Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

CON NGƯỜI HIỆN đại TRONG TP LÀNG QUÊ ĐANG BIẾN mất của tác GIẢ tạ DUY ANH KHÁNH lê SP NGỮ văn k37

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.2 KB, 16 trang )

CON NGƯỜI HIỆN ĐẠI TRONG TÁC PHẨM LÀNG QUÊ ĐANG BIẾN MẤT
CỦA TÁC GIẢ TẠ DUY ANH
(Huỳnh Thị Khánh Lê – Lớp Sư phạm Ngữ văn K37)

Tạ Duy Anh là một trong những cây bút nổi tiếng của nền văn học hiện đại Việt
Nam. Là nhà văn viết sung sức, trung thực và khơng ngừng tìm kiếm, sáng tạo cái mới,
Tạ Duy Anh luôn để cho mỗi tác phẩm của ông một cuộc đời với cách cấu trúc và ngôn
ngữ riêng. Bởi thế nên những tác phẩm của ông luôn gây tiếng vang lớn và để lại nhiều
suy ngẫm cho độc giả.
Làng quêđang biến mất? - tập bình luận xã hội của Tạ Duy Anh là tâm huyết của
một nhà văn trước những vấn đề gây nhức nhối cho xã hội, đang tồn tại trong rất nhiều
lĩnh vực của đời sống, được phát tiết qua góc nhìn văn hóa. Trong từng câu chuyện, ta dễ
dàng nhận ra những trăn trở của ông đối với những đổi thay của con người, của văn hóa
làng xã - những điều mà trước nay đã trở thành chuẩn mực, truyền thống truyền qua bao
đời. Ở đó ta thấy được cả sự luyến tiếc xót xa trước mơi trường văn hóa đang ơ nhiễm,
đang bị hủy hoại trầm trọng, nơi mà những thói hư tật xấu lên ngôi thống trị. Là sự dửng
dưng vô cảm trước nỗi đau của đồng loại, là sự giả dối được đặt nặng hơn sự trung thực,
là sự tham lam, ích kỷ chỉ biết vun vén cho cá nhân mình.
Với Làng quê đang biến mất?Tạ Duy Anh không chỉ vẻ nên một bức tranh cuộc
sống mà cịn là những hình ảnh chân thật ở một khía cạnh khác về lối sống của người
Việt hiện đại. Hay nói cách khác Làng quê đang biến mất?là cuộc thám hiểm những cố
tật của văn hóa Việt mà mỗi người đều tìm thấy chân dung của mình trong đó.
1. Con người “vụng về” trong văn hóa giao tiếp
Nhiều bạn đọc sẽ thắc mắc, sao lại “vụng về” trong giao tiếp khi mà từ bao đời nay
người Việt được truyền lại từ cha ông biết bao truyền thống, ứng xử cao đẹp trong giao
tiếp. Bởi lẽ giao tiếp ở đây khi chỉ là hoạt động trao đổi thông tin giữa con người với
nhau nhằm tạo dựng mối quan hệ. Mà giao tiếp còn được hiểu là những ứng xử trong
cách ăn nói, đi đứng hằng ngày. Chẳng thế nên người xưa có câu “Học ăn, học gói, học
1



mở”. Thiết nghĩ, người Việt cần gì phải học ăn nữa, đó là một việc đơn giản, những, đối
với những gì đang diễn ra hằng ngày thì thật sự người Việt phải học lại cách “ăn”.

