cua cái

2.1.6.2 Tập tính bắt cặp, đẻ và ấp trứng
Đối với vùng nhiệt đới cua đẻ quanh năm. Ở Việt Nam, mùa vụ sinh sản chính của
cua từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau (Hoàng Đức Đạt, 2004). Cua biển là loài có tập
tính di cư sinh sản. Tới mùa sinh sản, cua di cư ra vùng biển ven bờ, lột xác tiền giao
vĩ. Hill (1976) cho rằng, sở vĩ cua di cư ra biển là cốt lỗi để tìm đều kiện tốt cho sự
phát triển tốt cho ấu trùng Zoea. Trước khi giao vĩ cua cái tiết ra một loại Hormon để
quyến rũ cua đực. Cua đực thường lớn hơn cua cái, khi giao vĩ cua đực dùng các chân
bò và càng ôm chặt lấy cua cái trên mặt lưng nó mang cua cái đi quanh có khi kéo dài
3 − 4 ngày, sau đó cua cái lột xác và bắt đầu giao vĩ, thời gian giao phối có thể kéo dài
từ 7 giờ đến 12 giờ (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2004). Cua đực ôm
cua cái áp sát mặt bụng vào nhau và gỡ yếm cua cái ra để giao phối. Túi tinh của con
đực được đưa vào túi chứa tinh của con cái ở giữa gốc chân thứ tư và thứ năm. Túi
tinh này được giữ trong nhiều tuần để thụ tinh qua nhiều lần sinh sản, tức là một lần
giao phối có thể thụ tinh cho cua cái từ 1 − 3 lần đẻ trứng. Sau đó, khi con cái đẻ trứng
thì cùng lúc tinh trùng được giải phóng để thụ tinh cho trứng. Cua đẻ rất khỏe. Một
con cái có thể đẻ từ vài trăm ngàn đến 2 − 3 triệu trứng mỗi năm. Trong một năm cua
đẻ từ 2 − 3 lần. Khi đẻ trứng cua cái nằm ở đáy dùng các chân bám vào nền đáy, phần
đầu ngực được nâng lên phần bụng (yếm Cua) được mở ra các chân bụng được dựng
đứng lên. Trứng chín qua ống dẫn trứng thụ tinh với tinh trùng từ túi chứa tinh trùng.
Phần lớn trứng đẻ ra được ấp trong khoang bụng của cua mẹ cho đến khi nở. Trứng
cua được ấp ở nơi nước biển có độ mặn cao khoảng 29-32‰, nhiệt độ ổn định. Thời
gian ấp trứng dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiệt độ nước. Nhiệt độ càng cao thời gian
ấp trứng càng nhanh. Trong đều kiện thuận lợi, trứng có thể nở đồng loạt khoảng 3 −

6 giờ
Giai đoạn I Chưa thành thục, tuyến sinh dục mỏng và trong suốt, bụng có dạng
tam giác. Đường kính trứng 0,01− 0,06 mm.
Giai đoạn II Tuyến sinh dục đang phát triển, noãn sào có màu trắng kem hay vàng
chiếm 1/4 gan tụy. Đường kính trứng 0,1 − 0,3mm.
Giai đoạn III Cua đang thành thục noãn sào nở rộng, chiếm ¼ − 3/4 diện tích gan
tụy. noãn sào màu trắng. Đường kính trứng 0,4 − 0,9 mm.
Giai đoạn IV Túi chứa tinh lồi lên, noãn sào màu cam hay đỏ, nở rộng và chiếm
hết diện tích gan tụy và cả khoang rột. có thể nhìn thấy màu vàng từ
phía sau giữa giáp đầu ngực và yếm. Đường kính trứng 0,7 − 1,3
mm.
13





Hình 2.4: Hình d

ng bu

ng tr

ng khác nhau t

giai
đ
o

n 1


4
(Ph

m Th

Tuy
ế
t Ngân, 2005
)

2.1.6.3 Sự phát triển phôi và các giai đoạn ấu trùng

Tr

ng cua m

i
đẻ

đườ
ng kính trung bình 0,3 mm và có màu vàng t
ươ
i. S

phát
tri

n c


a tr

ng
đượ
c phân bi

t theo màu s

c: t

vàng t
ươ
i sang vàng
đậ
m, chuy

n
sang xám, cu

i cùng chuy

n sang
đ
en, lúc này là lúc xu

t hi

n m

m chân và m


t, sau
đ
ó tim b

t
đầ
u
đậ
p và các c
ơ
quan khác c
ũ
ng b

t
đầ
u hình thành, khi tim
đậ
p kho

ng
200 − 240 l

n/phút phôi s

phá v

v


và chui ra ngoài,
đ
ây là

u trùng Zoea. Kho

ng
th

i gian t

lúc cua cái
đẻ
cho
đế
n lúc n

ra

u trùng Zoea là 17 ngày (Tr
ươ
ng Tr

ng
Ngh
ĩ
a, 2004). Theo Hoàng
Đứ
c
Đạ

t (2004)

u trùng Zoea m

i n

là Zoea
1


u trùng
b

t
đầ
u b
ơ
i l

i
đượ
c ngay do có
đ
ôi m

t kép và s

c t



đ
en.

