Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BIỂU TƯỢNG GIÓ TRONG TRUYỆN KIỀU NGUYỄN THỊ KHÁNH TRINH SP NGỮ văn k38

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.68 KB, 13 trang )

BIỂU TƯỢNG GIÓ TRONG TRUYỆN KIỀU
(Nguyễn Thị Khánh Trinh - Lớp SP Ngữ văn K38)
1. Dẫn nhập
Truyện Kiều của Nguyễn Du được xem là một trong những đỉnh cao nghệ
thuật văn học chữ Nơm nói riêng và kiệt tác của văn học Việt Nam nói chung.
Tác phẩm đã góp phần ghi dấu và kiến tạo vị trí đặc biệt của Nguyễn Du trong
đời sống văn học dân tộc. Theo thống kê của Trần Đình Sử, có khoảng 661 bài
viết về Truyện Kiều và được nghiên cứu trên rất nhiều phương diện: Khảo đính,
chú giải, tìm hiểu khám phá những giá trị nội dung và nghệ thuật, dịch và giới
thiệu ra nước ngồi... trong những nghiên cứu đó, việc đi tìm hiểu về các biểu
tượng trong Truyện Kiều được khơng ít người quan tâm và nghiên cứu.
Hiện nay, việc đi tìm hiểu các biểu tượng đang là xu hướng phổ biến trong
nghiên cứu văn học, nhất là trong văn học trung đại. Vì trong mỗi thời kì văn
học trung đại, các nhà văn dù sáng tác bằng chữ Hán hay chữ Nơm đều sử dụng
rất nhiều hình ảnh, biểu tượng để làm nổi bật nội dung, nghệ thuật của mình.
Truyện Kiều từ khi ra đời đã mang trong mình làn gió của thời đại, những vấn
đề xã hội chứa đựng trong tác phẩm được xây dựng thông qua cuộc đời lưu lạc
mười lăm năm gió bụi nhân vật “Tài hoa bạc mệnh” Thúy Kiều. Trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du, hình ảnh, biểu tượng xuất hiện rất nhiều, từ những biểu
tượng cụ thể sự vật – hiện tượng, con người cho đến những biểu tượng tự nhiên,
thiên nhiên, vơ hình, tâm linh... Bên cạnh các hệ thống biểu tượng khác thì, biểu
tượng gió nổi lên như một điểm sáng về nghệ thuật thu hút sự quan tâm, chú ý
của nhiều người.
Với mong muốn tìm hiểu giá trị về mặt biểu đạt và nghệ thuật của hình ảnh
nghệ thuật này, chúng tơi đi sâu tìm hiểu thế giới biểu tượng Gió trong ngơn ngữ
nghệ thuật Truyện Kiều.
2. Nghệ thuật sử dụng biểu tượng Gió trong Truyện Kiều
2.1. Sự xuất hiện biểu tượng gió trong Truyện Kiều
Hình ảnh “gió” từ xưa tới nay đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các
nhà văn, nhà thơ. Khơng cịn q xa lạ thậm chí, nhắc tới hình ảnh “gió” người