2


Bàn về vấn đề này, Tạ Duy Anh bày tỏ rất rõ quan điểm của mình. Ơng cũng thừa
nhận rằng chuyện ăn uống là một chuyện nhỏ, vô cùng nhỏ. Bởi lẽ “văn hóa Việt từ xa
xưa đến nay vẫn thường tránh coi chuyện ăn uống là chuyện lớn. Cho dù là tiệc tùng linh
đình thì cũng “Mời xơi chén rược nhạt”. Rồi nào là: “Trọng tình khơng ai trọng thực”,
“Lời chào cao hơn mâm cổ”… Tất cả chỉ nhầm làm bật tinh thần của bửa ăn mới quan
trọng” (Chuyện nhỏ hơn con thỏ)[1,tr.10]. Đó chính là truyền thống, bản sắc, đặc tính
dân tộc của người Việt từ bao đời nay và tất yếu ta không thể phủ nhận. Tuy nhiên nhà
văn muốn nói đến chuyện ăn uống ở một loại hình du nhập từ nước ngồi đó là kiểu ăn
Buffet. Kiểu cỗ bàn này là thực khách tự lựa chọn thức ăn, không hạn định số lượng và
thường ăn đứng. Người Việt mình vốn nhạy cảm với những khẩu vị ăn mới nên kiểu
Buffet này du nhập rất nhanh vào khu vực thị thành. Cũng chính vì điều này cũng đã
“sinh ra vơ số điều trái khốy, chun tức cười, chuyện “q một cục”, thậm chí là
chuyện đau lịng liên quan đến quốc sỉ”. “Phàm cái gì trên đời cũng phải học thì mới
biết”[1,tr.11]. Nhưng việc học ăn lại rất ít được chú ý nhất. Và thế là “khi cái thứ tiệc
đứng tên là Buffet du nhập vào Việt Nam, rất ít người biết rằng nó khơng chỉ là một kiểu
ăn, mà cịn là nét văn hóa ngoại lai”[1,tr.11]. Sự xa lạ về cách thức ăn, món ăn,… đã làm
cho người Việt bối rối , vơ tình lịi ra nhiều thói xấu: “Đáng lẽ phải từ tốn, nhẹ nhàng,
xem qua xem mình có thể ăn được gì, ăn thế nào, món gì ăn trước là phù hợp với mình…
và nếu chưa chắc chắn về khẩu vị thì phải lấy chút ít ăn thử, hợp khẩu vị mới lấy
thêm”[1,tr.12]. Nhưng những nguyên tắc sơ đẳng ấy chưa được học nên người Việt cứ
“thói nào tật ấy”, như ở giữa chợ: “nói to, gọi nhau í ới, đi lại huỳnh huỵnh, mở nắp nồi
xủng xoảng, cười nói hơ hố, chen lên trước người khác dù món đó ê hề…”[1,tr.12]. Kiểu
ăn Buffet này đã vơ tình mang tồn bộ “những nét xấu nhất của văn hóa ẩm thực Việt đặt
chềnh ễnh trong một căn phịng có thể nhìn thấy cả sợi tóc rơi” (Chuyện nhỏ như con

thỏ)[1,tr.13]. Nhà văn một lần nữa thấy lo ngại cho hình ảnh Việt Nam so với bạn bè năm
châu khi mà ở những nhà hàng có Buffet ở Thái Lan, Malaysia,… ln có dịng chữ “Lấy
đủ dùng” hoặc “Ăn không hết, sẽ bị phạt!” được ghi bằng tiếng Việt. “Từ chuyện nhỏ như
3


con thỏ, nhỏ hơn cả con thỏ là việc đưa miếng ăn vào miệng cịn chưa biết cách, thì vội
bàn làm gì đến những chuyện thay trời đổi đất chỉ để mua cười”[1,tr.14].
Văn hóa ẩm thực của Người Việt khơng chỉ như thế mà tác giả còn mở rộng hơn
sang vấn đề an tồn thực phẩm. Qua cuộc trị chuyện với anh bạn mà nhà văn Tạ Duy
Anh đã phát hiện ra một sự thật kinh hồng về món gà ác ơng vẫn hay ăn. “ Vì miếng ăn
người ta có thể băng đèo, lội suối, bất chấp tính mạng có thể bị mất bất cứ lúc nào”. Đó
là những điều có thể chấp nhận được, nhưng “gieo rắc sự nhục nhã thì khơng thể tha thứ.
Nhục nhã nhất là chúng ta cho nhau ăn cả thứ thiên hạ thải ra, còn đâu là quốc sĩ!”
[1,tr.269]. Thê thảm hơn, phải chăng người Việt thuộc giống người dễ dãi trong ăn uống,
cực kỳ dễ dãi? “Mặc cho mọi cảnh báo về virus cúm gà, sán lợn, với đủ hình ảnh rùng
rợn minh họa ngày ngày chiếu trên ti vi, người ta vẫn cứ nhồm nhoàm tống vào bụng
những bát tiết canh sống sít, nhiễm bẫn và đầy độc tố. Dù biết rõ chân gà từng bị thối,
tẩm cả thuốc ướp xác, được cảnh báo rộng rãi cũng không khiến những trai thanh gái
lịch ngồi lê la trên vỉa hè thưởng thức chúng một cách ngon lành. Cứ như họ tranh thủ
ăn lấy ăn để cho kịp ngày tận thế!” (Rượu độc, thực phẩm bẩn và giống nòi Việt)
[1,tr.274]. Tự hỏi, chúng ta có đói khát, có thiếu thốn hay thèm nhạt nữa đâu mà cái gì
cũng tống vào miệng, “chẳng lẻ mọi người quên rằng chết vì miếng ăn là cái chết vô
nghĩa nhất”[1,tr.274]. Chỉ đơn giản là chuyện mua bán, trao đổi nhưng lại trao đổi thứ
“gà rác” – thứ mà thế giới họ vứt đi để đem về làm thức ăn cho chính dân tộc mình, ảnh
hưởng đến giống nịi dân tộc thì thiết nghĩ người Việt cần xem lại vẫn đề ăn uống của
mình một cách nghiêm túc. “Chỉ vì thói phàm ăn mà mọi tun truyền về an toàn thực
phẩm hiện nay đang giống như nước đổ đầu vịt”. “Điều thấy trước là rượu và thực phẩm
bẩn đang tham gia tích cực vào q trình làm suy thối giống nịi Việt.Đừng ai nghi ngờ
điều này!”( Rượu độc, thực phẩm bẩn và giống nòi Việt)[1,tr.275].