u trùng Zoea h

u h
ế
t ph

i
tr

i qua 5 giai
đ
o

n: t

Zoea
1

đế
n Zoea
4
m

i giai
đ
o


n 2 − 3 ngày, riêng giai
đ
o

n
Zoea
5
t

3 − 4 ngày.

u trùng có tính h
ướ
ng quang, chúng s

ng phù du, ho

t
độ
ng
nh

chân hàm 1 và s

co giãn c

a ph

n b


ng. Sau giai
đ
o

n Zoea
5
,

u trùng l

t xác
bi
ế
n thái thành giai
đ
o

n Megalopa. Khi chuy

n sang Megalopa

u trùng có khuynh
h
ướ
ng chuy

n sang s

ng bám vào v


t th

, do
đ
ó

giai
đ
o

n này n

n
đ
áy
đố
i v

i
chúng là r

t quan tr

ng vì chúng ho

t
độ
ng tích c

c và

ă
n t

p. T

giai
đ
o

n này chúng
m

t 7 − 11 ngày
để
bi
ế
n thái thành cua con (Cua
1
).

GĐ1
G
Đ
3

GĐ4

GĐ2

14


Bảng 2.2 Các giai đoạn ấu trùng cua biển (Scylla sp)
Giai đoạn Thời gian sau
khi nở (ngày)
Kích cỡ
(mm)
Đặc điểm phân biệt quan trọng

Zoea
1
0 − 3 1,65
Mắt chưa có cuống. Chân hàm I và II đều mang 4
lông tơ trên nhánh ngoài. Có 5 đốt bụng.
Zoea
2
3 − 6 2,18
Mắt có cuống. Nhánh ngoài của chân hàm I và II
mang 6 lông tơ. Có 5 đốt bụng.
Zoea
3
6 − 8 2,70
Nhánh ngoài của chân hàm I mang 8 lông tơ, chân
hàm II mang 9 lông tơ. Có 6 đốt bụng. Gai bên của
đốt bụng 3 − 5 dài hơn.
Zoea
4
8 − 11 3,54
Nhánh ngoài của chân hàm I mang 10 lông tơ, của
chân hàm II mang 10 lông tơ dài, 1 − 2 lông ngắn.
Mầm chân bụng xuất hiện trên các đốt bụng 2 − 6

Zoea
5
10 − 16 4,50
Nhánh ngoài của chuân hàm I mang 11 lông dài, 1
− 4 lông ngắn, nhánh ngoài của chân hàm II mang
12 lông dài và 2 − 3 lông ngắn. Chân bụng trên đốt
bụng 2-6 rất phát triển, nhánh ngoài của chân bụng
có thể mang 1 − 2 lông tơ.
Megalopa 15 − 23 4,01
Mất gai lưng. Gai trán rất ngắn. Mắt to. Telson
không còn chẻ 2 mà dạng bầu và có nhiều lông
trên các nhánh.
Cua con
C1
23 − 30 2 − 3 CW

Cua có hình dạng như cua trưởng thành, mặc dù
carapace hơi tròn.
2.1.7. Tập tính hoạt động và khả năng thích nghi với môi trường
2.1.7.1 Môi trường và tập tính sống
Vòng đời cua biển trải qua nhiều giai đoạn, ở mỗi giai đoạn đều có tập tính sống và cư
trú khác nhau.
- Giai đoạn ấu trùng Zoea và Megalopa: Theo Warner (1977) ấu trùng sống trôi nổi
và nhờ dòng nước đưa vào ven bờ, sau đó biến thái thành cua con.
- Giai đoạn cua con, cua tiền trưởng thành và cua trưởng thành: Theo
Sivasubramaniam and Angell (1992) trong chu kỳ sống, chúng sống trong vùng rừng
15

nước mặn, cửa sông, nơi có đáy bùn hoặc đất thịt, sống vùi trong bùn vào ban ngày và
di chuyển đến vùng triều thấp vào ban đêm để kiếm ăn.