1


ta nghĩ ngay đến sự tự do, đến sự trong xanh, bay cao. Hay trong những tác
phẩm thần thoại, gió biểu tượng cho giao thông, sự chiến tranh hay với các nhà
văn, nhà thơ bây giờ là sự gợi mở không gian, thời gian, là sự xuất hiện của mẹ
thiên nhiên bình dị, mộc mạc. Nó đi vào văn chương hết sức nhẹ nhàng như
những gì tự nhiên vốn có, thế nhưng “gió” trong Truyện Kiều khơng trơi nhanh
qua kẽ tay vuột mất trong tự nhiên mà để lại những bâng khuâng, mang mác,
quẫn quanh trong tâm trí người đọc.
Biểu tượng “gió” được sử dụng và xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm, là
một biểu tượng chứa đựng nhiều ý nghĩa về mặt không gian, thời gian, số phận
con người…. Mặc dù xuất hiện khá nhiều trong Truyện Kiều (53 lần) nhưng
cho tới nay chưa có bất cứ một bài viết, nghiên cứu nào đi tìm hiểu về biểu
tượng gió và trong quá trình tìm hiểu – thống kê. Người nghiên cứu cho rằng,
ngoài xuất hiện là một biểu tượng tự nhiên thì “gió” là một nhân tố phản ánh,
tác động trực tiếp, biểu hiện rõ cho những sóng gió, biến cố của cuộc đời kiều
suốt mười lăm năm lưu lạc. Xuất phát từ một khía cạnh mà người viết muốn đề
cập ngồi lề để có thể “xem” là cơ sỡ xuất phát cho những sóng gió cuộc đời
Kiều. Và bên cạnh những biểu tượng khác, nhân vật hay những giá trị hiện thực,
nhân đạo xung quanh tác phẩm thì “gió” như nguyên cơ thổi trang đời Kiều
cùng tuyệt tác Truyện Kiều vào lòng người đọc.
Ở phần mở đầu thiên truyện, khi giới thiệu gia đình Kiều, Nguyễn Du nói
đến Vương Quan trước, tiếp đến là Thuý Vân rồi mới đến Thuý Kiều, không
theo thứ bậc chị trước em sau. Trúc Viên Lê Mạnh Liêu cho rằng ngày xưa trọng
nam khinh nữ nên giới thiệu Vương Quan trước, tả Thuý Vân trước Kiều là cố ý
dồn hết cái đẹp cho em để đến khi tả chị chỉ dùng hai chữ "phần hơn" là đủ.
Cách làm đó Lê Mạnh Liêu khen là cao diệu. Chính xác, nhưng đó là cái nhìn
mặt nổi về thi pháp, cịn một cách nhìn tiềm phục cũng đáng lưu ý là Nguyễn Du
đã giới thiệu ba chị em nhà họ Vương theo trình tự cấu trúc các quẻ trong kinh

Dịch một cách linh hoạt.
Quẻ đơn có ba vạch, vạch trên cùng tượng trưng cho hàng thiếu niên (em
út) chỉ Vương Quan, vạch giữa chỉ hàng trung niên (em thứ) Thuý Vân, vạch
dưới cùng chỉ hàng trưởng bối (cả) là Thúy Kiều. Trong Truyện Kiều, Viên

2


ngoại họ Vương cha đẻ Thuý Kiều tương ứng với quẻ Càn, mẹ Thuý Kiều tương
ứng với quẻ Khôn. Vương Quan, tương ứng với quẻ Cấn là con trai út. Cấn cịn
có tượng là hiền nhân qn tử phù hợp với cách mô tả của Nguyễn Du:
“Một trai con thứ rốt lòng
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia”
Thuý Vân tương ứng với quẻ Ly vì là con gái thứ. Ly là mặt trời có hình
tượng trịn đầy cao q phù hợp với vóc dáng Thuý Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”
Kim Trọng và Thúc Sinh cả hai đều là người tình của Thuý Kiều, họ còn ở
tuổi trung niên, tương ứng với quẻ Khảm có tượng là mặt trăng, cho nên giữa họ
và Th Kiều có mối liên kết qua hình tượng mặt trăng.
Thuý Kiều là chị cả tương ứng với quẻ Tốn có tượng là gió. Mệnh vận cả
đời Kiều gắn liền với gió, bao nhiêu gió trong Truyện Kiều hầu như thổi dồn
vào đời Kiều đẩy cô gái ngây thơ phong gấm vùi dập xuống chốn bùn nhơ. Ngay
từ đầu Truyện Kiều phong ba đã nổi:
“Một lời nói chữa kịp lời
Phút đâu ngọn gió cuốn cờ đến ngay”.
Than ơi! Cảnh “bể dâu” đến đoạn trường của cuộc đời Kiều đã bắt đầu
ngay từ giây phút hồn ma của kĩ nữ đạm tiên xuất hiện, nó phũ phàng hất hung
mọi cái “êm đềm trướng rũ màn che” của cuộc đời Kiều. Nó từng bước đưa
Kiều vào nơi gió bụi, gió táp đến trong buổi xuân xanh của đời nàng:

“Ào ào đổ lộc rung cây,
ở trong dường có hương bay ít nhiều
dè chừng ngọn cỏ lần theo
dấu giày từng bước in rêu rành rành”
Đặc tả cảnh hồn ma Đạm Tiên xuất hiện, Nguyễn Du đã miêu tả tuyệt
bút: có gió cuốn ào ào, có hương bay thoang thoảng, có dấu giày in rêu từng
bước rành rành…, đủ cả hình ảnh, âm thanh, hương sắc. Trong đó biểu tượng
“gió” đã làm nổi bật lên khung cảnh ghê rợn, đủ mùi âm u và như khởi đầu cho
hàng loạt sóng gió, và mặc dù bi kịch chỉ thực sự xuất hiện đầy đủ ở phần tai

3


biến – vẫn tiếp tục ám đuổi Thúy Kiều ở màn tái hợp ở cuối truyện và ngay cả
những phần tiếp theo gặp gỡ qua hình tượng màu sắc hai chiều của buổi du
xuân, để rồi ngay sau đó Kiều bán mình chuộc cha và tiếp nối chuỗi ngày phong
ba bão táp. Cảnh Kiều từ dã gia đình để dấn thân vào cuộc đời gió bụi :
“ Đùng đùng gió đục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay”
Cảnh thật đáng sợ gió “đùng đùng” mây vần vũ như báo hiệu một sự đổ
vỡ hãi hùng. Đời Kiều hiếm khi được cảnh “gió mát trăng thanh”, “gió quang
mây tạnh” mà chỉ tồn cảnh “gió giật mây vần”, “gió táp mưa sa”, “gió thảm
mưa sầu”. Biểu tượng gió lúc này như hiện thân cho số phận lênh đênh vô
phương của Thúy Kiều và nàng đã dự cảm mình sẽ hố thân thành gió:
“Trơng ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”.
Như đã nói, Kiều thuộc quẻ Tốn có tượng là gió. Mệnh vận cả đời Kiều
gắn liền với gió, nên cũng khơng q bất ngờ khi tới lúc này nàng ý thức và linh
cảm được số phận của mình sẽ hóa thân thành những cơn gió, đáng buồn thay
người vẫn con thì phong ba tiếp tục theo đuổi mà quấn chắt, bùa vây lấy nàng.

Kim Trọng tương tư Kiều đã đồng hố nàng với gió:
“Bẻ bài rầu rĩ tiếng tơ,
Trầm bay lạt khói, gió đưa lay rèm,
Dường như bên nóc bên thềm,
Tiếng Kiều đồng vọng, bóng xiêm mơ màng”.
Ở thanh lâu, Sở Khanh lừa Kiều diễn cảnh “quyến gió rũ mây” đẩy nàng
đến mức “dập dìu lá gió cành chim” khiến Kiều đau đớn ê chề “mặt sao dày
gió dạn sương” chẳng cịn thiết tha với cuộc sống “thờ ơ gió trúc mưa mai”,
cho đến khi gặp lại Kim Trọng, mặc dầu khát khao hạnh phúc lứa đôi, nàng cũng
không dám nhận lại quá khứ:
“Sinh rằng: “Rày gió mai mưa,
Ngày xn đã dễ tình cờ mấy khi”. (337)
“Địi phen, gió tựa hoa hoa kề, (1241)
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu”.