4


Vấn đề giao tiếp không chỉ thể hiện qua văn hóa ẩm thực của người Việt mà nó cịn
biểu hiện ở văn hóa đọc.Người Việt khơng hề lười đọc, bằng chứng là số chữ họ lướt quá
mỗi ngày.Nhưng tại sao vẫn có sự kêu ca rằng họ lười đọc? Để trả lời cho câu hỏi này, Tạ
Duy Anh đã dẫn ra rất nhiều thông tin mà hằng ngày chúng ta vẫn đọc trên các trang báo
mạng. Nhà văn tìm thấy ở đó là những tệ nạn, những thơng tin giật gân, khơng tình ái thì
cũng bạo lực, khơng giết vợ thì cũng bóp cổ con; hay sự “ăn chơi cháy trời của các sao,
sự õng ẻo của các “ranh hài” “ranh thủ” “ranh ca” nào đó” [1,tr.17]. Đó là những gì
mà hằng ngày người Việt đang nhồi nhét vào đời sống tinh thần của họ. Không thấy đâu
những vấn đề như Biển Đông, chống tham nhũng, chỉnh đốn Đảng,… thậm chí vấn đề
học thuật, lich sử, mỹ học càng hiếm hoi. Lý giải cho hành động đọc kì lạ này của người
Việt, Tạ Duy Anh đặt ra câu hỏi: “Hay là người Việt đã qua no đủ với những thứ cao cấp
ấy?” hoặc “xét như tình trạng hiện nay, cũng cho câu trả lời tương tự, rằng có thể người
Việt đã no kiến thức, no thẩm mỹ, no triết học, no giáo dục: dân gần một trăm triệu, mà
sách cao cấp nói về các lĩnh vực ấy, in ra chỉ ngàn bản vẫn ế trầy ế trật?”(Càng ăn càng
đói)[1,tr.18].Nhưng đọc nhiều thế mà văn hóa ứng xử của người Việt lại ngày có sự
xuống cấp trầm trọng, “vậy là đọc đấy mà vẫn không phải là đọc; bội thực thông tin mà
vẫn đói văn hóa, đói học vấn, đói kỹ năng sống; thừa mứa chữ mà vẫn viết chẳng thành
câu…” Ngạn ngữ có câu: “Hãy xem anh đọc gì, tơi sẽ biết anh là ai? Suy rộng ra thì
cũng có thể nói: “Hãy xem mọi người đọc gì, sẽ biết dân trí ở đó như thế nào?”[1,tr.19].
Nhà văn chỉ dừng lại ở đó, phần cịn lại ơng xin để cho người đọc tự đánh giá. Nhưng ông
cũng rút ra vào cái tên cho văn hóa ứng xử của người Việt như sau: “Hội chứng càng ăn
càng đói, càng nhiều càng thiếu, càng giàu càng nghèo, càng văn minh càng man rợ…”
[1,tr.19].