- Giai đoạn thành thục: Lúc này cua có tập tính di cư ra vùng nước mặn ven biển để
sinh sản.
Nhìn chung, ấu trùng Zoea thích hợp với độ mặn từ 25 − 30‰. Giai đoạn cua con và
cua trưởng thành phát triển tốt trong phạm vi 2 − 38‰. Tuy nhiên trong giai đoạn đẻ
trứng, độ mặn cần được duy trì ở 22 − 32‰. Theo báo cáo của Hyland (1984), cua
phân bố trong tự nhiên có liên quan đến dòng chảy với vận tốc 0,06 − 1,6 m/s.
2.1.7.2 Ðịch hại của cua
Theo Warner (1997) được trích dẫn bởi Hoàng Ðức Ðạt (2004), trong tự nhiên tỷ lệ
tử vong của cua rất cao và xảy ra trong suốt chu kỳ sống, nguyên nhân là do tập tính
ăn lẫn nhau. Giá thể là yếu tố quan trọng, có thể làm tăng đáng kể tỷ lệ sống của quần
đàn, nhất là trong đều kiện ương nuôi.
2.2. Các nghiên cứu sản xuất giống và nuôi cua biển
2.2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới
2.2.1.1 Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn và mật độ
Zeng and Li (1992) làm thí nghiệm về ảnh hưởng của số lượng và chất lượng trong
khẩu phần ăn lên sự phát triển và tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển (Scylla serrata)
nhận thấy rằng luân trùng (Brachionus plicatilis) là khẩu phần ăn thích hợp cho sự
phát triển của ấu trùng cua biển ở giai đoạn đầu, ở mật độ luân trùng 60 cá thể/ml cho
tỷ lệ sống ấu trùng cao nhất ở giai đoạn Zoea
3
. Khi ấu trùng ở giai đoạn Zoea
5
, nếu chỉ
cho ăn luân trùng đơn độc sẽ có hiện tượng chậm lột xác và dẫn đến tử vong. Như vậy,
luân trùng không thể dùng cho ương nuôi cho tất cả các giai đoạn ấu trùng cua biển.
Mặt khác, ấu trùng cua biển ở giai đoạn Zoea
1
được cho ăn ấu trùng Artemia thì cho tỷ
lệ sống thấp, nhưng ở giai đoạn Zoea
5

, việc cung cấp ấu trùng Artemia sẽ cho kết quả
tốt. Khi so sánh khẩu phần ăn kết hợp, Zeng and Li (1992) nhận thấy rằng, ấu trùng
cua biển ở giai đoạn đầu được cho ăn bằng luân trùng mật độ cao, đến giai đoạn Zoea
2

hoặc Zoea
3
thay bằng Artemia, hoặc hỗn hợp ở Zoea
3
thì cho tỷ lệ sống tốt nhất. Tình
trạng thiếu dinh dưỡng trong thời kỳ Zoea có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống ở giai đoạn
Megalopa.
Mann and Palato (1995) đã làm thí nghiệm không cho ấu trùng Zoea
1
của S. serrata
ăn và ấu trùng có thể sống đến 142 giờ nhưng không thể chuyển sang Zoea
2
được.
Ngược lại với Mann and Palato thì Djunaidah et al. (2003) đã nói rằng, ấu trùng
không được cho ăn trong vòng 48 giờ sau khi nở sẽ dẫn đến tỷ lệ chết rất cao. Thức ăn
rất quan trọng đối với ấu trùng Zoea
1
, tỷ lệ sống có cao hây không thì thức ăn ở đầu
chu kỳ ương sẽ quyết định.
16

Khi thực hiện thí nghiệm ương ấu trùng cua biển bằng thức ăn luân trùng, Yunus
(1992) đã làm thí nghiệm sử dụng luân trùng với mật độ của luân trùng cho ăn 60 cá
thể/L bổ sung vào giai đoạn Zoea
1



Zoea
2
sẽ nâng cao tỷ lệ sống cao hơn 55%

.
Mardjono and Arifin (1993) cho rằng, luân trùng di chuyển chậm thích hợp cho ấu
trùng cua giai đoạn Zoea
1
và Zoea
2
. Từ Zoea
3
trở đi, ấu trùng cua biển tìm kiếm thức
ăn và chúng có thể ăn ấu trùng Artemia. Ngay ở giai đoạn Megalopa, ấu trùng cua có
thể ăn Artemia 2 ngày tuổi (Basyar, 1994).
Một nghiên cứu khác của Yunus and et al. (1994) nhằm cải thiện tỷ lệ sống của ấu
trùng cua biển, đặc biệt là giai đoạn Zoea
1
và Zoea
2
thông qua việc giàu hóa luân
trùng bằng hỗn hợp 10 g dầu gan cá tuyết, 20 g lòng đỏ trứng gà và 5 g men hòa tan
trong 100 lít nước, luân trùng được nuôi khoảng 2 giờ. Ấu trùng cua được cho ăn luân
trùng sau khi giàu hoá với mật độ 15 − 20 cá thể/ml nước ương. Kết quả cho tỷ lệ
sống của Zoea
1
(sau 5 ngày thả) là 74,1%.
Marichamy and Rajapackiam (2001) cho rằng nếu cho ăn thức ăn nghèo dinh dưỡng