4


“Dù khi sóng gió bất tình,
Lớn ra uy lớn, tơi đành phận tơi”.(1511)
“Xót thay! Đào lý một cành,
Một phen mưa gió, tan tành một phen”.
“Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi”. (2165)
“Một lời tuy có ước xưa,
Xét mình dãi gió dầm mưa đã nhiều”. (3079)
Từ biểu tượng “gió”, số phận của Kiều được người đọc hình dung ra và
khơng khỏi xót xa “Trời kia quen thói má hồng đánh ghen”
2.2. Sự thể hiện của biểu tượng Gió trong Truyện Kiều
2.2.1. Gió là hiện tượng của thiên nhiên

Nhận xét về thiên nhiên trong Truyện Kiều, Đặng Thanh Lê từng nói:
"Có thể nói thiên nhiên trong "Truyện Kiều" cũng là một nhân vật, một nhân vật
thường lặng lẽ, kín đáo nhưng khơng mấy khi khơng xuất hiện và ln ln
thấm đượm tình người”.
Cùng giống như các biểu tượng tự nhiên khác, biểu tượng gió xuất hiện
trong Truyện Kiều trước tiên vẫn là những hình ảnh tự nhiên, vốn có thuộc về
thiên nhiên. Mang trong mình hơi gió mộc mạc, bình dị mà được Nguyễn Du
thơi hồn mình vào trong từng câu thơ.
“Một vùng cỏ áy, bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một và bơng lau”.(98)
“Gió đâu sịch bức mành mành,
Tỉnh ra, mới biết rằng mình chiêm bao” (213)
Biểu tượng thiên nhiên “gió” đi vào Truyện Kiều, đi vào tâm hồn đại thi
hào Nguyễn Du lại có những nét rất riêng. Nguyễn Du chỉ tạo cơ hội cho thiên
nhiên xuất hiện khi cần tạo nền cảnh cho một cuộc gặp gỡ, hẹn hò hoặc khi bộc
lộ giúp những cảm nhận tâm trạng của các nhân vật về thời gian, khơng gian,
cảnh ngộ.
“Nỗi lịng kín chẳng ai hay,
Ngồi tai để mặc gió hay mé ngồi”. (1554)

5


“Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời. (1637)
“Gió cao, ngọn lửa càng cao,
Tơi địi tìm đủ nàng nào thấy đâu”. (1657)
Nguyễn Du đã sử dụng biểu tượng gió để xây dựng nên khung cảnh xung
quanh từ cách gợi mở không gian, thời gian đến cả suy tưởng trong lịng người
đọc, để họ có thể mở cánh cửa, tưởng tượng chiều sâu tác phẩm.

2.2.2. Gió gắn với thế giới tâm linh của con người
Yếu tố tâm linh như thủ pháp nghệ thuật tạo nên sức hấp dẫn, mới lạ cho
tác phẩm. Khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã lồng ghép các yếu tố tâm linh
vào tác phẩm một cách có ý thức, tạo nên một kiểu đan xen giữa thực và ảo.
Sự có mặt của các yếu tố tâm linh: Trời, Phật, hồn ma, âm phủ, giấc
mộng, thề nguyền… không phải là để thể hiện quan điểm bi quan yếm thế như
một só ý kiến trước đây mà là một hình thức để tơn tạo và soi sáng hiện thực.
Đồng thời thừa nhận rằng: thật sự có sự tồn tại của yếu tố tâm linh trong văn
chương. Không gian tâm linh, không gian của các tác phẩm mang yếu tố tâm
linh là không gian của cuộc sống ngày thường: ngôi miếu, ngôi nhà, bãi tha ma,
trời đất… Đây là không gian của cõi trần nhưng mang khơng khí huyễn hoặc hư
ảo để ma quỉ, thần thánh xuất hiện, để người sống và người chết gặp nhau trị
chuyện, và đặc biết là nó xuất hiện nhiều nhất thơng qua biểu tượng “gió”.
Trong phần mở đầu Truyện Kiều, khơng khí tâm linh đã bàng bạc khắp
nơi, khắp chốn. Đó là một bãi tha ma mà người dân nơ nức đi tảo mộ, chăm sóc
mồ mả tổ tiên, ơng bà. Đó cịn là khơng khí của ngày hội đạp thanh cho mọi
người gặp gỡ, kết bạn giao lưu… Đặc biệt là, trong cảnh
“Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”
“Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay,
Ào ào đổ lộc rung cây”(120)
rồi thấy rõ :
“Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giầy từng bước in rêu rành rành”. (123)