5



Tiếp theo của văn hóa đọc là văn hóa ứng xử trong giao tiếp với người khác. Người
Việt vốn nổi tiếng với đức tính mến khách, chu đáo nhưng giờ đây nhìn cách họ đối xử
với những vị khách nước ngoài thật sự làm ta phải suy nghĩ rất nhiều. “[…] nhiều du
khách nước ngoài đã rất sợ gặp người Việt Nam vì họ biết thể nào cũng bị quấy rầy.
Khơng cười cợt vơ dun hay nhìn họ như nhìn khủng long tái sinh, thì cũng bng ra vài
câu tiếng Anh bồi, nhiều khi tục tĩu vô ý do không hiểu, rất mếch lòng khách. Rồi ở nhà
hàng nào cũng oang oang vừa ăn uống vừa làm điếc tai người chung quanh, phun cả
nước bọt vào khách…”(Chặt, chém vào tương lai)[1,tr.23]. Đó là lối hành xử văn minh
của người Việt sao? Cứ như thế này hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế sẽ chỉ là một
đất nước “vô kỉ luật”.
Xưa nay người Việt vẫn có câu tục ngữ “Đói cho sạch, rách cho thơm” để làm
phương châm sống cho mình. Nhưng đặt trong xã hội ngày nay, ta thấy một số bộ phận
đã quên mất phải ứng xử đẹp như thế. Điển hình cho điều này, Tạ Duy Anh đã bày tỏ thái
độ đau lòng trước hành động “hơi bia” ở vịng xoay Tam Hiệp, Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai.
Thật xấu hổ cho hành động của một đất nước văn minh. Đó khơng cịn là văn hóa ứng xử
của người Việt mà đang là mầm móng cho sự hình thành căn bệnh vơ cảm, dẫm đạp lên
sự đau khổ của người khác mà sống. “Con người sở dĩ biết hành động phải lẽ, biết dừng
lại khi đến ranh giới của sự tệ hại, phần nhiều không phải do họ sợ bị trừng phạt, mà vì
nó được ngăn bởi bức tường đạo đức. Ngoài ra, và bền vững hơn, chính là cảm giác của
họ về sự xấu hổ.”(Xấu hổ q)[1,tr.43]. Con người cịn biết xấu hổ thì ta cịn hy vọng
vào nhân tính của họ. Nhưng với những người có hành động “hơi bia” vừa rồi phải chăng
đã mất đi nhân tính? Qua việc này, chúng ta cần có một sự nhìn nhận đúng đắn hơn thái
độ sống của người Việt. Quan trọng hơn đối với bộ phận kia hãy để xã hội lên án, nguyền
rủa, bài xích và phán xét về mặt đạo đức, văn hóa. Có thể là cái nhìn bi quan, nhưng cứ
tiếp tục thì một ngày người Việt sẽ tự đánh mất bản chất lương thiện của mình.

6



Như vậy qua cái nhìn của nhà văn Tạ Duy Anh ta rút ra được rất nhiều thứ cho văn
hóa ứng xử trong giao tiếp của người Việt hiện nay. Nếu cứ trên đà như thế này thì người
Việt chúng ta sẽ ngày càng hao mịn trí lực, suy đồi đạo đức.Không thể coi nhẹ những
vấn đề mà Tạ Duy Anh gọi là “chuyện nhỏ như con thỏ” này được.Và người Việt phải lục
tìm để học lại những truyền thống, bản sắc mà ơng bà xưa để nhanh chóng xóa bỏ đi lối
ứng xử mất nhân tính như hiện nay.
2. Con người vơ cảm, thối hóa đạo đức và mất đi nhân tính

7


Một nhà văn Nga từng nói: “Nơi lạnh nhất khơng phải là Bắc Cực, mà là nơi khơng
có tình thương”. Thật vậy, sống giữa một nơi khơng có u thương, con người dửng dưng
với nhau thì khác nào sống giữa địa ngục. Vậy mà, người Việt chúng ta đang dần phát
thảo nên cái địa ngục đó với thái độ vơ cảm đến đáng sợ.
Chẳng cần đâu xa, Tạ Duy Anh chỉ đề cập đến những sự việc hằng ngày đang diễn
ra đã đủ để chúng ta thấy con người trong xã hội này “đối xử” với nhau như thế nào. Đó
là câu chuyện liên quan đến “Mạng chó, mạng người” – khi mà mạng sống của một con
người được đem ra so sánh với mạng của một con chó – để rồi đặt ra câu hỏi mạng nào
quý hơn? “Chỉ cần nghĩ như thế đã có thể coi là một kẻ độc ác, vơ đạo đức. Khơng vật gì
trên trần gian có thể so ngang với một con người, về mọi phương diện” [1,tr.25]. Tất
nhiên nhà văn vẫn đứng trên cả hai lập trường của người có chó bị trộm, và kẻ đi trộm
chó rằng: “Ở vị trí những người ra tay đánh chết kẻ trộm chó, tơi thấy hành động đó
chẳng có gì là q đáng”; “Ở vị trí của tên trộm chó, tơi thấy đó là một nghề nguy hiểm
nhưng khá béo bở”[1,tr.27]. Và ông nhận ra bên nào cũng có cái lý của nó, nhưng ở đây
ơng chỉ xét trên diện rộng để đưa ra một vấn đề lớn cần suy ngẫm “ Rõ ràng trong xã hội
Việt Nam đang có hiện tượng tính mạng con người bị coi rẻ. Đây mới là điều thật đáng
sợ”( Mạng chó mạng người)[1,tr.28]. Song song với tính mạng bị coi rẻ đó là cánh cửa
hé mở cho lối sống vơ cảm, tàn nhẫn của người Việt.