thì ấu trùng có thể xảy ra hiện tượng bẩy lột xác, tỷ lệ chết cao trong suốt quá trình lột
xác hoặc lột xác chuyển tiếp từ Zoea
5
sang Megalopa. Kanazawa and Koshio, (1994)
đã cải thiện chất lượng dinh dưỡng của luân trùng và Artemia bằng cách giàu hóa.
Suprayudi et al. (2002) (Trích bởi Phạm Văn Quyết, 2008) đã ghi nhận sự cải thiện có
ý nghĩa đối với tỷ lệ sống của ấu trùng S. serata sau khi giàu hóa lượng acid béo cao
phân tử không no (n-3) cho luân trùng ở mức 3 − 8 mg/L.
Tuy nhiên, việc giàu hóa cũng gây ra không ít khó khăn. Hamasaki et al. (2004)
(Trích bởi Phạm Văn Quyết, 2008) cho rằng sở vĩ tỷ lệ tử vong cao của ấu trùng S.
serata từ Zoea
5
biến thái sang Megalopa là kết quả của quá trình giàu hóa n-3 HUFA
trên 6 mg/L, làm cho ấu trùng Zoea
5
phát triển bất thường. Ở Việt Nam, việc giàu hóa
luân trùng bằng nhũ tương chứa 30% của tổng n-3 HUFA làm gia tăng tốc độ tăng
trưởng của ấu trùng S. paramamosain. Từ các kết quả nghiên cứu trên, các tác giả đã
khẳng định rằng nhu cầu của tổng n-3 HUFA có thể khác nhau giữa các loài
Mật độ:
Zeng (1998), đã làm thí nghiệm ương ấu trùng cua biển với thể tích thí
nghiệm là 0.1 − 5 L tới giai đoạn Megalopa đạt 60 − 90%. Fukunaga and Uzumaki
(1982) cho rằng, các bể composite có thể tích lớn 1 − 20 m
3
hình chóp có kết hợp với
hệ thống lọc, nên ương ở mật độ 30 − 100 con/L, Nghĩa (2004) cũng đưa ra kết luận
như vậy.
Yunus et al, (1994) đã thí nghiệm ở mật độ ương 25 con/L; 50 con/L; 75 con/L;100
con/L. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của ấu trùng cua giảm khi tăng mật độ ương, tương
ứng là 18,9%; 13,7%; 9,7%; 8,9% (Trích bởi Phạm Văn Quyết, 2008).

Djunaidah et al, (2001). Nhận thấy tỷ lệ sống đến giai đoạn Zoea
5
cao nhất khi ương
ở mật độ 100 con/L là 63%, trong khi ương ở mật độ 50 con/L thì tỷ lệ sống chỉ đạt
17

27%, còn ương ở mật độ 75 con/L thì tỷ lệ sống 39% (Trích bởi Trương Trọng Nghĩa,
2005).
2.2.1.2 Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường
*Nhiệt độ và độ mặn
Nhiệt độ được xem là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ấu trùng cua.
Tỷ lệ bắt mồi của ấu trùng giảm khi nhiệt độ thấp dưới 20
o
C. Ở nhiệt độ 19 − 23
o
C
tất cả các ấu trùng đều chết ở giai đoạn Zoea
3
, chúng chỉ sống được 15 ngày
(Heasman,1993). Ở nhiệt độ 2 − 224
o
C ấu trùng chỉ còn sống rất ít sau 18 ngày, tỷ lệ
chết của ấu trùng Zoea
4
rất cao. Nhiệt độ không chỉ ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ấu
trùng mà còn ảnh hưởng đến thời gian biến thái của ấu trùng. Giai đoạn ấu trùng cua
có thể kéo dài 28-35 ngày khi nhiệt độ 25 − 27
o
C trong khi nhiệt độ 28 − 30
o

C chỉ có
26 − 30 ngày (Marichamy,1992).
Ngoài nhiệt độ thì độ mặn cũng ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ sống và phát triển của ấu
trùng. Ở Việt Nam, nồng độ muối trong các trại ương ấu trùng cua biển được duy trì ở
mức 30‰, nhiệt độ khoảng 29
o
C, pH = 7,5 − 8,0 (Trương Trọng Nghĩa và csv,1995).
Ngoài ra, theo Marichami and Rajackiam (1991) ương ấu trùng Zoea ở nhiệt độ 27 −
30
0
C và độ mặn từ 25

30‰ đạt kết quả tốt so với các đều kiện nhiệt độ và độ mặn
khác. Zeng and Li (1992) cho biết, khoảng nhiệt độ từ 25 − 30
0
C là tối ưu cho sự phát
triển của ấu trùng Zoea, tuy nhiên ở giai đoạn đầu ấu trùng chịu đựng tốt ở nhiệt độ
thấp hơn, trong khi Megalopa có thể sống tốt ở nhiệt độ cao khoảng 32
0
C.
2.2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
2.2.2.1 Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn
Thí nghiệm nghiên cứu trên ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain) cho biết, tảo
Chaetoceros không là thức ăn tươi sống thích hợp cho Zoea
1
trong khi luân trùng có
khả năng làm tăng tỷ lệ sống và được xem là loại thức ăn tươi sống đầu tiên. Ấu trùng
cua biển bắt đầu dùng đến ấu trùng Artemia giai đoạn 1 từ Zoea
2
. Khi so sánh giữa