6


Chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, rất mong manh và thơng qua hình
tượng “gió”, bậc thầy ngơn ngữ Nguyễn Du dẫn dắt người đọc đi sâu vào cõi âm
với “trăm lồi ma”, “quỉ khơng đầu” trong cảnh “trường dạ tối tăm” để cảm ứng

cùng người chết mà biết được cuộc sống của những oan hồn: hồn mồ côi, hồn
đơn phách chiếc, cơ hồn nheo nhóc tìm đường hóa sinh trong cõi âm mờ mịt.
“Mai sau, dầu có bao giờ,
Đốt lị hương ấy, so tơ phím này.
“Dun Đằng thuận nẻo gió đưa, (1531)
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày”. (1531)
Trong Truyện Kiều, chúng ta khơng khó nhận ra đâu đó trong những câu
thơ chứa đựng yếu tố tâm linh, hình ảnh biểu tượng gió xuất hiện mang theo
những dự cảm và cảm giác hết sức mơ hồ, lo sợ, điều này đã làm tăng mạch cảm
xúc cũng như gợi mở, dự báo về những điều nhân vật phải đối diện,
2.2.3. Gió gắn với tình u nam nữ
Bên cạnh đó, biểu tượng “gió” cịn thể hiện tình u nam nữ, những nỗi
nhớ thương hay những khó khăn, trắc trở trong tình u đơi lứa:
“Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xn, càng giò, càng mưa, càng nồng”. (1284)
Thề nguyền cũng dùng hình tượng “gió” như:
“Dù khi gió kép mưa đơn
Có ta đây, cũng chẳng cơn cớ gì!”
Gió kép, mưa đơn có nghĩa những tai họa, bất trắc bất thình lình có thể xảy ra
với người phụ nữ chân yếu, tay mềm
2.2.4. Gió gợi niềm thương nỗi nhớ
Tình u của Kiều rất đỗi trong sáng và nó được gửi gắm qua những “làn
gió” đầy ý vị:

“Gió chiều như gợi cơn sầu,
Vi lơ hiu hắt như màu khẩy trêu”. (263)
“Lần lần, ngày gió đêm trăng,
Thưa hồng rậm lục, đã chừng xuân qua”. (369)

7



Ngày gió đêm trăng là chỉ cho thời gian cứ thầm lặng đắp đổi thay nhau
hết đêm tới ngày, hết ngày tới đêm thể hiện nỗi nhớ nhung không nguôi của
Thúy Kiều.
“Thờ ơ gió trúc mưa mai, (1249)
Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân”. (1249)
Từ "dùi mài" kết hợp với cảnh “gió trúc mưa mai” ở đây theo nghĩa rộng
của sự kiên nhẫn, bền bỉ chịu đựng của con người trước các biến cố, sóng gió.
Vào lầu xanh là chấp nhận cảnh ê chề, là bằng lòng với sự đầy đọa của kiếp gái
bán hoa. Thiết nghĩ nàng Kiều đã “dùi mài” với sóng gió bản lĩnh sống của mình
để làm được điều đạo hiếu ấy cho nên mới có câu thơ này trong cảnh nàng tái
ngộ với Kim Trọng ở cuối truyện:
“Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay” (2569)
“Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngối cịn cười gió đơng”. (2748)
“Bẻ bai, rủ rỉ tiếng tơ,
Trầm bay lạt khói, gió đưa lay rèm”. (2852)
2.2.5. Gió thể hiện sự ngăn cản tình u
Thề nguyền cũng dùng hình tượng “gió” như:
“Dù khi gió kép mưa đơn
Có ta đây, cũng chẳng cơn cớ gì!’
Gió kép, mưa đơn có nghĩa những tai họa, bất trắc bất thình lình có thể
xảy ra với người phụ nữ chân yếu, tay mềm
“Nàng rằng: “Gió bắt, mưa cầm,
Đã cam tệ với tri âm bấy chầy”. (385)
“Vì ai ngăn đón gió đơng,
Thiệt lịng khi ở, đau lịng khi đi”. (793)
Có thể nói, biểu tượng gió lúc này khơng đơn thuần là hình ảnh của những