8


Có lẽ từ coi thường mạng sống mà người Việt sẵn sàng “Ung dung nhìn người
chết”. Đây cũng chính là tiêu đề một bài viết trong tập Làng quê đang biến mất?của Tạ
Duy Anh khi ông bàn về thái độ dửng dưng của người Việt đối với đồng loại của mình.
Ơng dẫn chứng ra sự việc từng giật tít báo một thời như: “Sự kiện em sinh viên Đinh Thị
Phương Thảo tử vong vì bị nước cuốn trơi ngay giữa trung tâm một thành phố hiện đại
nhất nước”; “Cách đây dăm bảy năm, một thiếu phụ bị điện giật chết khi vơ tình đi sát
cột điện tại một khu phố cũ của Hà Nội”; “Vừa mới năm 2012, một cây xà cừ quá nặng
phần ngọn, bật gốc đổ trên đường Lò Đúc, đè chết tươi một lái xe taxi”; … [1,tr.36].
Nhưng tất cả những vụ ấy đều có một điểm chung, đó là “Người chết khơng biết vì sao
mình chết, cịn người gián tiếp gây ra cái chết đó thì vẫn cứ nhan nhở cười nói, ung dung
thanh thản sống những tháng ngày tươi đẹp, không bị cắn rứt mảy may”, “Khơng ai phải
chịu trách nhiệm lương tâm hay hình sự về cái chết đau lịng đó”, “mặc nhiên được coi
là một tai nạn thơng thường” và “thậm chí ngay cả thân nhân của người chết cũng mặc
nhiên coi đó chỉ là thiên tai!”(Ung dung nhìn người khác chết)[1,tr.36]. Tất yếu với
những sự kiện đó báo chí và dư luận đều quan tâm nhiều ngày nhưng chỉ ở mức quan tâm
suông. Từ hiện thực đang diễn ra, Tạ Duy Anh chỉ ra cho bạn đọc thấy được một lối sống
tàn bạo ăn sâu trong lịng xã hội Việt: “đó là sự vơ cảm tập thể, đi kèm theo nó là thói
quen coi rẻ mạng sống của người khác”. “Khi người ta thản nhiên nhìn người khác chết,
cũng có nghĩa là cái chết đang ở ngay bên cạnh họ. Khi cả xã hội rơi vào trạng thái vô
cảm, cái xã hội đó đang để tương lai phía sau mình và sự rủi ro nằm sẵn ngay trên
giường của mỗi phòng ngủ” (Tạ Duy Anh – Ung dung nhìn người khác chết)[1,tr.39].

9


Ta vẫn biết ngành y xưa giờ là một ngành giàu y đức, là ngành có cái tâm, có sự yêu
thương. Nhưng ngày nay, y đức dù được mò tận sâu đáy biển có khi vẫn chưa ra: Vẫn có