thức ăn là Artermia giai đoạn 1 chết nhiệt ( ở nhiệt độ nước 80
0
C) hoặc đông lạnh với
Artermia bung dù tươi sống (chưa tách vỏ), tác giả thấy rằng, tỷ lệ sống giai đoạn
Zoea
5
− Cua
1
đều thấp, và thức ăn Artemia bung dù tươi sống (chưa tách vỏ) được
xem thích hợp nhất vì chúng ở tính trạng lơ lửng và ít gây sự nhiễm bẩn nước trong
trường hợp thiếu luân trùng, có thể cho ấu trùng cua biển ăn luân trùng chỉ một vài
ngày (ngày đầu tiên đến ngày thứ 3), sau đó thay thế bằng Artemia. Lượng luân trùng
cần cung cấp ở giai đoạn Zoea
1
là ( 100 cá thể/ml), thức ăn Artermia cần gia tăng mật
độ tới 20 cá thể/ml (Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005).

18

2.2.2.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của thể tích và mật độ

Cũng như tôm sú, ấu trùng cua biển sau khi nở được khử trùng bằng formaline 100
ppm trong một phút hoặc 200 ppm trong 30 giây, rồi mang bố trí vào hệ thống nuôi. Ở
nhiều nước khác nhau thì hệ thống ương cũng khác nhau. Đài Loan dùng bể 500 L để
ương ở giai đoạn Zoea và bể 1 − 10 m
3
khi chuyển Megalopa, mật độ ương là 10
con/L (Phạm Văn Quyết, (2008). Nhưng ở Ấn Độ thì lấy bể 300 L để ương, mật độ 25
− 75 con/L, Theo Trần Ngọc Hải (2001), ở Úc ương với mật độ 30 − 100 con/L, Nhật
Bản 10 − 50 con/L và Malaysia 25-30 con/L. Nguyễn Cơ Thạch và csv. (1998), đã bố

trí thí nghiệm ương ấu trùng cua ở các mật độ khác nhau từ 10 − 50 con/L. Qua thí
nghiệm hai ông kết luận rằng mật độ ương 10 con/L đạt tỷ lệ sống 72% là cao nhất.
Nhưng mật độ 30 con/L tỷ lệ sống đạt 70% lại cho hiệu quả kinh tế cao hơn mật độ 10
con/L. Trương Trọng Nghĩa (2004) khi ương ấu trùng cua Scylla paramamosain ở mật
độ 50 − 200 con/L cho thấy đến ngày thứ 15 sau khi ương thì tỷ lệ sống của ấu trùng ở
nghiệm thức mật độ 100 con/L (45 ± 8%) cao hơn so với các nghiệm thức mật độ 200
con/L (30 ± 5%), 150 con/L (28 ± 10%) và 50 con/L (28 ± 12%).
2.2.2.3 Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường
Khi nghiên cứu ảnh hưởng độ mặn lên ấu trùng cua, Trần Ngọc Hải (1997) cho rằng độ mặn
tốt nhất cho quá trình lột xác, tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cua nên nằm trong
khoảng từ 28 − 30‰. Đồng thời cường độ ánh sáng 4500 – 6000 lux cho kích cỡ và tỷ
lệ sống của ấu trùng cua biển là tốt nhất.
Khi nghiên cứu về các yếu tố môi trường ảnh hưởng tới sự phát triển trong ương ấu
trùng cua biển (Hoàng Đức Đạt, 1995) cho rằng độ mặn 30‰, nhiệt độ là 28
0
C, pH từ
7,5 – 8,0 thì thời gian biến thái ấu trùng từ Zoea
1
đến Megalopa là 17 ngày. Ông cho
rằng độ mặn càng cao thì thời gian biến thái của ấu trùng càng chậm.









19


CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian:
Địa điểm: Trại tôm sú giống Đăng Khoa số 179C/5 – KV1 – An Bình – Ninh Kiều –
Cần Thơ.
3.2 Vật liệu nghiên cứu
3.2.1 Dụng cụ và trang thiết bị
- Bể xử lí nước và bể chứa nước.
- Bể ương ấu trùng: Xô nhựa 9 cái, thể tích 60L/cái
- Hệ thống sục khí: Ống dẫn khí, van đều chỉnh, đá bọt.
- Bình ấp Artemia.
- Kính hiển vi, nhiệt kế thủy ngân,
- Bộ test pH, NH
+
4
, NO
-
2
,NO
-
3,
KH.
- Các dụng cụ khác như: Cân điện tử, máy bơm, ống xi phon, thao nhựa, cốc
thủy tinh…
3.2.2 Hóa chất
Hóa chất xử lí nước dùng trong thí nghiệm: Chlorine, formol, EDTA…
3.2.3 Nguồn nước