hiện tượng tự nhiên, những cơn gió vơ tình thổi những trang thơ Truyện Kiều đi
vào lịng người mà cịn xốy sâu bi kịch cuộc đời nhân vật. Biểu tượng nhẹ
nhàng nhưng có sức ảnh hưởng vô cùng lớn làm nổi bật giá trị tác phẩm.

8


2.3. Sự linh hoạt ý nghĩa ẩn dụ trong biểu tượng gió
Truyện Kiều của Nguyễn Du khơng cốt tả cảnh thiên nhiên nhưng ơng lại
mượn thiên nhiên nói hộ tâm trạng nhân vật. Và thiên nhiên trở thành một nhân
vật đặc biệt, lúc ẩn lúc hiện nhưng ln có mặt đúng lúc. Nhân vật thiên nhiên
thường kín đáo, lặng lẽ bởi có mấy ai để ý đến, và nhiên và cảnh thiên nhiên
cũng đến rất nhẹ. Mỗi nhân vật đều gửi gắm tâm trạng mình vào thiên nhiên ấy
hay Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình trong
Truyện Kiều. Bút pháp nghệ thuật ấy đã góp phần khơng nhỏ trong việc khắc
họa tính cách nhân vật của Nguyễn Du.
Gió ngồi là hình ảnh của thiên nhiên, thì nó đi vào Truyện Kiều với
những ngụ ý, chứa đựng nhiều ý nghĩa như:
Gió là hiện tượng của thiên nhiên
“Tiếng khoan như gió thoảng ngồi,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”. (483)
Gió gắn với thế giới tâm linh của con người
“Mai sau, dầu có bao giờ,
Đốt lị hương ấy, so tơ phím này.
Gió gợi niềm thương nỗi nhớ
“Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay” (2569)
Ngăn cản tình u
“Vì ai ngăn đón gió đơng,
Thiệt lịng khi ở, đau lịng khi đi”. (793)

Tình u trai gái khơng đúng đắn
“Nàng rằng: Mưa gió dập dìu,
Liều thân, thì cũng phải liều thế thơi”. (1203)
Gió gắn với cái ác, cái xấu do con người gây ra
“Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút, thảo và bốn câu”. (403)
Nó đi vào văn chương hết sức nhẹ nhàng như những gì tự nhiên vốn có,
thế nhưng “gió” trong Truyện Kiều khơng trơi nhanh qua kẽ tay vuột mất trong

9


tự nhiên mà để lại những bâng khuâng, mang mác, quẫn quanh trong tâm trí
người đọc.
Sự linh hoạt trong nghệ thuật biểu đạt về hình thức của biểu tượng gió
trong Truyện Kiều đã thể tài năng và trình độ bậc thầy về ngơn ngữ của Nguyễn
Du. Ơng đã kiến tạo nên những giá trị thẩm mỹ và văn hoá một cách có hệ thống
và hợp lý của hai biểu tượng này. Biểu tượng gió đi vào thơ ca khơng cịn đơn
thuần là hình ảnh của thiên nhiên vũ trụ bình thường nữa, cùng vì thế mà những
chỉ từ khơng đơn điệu với cách gọi gió mà xuất hiện với những chỉ từ khác nhau,
tạo nên dấu ấn đặc biệt trong lòng người đọc về sự xuất hiện của biểu tượng gió
trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã hết sức tỉ mĩ và tinh tế, sử dụng điêu luyện
ngơn ngữ để có thể chọn lọc ra từ ngữ chỉ riêng cho hai biểu tượng trăng và gió
góp phần đào sâu, nâng cao ý nghĩa của những vần thơ.
3. Kết luận
Thế giới biểu tượng đã đóng vai trị quan trọng trong đời sống tinh thần
con người nói chung và trong văn học nói riêng. Trong văn chương, các biểu
tượng đã góp phần làm nên những cách thể hiện độc đáo và đặc sắc, tạo được
dấu ấn riêng biệt của mỗi tác giả. Gió trong Truyện Kiều khơng chỉ là những
hình ảnh của thiên nhiên hay không đơn giản chỉ là một thi liệu mà còn là những