một số bộ phận những y, bác sĩ tắc trách với cái nghề của mình. Thay vì cứu người, họ vơ
tình hay cố ý đã đẩy bệnh nhân của mình vào cái chết.Mới đây vụ việc xảy ra kinh hoàng
ở thẩm mỹ viện Cát Tường đã làm ta phải suy ngẫm. Ông “bác sĩ hung thần Nguyễn
Mạnh Tường không chỉ thực hiện hành vi phi tang hèn hạ”[1,tr.285] mà quan trọng ông
đã ném toàn bộ ngành y tế , ném cả lương tâm, trái tim của một vị thầy thuốc xuống sông
Hồng. Hay những câu chuyện sơ ý của ngành y tế đang diễn ra hằng ngày cũng rung rợn
không kém: “Một điều dưỡng viên làm rơi cả năm đứa trẻ sơ sinh xuống đất từ độ cao
hàng mét tại một bệnh viện phụ sản luôn được xếp hạng cao ở Hà Nội. […]; “Một đứa
bé sơ sinh chết chỉ vì bị tiêm… nhầm thuốc như trường hợp ở Vinh, Nghệ An”; “Cho đến
chuyện ba đứa trẻ chết một lúc, tại một địa điểm sau khi tiêm vắc xin phòng viêm gan B,
như ở bệnh viện Đa khoa Hướng Hóa, Quảng Trị”… (Y đức và chuyện mị kim đáy bể)
[1,tr.292]. Có rất nhiều lý do tính chất nghề nghiệp để bào chữa cho những hành động
này. Nhưng sâu xa nhất, thiết nghĩ rằng do tính mạng con người đang bị coi thường, chưa
thật sự có trách nhiệm với nghề, với hành động của mình. “Những cái chết chỉ có giá trị
cung cấp một hiện thực về sự vơ tăm tích của kiếp người” (Y đức và chuyện mò kim
đáy bể)[1,tr.295].Sao lại như thế? Bởi vì trước những trường hợp trên đơi khi lãnh đạo ở
gần đó nhưng họ vẫn có lý do vơ cùng chính đáng cho sự khơng thể có mặt tại hiện
trường để giải quyết của mình. Đó chẳng phải là một biểu hiện rõ nhất cho lối sống vô
cảm, thờ ơ trước cái chết của người khác? Không chỉ lối sống vô cảm , mà trên hết y đức
đang từng ngày đánh mất đi bản chất đạo đức của mình.

10


Lối sống vơ cảm, thối hóa đạo đức cịn được biểu hiện ở việc con người dửng dưng
với dư luận, với cuộc sống đang diễn ra với rất nhiều vấn đề.Một điều chúng ta có thể
thấy “sợ dư luận là một thái độ còn lành mạnh về mặt đạo đức”. “Vì sợ dư luận mà
người ta biết đứng lại trước ranh giới của tội ác. Vì biết sợ dư luận mà người ta điều
chỉnh hành vi ngay khi nó mới cịn trong dự định, để khơng bị lên án.Vì biết sợ dư luận
mà kẻ mạnh không thể áp đặt những tiêu chuẩn phi lý cho kẻ yếu hơn mình. Tức là dư

luận góp vào việc tạo ra cơng lý, thậm chí tạo ra sự cơng bằng”(Nhờn dư luận)
[1,tr.238]. Nhưng giờ đây dường như việc “sợ dư luận” đã là quá khứ khi mà xã hội sự
kiện nóng này chưa ngã mũ đã xuất hiện sự kiện khác, dư luận sự kiện theo thế mà tự đi
đến kết thúc. Nhờn dư luận là một “căn bệnh đã hiện hành, có triệu chứng lâm sàng, có
biểu hiện bệnh lý rõ ràng và có sức hủy hoại rất khủng khiếp”.Đây cũng chính là một
biểu hiện của suy thoái đạo đức mà một khi lòng tin đã mất đi chẳng còn cách nào cứu
chữa.

11


Lối sống vơ cảm kéo theo đó là sự thối hóa đạo đức nếu khơng được điều chỉnh kịp
thời sẽ biến người Việt thành những con người vơ nhân tính. Tạ Duy Anh trên cơ sở
khách quan đã đưa ra cái nhìn tổng quát cho lối sống này, hơn ai hết qua đó ơng vẫn ni
một hy vọng sẽ thấy người Việt lại cư xử với nhau theo đúng nghĩa “Lá lành đùm lá
rách”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng” như truyền thống đoàn kết xưa nay của dân tộc Việt
Nam. Song song với lối sống vô cảm, người Việt đang dần làm mờ đi những giá trị nhân
tính.Ở những bài viết của mình, Tạ Duy Anh đã đưa ra những biểu hiện, thực trạng của
thái độ sống thiếu tình người của người Việt.Đặt vào giới trẻ, những con người trẻ bốc
đồng, nơng cạn với suy nghĩ ích kỉ chỉ nghĩ cho bản thân mình, đã vơ tình làm ảnh hưởng
đến những người khác. Nhà văn đã dẫn ra hành vi vẫn còn gây chấn động dư luận – kẻ
thủ ác Nguyễn Văn Dũng đã nhẫn tâm tạt axit vào người mà anh yêu đơn phương. Hành
động này theo nhà văn không thể lý giải là cuồng yêu, bởi lẽ nó có động cơ, có mục đích
và có cả suy nghĩ. Và u khơng có khái niệm làm tổn thương người mình yêu như thế,
bởi lẽ yêu là dâng hiến, là hy sinh cho người mình yêu, là mong người mình yêu hạnh
phúc.Vậy hành động này phải lý giải ra sao? Tạ Duy Anh cho rằng “gốc rễ của vấn đề
chính là ở hai chữ suy đồi” hay chính là con người đang đánh mất đi tính người, một con
người có lí trí, có suy nghĩ sẽ khơng hành động như thế, chỉ có con vật hành động theo
bản năng mới làm ra hành động dã man đó. Khơng riêng gì tình yêu, ở mối quan hệ giữa
con người với con người cũng đang vơ tình đánh mất đi tính người – thứ làm nên giá trị

của một con người.