Nước ngọt lấy từ nguồn nước máy của thành phố pha với nước ót (lấy từ Vĩnh Châu
có độ mặn 80‰ - 120‰) thành nước 30‰.
Phương pháp xử lý: Nước được xử lý bằng chlorine 60 ppm, sục khí mạnh, liên tục.
Sau 48 giờ cho chlorine bay hơi, kiểm tra lại hàm lượng chlorine bằng bộ test, nếu
thấy còn chlorine thì trung hòa chlorine bằng Na
2
S
2
O
3
, sao đó đều chỉnh pH bằng
NaHCO
3
10 ppm, tiếp tục trung hòa độ kiềm bằng CaCO
3

10 ppm

và dùng EDTA 10
ppm để kết tủa kim loại nặng. Sục khí mạnh, sau 6h có thể sử dụng, trước khi sử dụng
xử lý ozone 0,3 ppm trong 1 giờ.
3.2.4 Nguồn cua bố mẹ
Cua mẹ mang trứng được thu mua từ trại nuôi vỗ cua bố mẹ ở Cà Mau, được vận
chuyển bằng xô nhựa có gắn sục khí. Cua mẹ có trọng lượng khoảng 400 − 600 gr, cơ
thể còn đủ phụ bộ, trứng có màu xám đồng đều, yếm xòe.
20

3.2.5 Thức ăn
- Artemia bung dù và Artemia nở (ở thí nghiệm 1). Cho ăn thức ăn chế biến (ở thí
nghiệm 2). Và cho ăn với mật độ 5 cá thể/ml.


Thành phần Thức ăn chế biến:
+ 200 g thịt tép
+ 20 lòng đỏ trứng
+ 50 g sữa bột
+ Dầu mực 5%
+ Leucethine 2%
Cách chế biến: Cho các thành phần trên vào máy xay sinh tố xay nhuyễn, sau đó đem
hỗn hợp chưng cách thủy khoảng 15 − 20 phút, đem hỗn hợp nghiền qua lưới cà kích
thước mắt lưới cỡ 1000 µm sau đó có thể đem cho ấu trùng cua ăn, có thể bảo quản
trong tủ lạnh cho ăn nhiều lần.
Phương pháp nở và sử dụng
Artemia: Khử trùng trứng Artemia trước khi nở nhằm
loại bỏ mầm bệnh bám trên vỏ trứng Artemia .
Khử trùng trứng Artemia: Ngâm trứng cần cho nở trong dung dịch hóa chất khử trùng
(javel, chlorine) 200ppm trong 20 phút với mật độ khử trùng là 50 gam trứng/L dung
dịch. Sau đó rữa sạch trứng bằng nước ngọt qua lới lọc 100 − 150 µm và cho nở.
Phương pháp cho nở trứng Artemia: Bể nở Artemia trong có hình trụ chóp nón, màu
trắng có vòi tháo ở đáy. đem ấp ở độ mặn 25‰. Nhiệt độ ấp trứng 25 − 30
0
C, tốt
nhất là 28
0
C. pH từ 8 − 8,5. Mật độ cho nở 2 − 5 g/L tốt nhất là 2g/L. cường độ sáng
từ 1000 − 2000 lux. Sục khí mạnh, thời gian nở từ 15 − 24 giờ tùy từng loại trứng.
Đối với Artemia bung dù thì thới gian bung dù khoảng 14 − 15 giờ. Trước khi thu
naupli cần tắc sục khí, đậy kín bể, chờ 15 phút cho vỏ trứng nổi lên, mở val thu ấu
trùng tách biệt dưới đáy bể. Ngâm ấu trùng lại bằng formaline với nồng độ 500 ppm
sau đó rữa lại bằng nước ngọt, đem cho ấu trùng cua ăn hoặc có thể bảo quản trong tủ
lạnh cho cua ăn nhiều lần.

3.3 Phương pháp bố trí thí nghiệm
3.3.1 Chuẩn bị hệ thống bể ương
Dụng cụ trước khi bố trí được khử trùng bằng chlorine, sau đó rửa lại sạch bằng nước
ngọt cho đến khi hết mùi chlorine. Cấp nước vào bể có độ mặn 30‰, sục khí mạnh
vài giờ sau đó bố trí ấu trùng.
21

Hệ thống thí nghiệm được tiến hành trong xô nhựa có thể tích 60 L chứa 50 L nước,
các thí nghiệm được bố trí trong nhà và có sục khí liên trục.
3.3.2 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo qui trình nước trong hở
Thí nghiệm 1: Ương ấu trùng cua biển từ giai đoạn (Zoea
1
– Zoea
5
) với các mật độ
khác nhau. Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần và bố trí
hoàn toàn ngẫu nhiên:
- Nghiệm thức 1: Mật độ ương là 300 con/L.
- Nghiệm thức 2: Mật độ ương là 400 con/L .
- Nghiệm thức 3: Mật độ ương là 500 con/L.
Thí nghiệm 2: Ương ấu trùng cua biển từ giai đoạn (Zoea
5
– Cua
1
) với các mật độ
khác nhau. Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần và bố trí
hoàn toàn ngẫu nhiên:
- Nghiệm thức 1: Mật độ ương là 30 con/L.
- Nghiệm thức 2: Mật độ ương là 40 con/L.