biểu tượng mang một giá trị biểu đạt rất lớn nhiều tầng ý nghĩa
Biểu tượng gió đã góp phần khơng nhỏ vào việc thể hiện nội dung tư
tưởng, hình thức nghệ thuật của tác phẩm, nâng cao giá trị nghệ thuật của
Truyện Kiều. Trên phương diện nội dung, biểu tượng gió góp phần thể hiện tình
u, thiên nhiên, cái đẹp, những ngại vật trong cuộc đời, phản ánh thế giới tâm
linh… Trên phương diện hình thức, biểu tượng gió được dụng cơng xây dựng
qua nhiều thủ pháp như ẩn dụ, hốn dụ, nhân hóa, so sánh, dụng điển… Có thể
nói, bằng sự tài hoa của một nhà thơ giàu tâm hồn, Nguyễn Du đã xây dựng
thành công nhiều biểu tượng mang nhiều lớp ý nghĩa trong kiệt tác của mình mà
trong đó, trăng và gió là hai biểu tượng nổi bật.
Việc nghiên cứu biểu tượng gió trong Truyện Kiều đã có ý nghĩa rất quan
trọng về mặt phương pháp luận, giúp người nghiên cứu có cái nhìn tổng quan về
việc sử dụng các biểu tượng trong thơ văn. Đồng thời gợi mở hướng nghiên cứu

10


hệ thống các biểu tượng sáng tác của Nguyễn Du. Nếu điều kiện cho phép đề tài
sẽ mở rộng đến việc nghiên cứu hệ thống biểu tượng trong sáng tác của Nguyễn
Du.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1074) Từ điển Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, H.
2. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (1999), Từ điển văn học Việt Nam-từ
nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX , Nxb Giáo dục, H.
3. Phan Vĩnh Cư (chủ biên) (2015), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb.
Đà Nẵng.

4. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (Tuyển chọn và giới thiệu)
(2001), Nguyễn Du- về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, H.
5. Nguyễn Thanh Giang, Lữ Huy Nguyên (1998), Từ ngữ điển cố văn học, Nxb
Văn học, H.
6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên) (1997), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, H.
7. Võ Minh Hải (2015). “Sự thể hiện quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Du trong
thơ chữ Hán và Truyện Kiều”, in trong Danh nhân văn hoá – Đại thi hào
Nguyễn Du, Nxb ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Lộc (2001) Văn học Việt Nam Nửa cuối thể kỷ XVIII - hết thế kỷ
XIX, Nxb Giáo dục, H.
9. Phan Ngọc (2003), Phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Tái bản, Nxb
Thanh Niên, H.
10.Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Giáo dục, H.
11.Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, H.
12.Sưu tầm Internet, Nghệ thuật tả trăng, hoa, gió trong Truyện Kiều, web:
123.doc.org.vn, (7/2014).
13.Trần Nho Thìn (2002), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hố,
Nxb Giáo dục, H.
14.Trần Xuân Tiếu (2003), Bình giảng 10 đoạn trích trong Truyện Kiều, Nxb Giáo
dục, H.


BÁO CÁO
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
( Tham gia Hội nghị nghiên cứu khoa học sinh viên khoa Ngữ Văn 2017)
BIỂU TƯỢNG GIÓ TRONG TRUYỆN KIỀU
Tên đề tài:


Biểu tượng gió trong Truyện Kiều

- Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Khánh Trinh
- Lớp:

Sư phạm Ngữ Văn K38

- Khoa:

Ngữ Văn

- Sđt:

0979.322.831

- Gmail:





×