12


Một con người đúng nghĩa họ sẽ khơng có những hành động đối xử tàn bạo với
đồng loại của mình. Khơng chỉ con người, ngay cả động vật chúng cịn biết bảo vệ đồng
loại kia mà, sao con người có thể làm tổn thương những người chung một bọc với mình
kia chứ! Người lớn đối xử với nhau tàn nhẫn có thể lý giải được, những trẻ con, chúng
làm gì nên tội mà người lướn đan tâm bạo hành, hành hạ, đánh đạp chúng một cách dã
man như thế?“Tại sao càng phát triển về mặt vật chất, thì lại càng có dấu hiệu bệnh
hoạn trong thái độ ứng xử? Khi tra tấn, hành hạ một đứa trẻ con, đẩy nó ra đường, biến
nó thành phương tiện kiếm tiền, bắt nó phải ăn uống như súc vật, thậm chí giết hại
chúng… thì đấy đâu phải là hành vi của con người. Nhưng những kẻ thực hiện điều đó
thì rõ ràng cũng khơng phải là lồi vật. Thậm chí đơi ba người trong số đó cịn đội trên
đầu chiếc mũ trí thức mỹ miều nữa”.(Hội chứng hành hạ trẻ con)[1,tr.258]. Sự biến
dạng nhân cách hùa với tội ác đã biến họ thành những con người thú tính, họ có cái lý
cho hành động của mình rằng chẳng ai thương họ sao họ phải thương người khác.
Lối sống vơ cảm chính là tiền đề của những thói xấu, tội ác, dự suy đồi và cướp đi
tính người của người Việt hiện nay. “Từ thói vơ cảm tất yếu đẻ ra sự hèn nhát, giả dối, cơ
hội, ngụy biện, gian manh, đểu cáng và cuối cùng là tội ác”( Kính thưa các trẻ con),
hay “sống trong một xã hội vô cảm nguy hiểm như thế nào? Vì nghĩ rằng khơng ai xả
thân cho mình, bạn cũng sẽ lựa chọn cách hành xử tương tự với người khác, như sự báo
thù và sự khôn ngoan […] thì bước ra đường là bạn cũng đồng nghĩa là bạn đang lao vào
chốn nguy hiểm, nguy hiểm hơn cả đi một mình trong rừng rậm đối mặt với bóng đêm và
thú dữ” ( Kính thưa các trẻ con)[1,tr.223]. Xã hội sẽ trở thành như thế nào khi căn bệnh
vô cảm ngày càng ăn sâu vào tiềm thức của người Việt.