- Nghiệm thức 3: Mật độ ương là 50 con/L.
Phương pháp thu và bố trí ấu trùng
Phương pháp thu: Trước khi thu ấu trùng, tắt hết sục khí, sau 3 − 5 phút chờ cho ấu
trùng nổi lên mặt nước. Lúc đó toàn bộ số ấu trùng Zoea có chất lượng tốt sẽ hướng
quang và nổi lên trên mặt nước, tụ lại. Số ấu trùng kém chất lượng lắng tụ dưới đáy.
Dùng ống nhựa hút loại bỏ toàn bộ ấu trùng kém chất lượng, thu ấu trùng đạt chất
lượng ra thùng nhựa 10 lít, sau đó tiến hành định lượng và bố trí vào bể ương có thể
tích 50 lít. Theo đúng mật độ của từng nghiệm thức là 300 con/L; 400 con/L; 500
con/L. Trước khi bố trí ấu trùng được xử lý bằng formaline 200 ppm trong 30 giây để
loại bỏ mầm bệnh. Thời gian thu xong ấu trùng càng nhanh càng tốt khoảng 10 phút


Cách cho ăn
Thức ăn cho ấu trùng cua là Artemia bung dù từ Zoea
1
− Zoea
2
, ấu trùng của Artemia
sau khi nở khoảng 3-4 giờ và đem cho ấu trùng cua ăn từ Zoea
3
− Zoea
5
(Bảng 3.1) và
thức ăn tự chế từ Zoea
5
− Cua
1
(Bảng 3.2).





22

Bảng 3.1:Thức ăn cho ấu trùng Cua S. paramamosain ở thí nghiệm thứ nhất
Giai đoạn Thức ăn
Zoea
1
Zoea
2
Zoea
3
Zoea
4
Zoea
5

Lượng thức ăn
Artemia bung dù x x
5

10 cá thể/ml
Ấu trùng Artemia x x x
5

10 cá thể/ml
Bảng 3.2:Thức ăn cho ấu trùng Cua S. paramamosain ở thí nghiệm thứ hai
Giai đoạn Thức ăn
Zoea
5

Megalopa Cua
1

Lượng thức ăn
Ấu trùng Artemia x x
5

10 cá thể/ml
Thức ăn tự chế x x Theo nhu cầu
3.3.3 Các chỉ tiêu cần theo dõi ở hai thí nghiệm
3.3.3.1 Yếu tố môi trường
- Nhiệt độ, pH: Được ghi nhận ngày 2 lần (sáng 8 giờ và chiều 2 giờ).
- TAN, N-NO
2
: 4 ngày/lần, được đo bằng các bộ testkit.
3.3.3.2 Sinh trưởng và tỷ lệ sống
- Tỷ lệ biến thái: Xác định tỷ lệ biến thái của ấu trùng cua các giai đoạn Zoea
1
,

Zoea
2
,
Zoea
3
,

Zoea
4
, Zoea

5
(thí nghiệm 1) và giai đoạn Megalopa, Cua
1
(thí nghiệm 2) trong
bể ương ở các nghiệm thức hàng ngày. Số lượng mẫu quan sát là 30 cá thể/ngày.
- Tỷ lệ sống được thu vào cuối giai đoạn Zoea
5
(thí nghiệm 1) và giai đoạn Cua
1
(thí
nghiệm 2).
Tổng số ấu trùng Z
5
x 100
Tỷ lệ sống ấu trùng (%):
Tổng số ấu trùng Z
1

Tổng số C
1
x 100
Tỷ lệ sống cua con (%):
Tổng số Z
5


23

3.4 Chăm sóc và quản lí
- Si phon thức ăn thừa và chất thải của cua sau mỗi lần chuyển giai đoạn.

- Cho ăn ngày 4 lần ( 6h, 12h, 18h,0h ).
- Thay nước 30%, 3 ngày/lần.
3.5 Phương pháp xử lí số liệu
Số liệu thu thập được tính toán các giá trị trung bình, cao nhất, thấp nhất, độ lệch
chuẩn về tỷ lệ sống ở các nghiệm thức trong cùng thí nghiệm bằng phần mềm Excel
và SPSS 13.0.



















24

CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ THẢO LUẬN


4.1 Thí nghiệm 1
4.1.2 Các yếu tố môi trường

4.1.2.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của các loài
thủy sản nhất là giai đọan ấu trùng. Trong suốt quá trình thí nghiệm, nhiệt độ trung
bình giữa các bể cũng như các nghiệm thức không có sự biến động lớn, nhiệt độ thấp
nhất vào buổi sáng ở nghiệm thức thứ 2 (27,4 ± 0,32
0
C) và cao nhất ở nghiệm thức 1
(27,5 ± 0,29
0
C), vào buổi chiều nhiệt độ thấp nhất ở nghiệm thức 2 (30,1 ± 0,11
0
C)
và cao nhất ở nghiệm thức 1 (30,4 ± 0,28
0
C). Qua đó ta thấy nhiệt độ giữa các
nghiệm thức cũng như buổi sáng và chiều hầu như không có sự chênh lệch lớn, sở dĩ
nhiệt độ trung bình của 3 nghiệm thức gần như bằng nhau là do các nghiệm thức được
bố trí ngẫu nhiên dưới mái che bằng bạc nhựa trong suốt có phủ thêm một lớp lưới lan,
nên các nghiệm thức đều nhận được nguồn nhiệt như nhau. Mức nhiệt độ này nằm
trong giới hạn phát triển của ấu trùng cua và nguyên nhân dẫn đến sự biến động nhiệt
độ nằm trong giới hạn cho phép này là do thí nghiệm được bố trí vào tháng 2 dương
lịch lúc thời tiết ấm áp và thí nghiệm được che kín nên nhiệt độ biến động trong ngày
không lớn lắm. Theo Ong (1964) cho rằng nhiệt độ ương ấu trùng cua thích hợp nằm
trong khoảng 24,5 − 31,5
0
C. Theo Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương (2004)
cho rằng nhiệt độ trong khoảng 27 − 30

0
C thì ấu trùng cua phát triển tốt, còn nhiệt độ
vượt khỏi mức giới hạn cho phép thì dẫn đến ấu trùng cua bị rối loạn sinh lý và chết.
Như vậy, nhiệt độ ở các nghiệm thức trong thí nghiệm nằm trong khoảng thích hợp
cho sự phát triển của ấu trùng cua.









25

Bảng 4.1 Các yếu tố môi trường thủy lý hóa trong thí nghiệm
Chỉ tiêu Thời gian đo Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3
Sáng 27,5 ± 0,29 27,4 ± 0,32 27,5 ± 0,27 Nhiệt độ (
0
C)
Chiều 30,4 ± 0,28 30,1 ± 0,11 30,3 ± 0,08
Sáng 7,9 ± 0,04 8,0 ± 0,06 8,0 ± 0,04 pH
Chiều 7,9 ± 0,04 8,0 ± 0,03 7,9 ± 0,02
N-NH
4
+
(mg/l) 1,36 ± 0,10 1,87 ± 0,11 2,07 ± 0,15
NO
2

-
(mg/l) 0,24 ± 0,01 0,3 ± 0,05 0,38 ± 0,04
4.1.2.2 pH
Cũng như yếu tố nhiệt độ, pH là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự
phát triển của ấu trùng thủy sản thông qua tính độc của các khí hay sự mất cân bằng
ion trong nước. Độ pH cũng là một trong vài chỉ tiêu về chất lượng môi trường nước,
độ pH biểu thị tính acid khi pH < 7, khi pH = 7 trung tính, pH > 7 thể hiện tính bazơ.
Khi pH thấp thường làm tổn thương mang và phụ bộ của hầu hết các loài thủy sản,
làm cho tôm, cua mềm vỏ khó lột xác. Ảnh hưởng giáng tiếp khi pH cao, NH
3
dạng
khí sẽ nhiều và ít H
2
S dạng khí. Khi pH thấp H
2
S dạng khí sẽ nhiều và ít NH
3
dạng
khí, do đó pH thấp hay cao đều ảnh hưởng đến hầu hết các loài thủy sản.
Qua (Bảng 4) ta thấy pH hầu như không có sự chệch giữa buổi sáng và chiều cũng
như giữa các nghiệm thức. Cụ thể pH vào buổi sáng ở nghiệm thức 1 (7,9 ± 0,04), ở
nghiệm thức 2 (8,0 ± 0,06) và nghiệm thức 3 (8,0 ± 0,04). Trương Quốc Phú (2002)
cho biết pH thích hợp cho hầu hết các đối tượng nuôi thủy hải sản nằm trong khoảng
từ 6,5 − 9,0. Nhưng phát triển tốt nhất ở mức 7,5 − 8,6. Nguyễn Cơ Thạch và csv
(2004) thì cho rằng pH thích hợp cho ấu trùng cua từ 7,5 − 8,6. Đều đó cho thấy trong
suốt quá trình thí nghiệm hầu hết các nghiệm thức đều có pH nằm trong khoảng thích
hợp cho sự phát triển của ấu trùng.
4.1.2.3 Đạm N-NO
2
-


NO
2
-
là yếu tố tác động lớn đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển.
Qua kết quả phân tích NO
2
-
trung bình ở các nghiệm thức hầu như tăng dần, cụ thể ở
nghiệm thức 1 (0,24 ± 0,01 mg/L), nghiệm thức 2 (0,3 ± 0,05 mg/L) nghiệm thức 3
(0,38 ± 0,04 mg/L). Nguyên nhân dẫn đến hàm lượng NO
2
-
tăng dần ở các nghiệm
thức là do ương với mật độ tăng dần 300, 400, 500 con/l ở thí nghiệm 1. Đều đó dẫn
đến một phần lượng thức ăn dư thừa và chất thải phân hủy cũng nhiều hơn. Từ những

×