13



Nhưng trong rất nhiều tồn đọng tiêu cực của người Viêt, Tạ Duy Anh đã reo mừng
khi ơng tìm ra một niềm hy vọng – niềm hy vọng đó được đặt ra bởi trẻ con. Nói theo nhà
văn thì “Các trẻ con nhân cách lớn ấy thực sự đã dạy cho lũ người lớn nhân cách bé bài
học đơn giản về tinh thần xã thân” (Tạ Duy Anh)[1,tr.223]. Ông đưa ra những dẫn chứng
rất cụ thể , đầu tiên là trường hợp Nguyễn Văn Nam (lớp 12T7, xã Trung Sơn, huyện Đơ
Lương, Nghệ An) đã xã thân lao vào dịng nước lũ để cứu 4 em nhỏ . Nếu lúc đó, em
dừng lại và suy nghĩ như người lớn nghĩ rằng em sẽ bị nước cuốn hay không cứu được thì
cũng chẳng ai khép em vào tội hèn nhát vì em vẫn là trẻ con.Nhưng em đã không làm
như thế. Em đã làm được một việc rất có ý nghĩa và xứng đáng với hai tiếng “anh hùng”.
Hay “chắc chắn khơng người lớn nào trong số chúng ta đủ lịng u thương một cách vơ
tư để có thể rịng rã cõng bạn đến trường suốt 3 năm, 5 năm, 9 năm… như em Nguyễn
Thị Định ở thôn Hội Phú, xã An Ninh Tây, huyện Tuy An, Phú Yên; hoặc như em Nguyễn
Thị Lân, học sinh lớp 11B8, Trường THPT Lê Văn Hưu, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa và
hàng trăm các em khác trên cả nước” (Kính thưa các trẻ con)[1,tr.223,224]. Cuộc sống
vẫn còn rất nhiều niềm tin được gieo bởi trẻ con, Tạ Duy Anh cảm thấy vui mừng khi ông
vào Google gõ cụm từ “cõng bạn đến trường” đã cho ra 1.400.000 kết quả. Cùng với sự
vui mừng ông cảm thấy xấu hổ cho những người lớn.Trong khi bọn trẻ vơ tư, sống chân
thành thì người lớn lại đối xử tàn nhẫn, cay độc với nhau. Cuối cùng, nhà văn tự khiêm
tốn mà nói rằng: “Xin những người lớn đừng sốc nếu đến lúc nào đó, mỗi khi mở miệng
trước bọn trẻ, thay vì cao đạo răn dạy, chúng ta phải nói: Kính thưa các trẻ con!”( Kính
thưa các trẻ con) [1.tr.225].
Qua Làng quê đang biến mất? Tạ Duy Anh đã một lần nữa cho ta thấy bức tranh
hiện thực về con người hiện đại. Con người ấy vẫn còn ẩn chứa quá nhiều điều tiêu cực
và đang dần đánh mất đi bản tính người của mình. Nhà văn vẫn thế, vẫn chỉ nêu ra vấn đề
cịn cái cơng việc đánh giá ông vẫn nhường lại cho độc giả.Nhưng bất cứ ai cũng nhìn
thấy một góc nào đó của chính chúng ta trong đó.Khơng phải tất cả người Việt ngày nay
đều như thế, tất nhiên, chỉ là trên tinh thần ở một số bộ phận người.Nhân đây, Tạ Duy
Anh đã đặt ra cho chính chúng ta một dấu hỏi thật lớn rằng “Người Việt phải chăng đang
đánh mất đi những đáng quý của mình?”

14


Làng quê đang biến mất?của Tạ Duy Anh thực sự là một bức tranh thu nhỏ của góc
khuất xã hội Việt Nam đương thời. Ở đó ta có thể tìm thấy biết bao loại người, biết bao
mảng tối của nhiều ngành nghề.Nhiều ý kiến cho rằng, Tạ Duy Anh có bi quan q khơng
khi viết tồn những cái xấu của đất nước? Không phải nhà văn bi quan, mà ông chỉ đang
cố gắng khơi dậy những thứ mà con người ta đang cố che đậy đi. Phàm khi cái gì càng cố
che đậy, không chịu thừa nhận để sửa đổi thì sẽ rất nguy hiểm cho xã hội. Ơng chỉ đang
làm cơng việc của một con người có tình u với loài người, với cuộc sống, với quê
hương đất nước.
Làng q đang biến mất?cịn là một thành cơng ở phương diện nghệ thuật. Sau
cuốn “Ngẫu hứng sáng trưa chiều tối” thì đây là tác phẩm thứ hai Tạ Duy Anh sáng tác
ở mảng bình luận xã hội. Ơng đã chứng minh cho ta thấy rằng, văn nghị luận không hề
nhàm chán như ta vẫn nghĩ, và khơng phải cứ có nhân vật thì tác phẩm mới trở nên hấp
dẫn. Mà giọng điệu, sự chân thành của chính tác giả cũng chính là một trong những yếu
tố kéo người đọc lại gần tác phẩm hơn.
Làng quê đang biến mất?còn là một tác phẩm thể hiện được tài năng của Tạ Duy
Anh. Ông không chỉ là một người viết truyện ngắn, tiểu thuyết hay mà còn là một người
bàn luận về vấn đề xã hội tuyệt vời.Đồng thời tác phẩm khẳng định tài năng của Tạ Duy
Anh trên một bình diện mới – bình luận xã hội.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

5.
6.

Tạ Duy Anh (2014), Làng quê đang biến mất?, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
Tạ Duy Anh (2002), Đi tìm nhân vật, NXB Dân tộc, Hà Nội.
Tạ Duy Anh (2008), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
Tạ Duy Anh (2007), Người khác, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
Phùng Hoàng Anh (06/2014), Báo Đất Việt, Hà Nội.
Quỳnh Anh (10/07/2014), Làng quê đang biến mất - cái nhìn vào góc khuất xã hội,
Vnexpress.net.

7. Lê Tiến Dũng (2005), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
8. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

16



×