Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

nghiên cứu sử dụng thức ăn tự chế trong nuôi vỗ thành thục tôm sú mẹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.42 KB, 39 trang )



1




TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG














TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304



NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG THỨC ĂN TỰ CHẾ
TRONG NUÔI VỖ TÁI THÀNH THỤC TÔM SÚ


MẸ





Sinh viên thực hiện
Dương Minh Tuấn
MSSV: 0753040107
Lớp NTTS K2







2




















































CAM KẾT KẾT QUẢ


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG














TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304




NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG THỨC ĂN TỰ CHẾ
TRONG NUÔI VỖ TÁI THÀNH THỤC TÔM SÚ MẸ





Cán bộ hướng dẫn:Sinh viên thực hiện:
ThS.Tăng Minh KhoaDương Minh Tuấn
MSSV: 0753040107
Lớp: NTTS K2






3




Tôi xin cam kết đề tài hoàn toàn dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi. Các kết quả
nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ đề tài nào cùng cấp.

Cần thơ, ngày 27 tháng 05 năm 2011
Sinh viên ký tên






Dương Minh Tuấn





4


XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ TIỂU LUẬN TỐT
NGHIỆP ĐẠI HỌC
Tên tiểu luận:
“Nghiên cứu sử dụng thức ăn tự chế trong nuôi vỗ thành thục tôm sú mẹ”.
Sinh viên thực hiện: Dương Minh Tuấn
Lớp: nuôi trồng thủy sản k2.
MSSV: 0753040107
Đề tài đã được hoàn thành theo yêu cầu của cán bộ hướng dẫn và hội đồng bảo vệ tiểu
luận tốt nghiệp đại học, khoa Sinh Học Ứng Dụng – Đại Học Tây Đô.
Cần thơ, ngày tháng năm 2011
Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện




TĂNG MINH KHOADƯƠNG MINH TUẤN


Chủ tịch hội đồng



5


TÓM TẮT

Đề tài được thực hiện nhằm làm cơ sở nghiên cứu sử dụng thức ăn tự chế thay thế ốc
mượn hồn trong nuôi vỗ thành thục tôm sú bố mẹ để giảm chi phí trong sản xuất
giống, chủ động nguồn thức ăn cho tôm mẹ đáp ứng cho sản xuất giống tôm sú.
Thông qua đánh giá tỉ lệ đẻ, sức sinh sản của tôm mẹ và tỉ lệ nở của trứng tôm giữa 2
nghiệm thức. Nghiệm thức 1: 6 con tôm mẹ cho ăn 100% ốc mượn hồn; Nghiệm thức
2: 6 tôm mẹ cho ăn 50% thức ăn chế biến + 50% ốc mượn hồn. Cả 2 nghiệm thức
được nuôi vỗ theo quy trình lọc sinh học tuần hoàn.
Kết quả ở nghiệm thức 1 tôm đẻ 19 lần, tỉ lệ đẻ trung bình là 79,2%, sức sinh sản
trung bình 2.508.333 trứng/tôm mẹ, tổng số trứng là 15.050.000 (trứng), tỉ lệ nở
80,7%. Ở nghiệm thức 2 tôm đẻ 21 lần, tỉ lệ đẻ là 87,5%, sức sinh sản trung bình
2.708.333 trứng/tôm mẹ, tổng lượng trứng 16.250.000 (trứng), tỉ lệ nở 79,4%.
Từ khóa: lọc sinh học tuần hoàn, tỉ lệ nở, sức sinh sản.




6


MỤC LỤC


LỜI CẢM TẠ i
TÓM TẮT ii
CAM KẾT KẾT QUẢ iii
MỤC LỤC iv
MỤC LỤC BẢNG vi
MỤC LỤC HÌNH vii
CHƯƠNG 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1. Giới thiệu 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1
1.3. Nội dung nghiên cứu 1
CHƯƠNG 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
2.1. Tình hình nuôi tôm sú trên thế giới và Việt Nam 2
2.2. Đặc điểm phân loại hình thái và phân bố 3
2.2.1. Phân loại 3
2.2.2. Hình thái 3
2.2.3. Phân bố 3
2.3. Đặc điểm sinh học 4
2.3.1. Tập tính sống 4
2.3.2. Chu kỳ sống 4
2.3.3. Phân biệt giới tính 5
2.3.4. Kích cở thành thục 6
2.3.5. Tập tính sinh sản 6
2.3.6. Sự phát triển của tuyến sinh dục 7
2.3.7. Đẻ trứng và sức sính sản 8
2.3.8. Phát triển của phôi, ấu trùng và hậu ấu trùng 9
2.3.9. Tập tính bắt mồi và nhu cầu dinh dưỡng 9
2.3.10. Đặc điểm sinh trưởng 10
2.4. Một số nghiên cứu về tôm sú 11
CHƯƠNG 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15

3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 15
3.2. Vật liệu và trang thiết bị 15
3.3. Phương pháp nghiên cứu 16
3.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 16
3.3.2. Cắt mắt nuôi vỗ thành thục và cho đẻ 16
3.3.3. Chế độ chăm sóc 17
3.3.4. Phương pháp thu thập và xữ lý số liệu 17
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 19
4.1. Các yếu tố môi trường 19
4.2. Tỉ lệ đẻ của tôm mẹ 19
4.3. Sức sinh sản của tôm mẹ trong các lần đẻ 20
4.4. Tỉ lệ nở 22
4.5. Khoảng cách giữa các lần đẻ của tôm mẹ 22
4.6. Hạch toán kinh tế 24
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 26


7


TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
PHỤ LỤC 30



8


CHƯƠNG 1 ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Giới thiệu

Nuôi tôm sú là một nghề quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Năm 2010 tổng sản
lượng tôm sú của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đạt 386.400 tấn (Bộ Nông Nghiệp
và phát triển Nông Thôn, 2010). Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông Thôn qui hoạch
đến năm 2015 có 546.000 ha mặt nước tại Đồng Bằng Sông Cửu Long nuôi tôm sú
sản lượng ước tính đạt 463.000 tấn, tăng 77.000 tấn so với năm 2010, 80% sản lượng
sẽ được xuất khẩu với giá trị hàng năm ít nhất là 1,5 tỉ USD. Để bảo đảm đạt kết quả
mong muốn, Đồng Bằng Sông Cửu Long phải cải tiến kỹ thuật nuôi theo hướng bền
vững và áp dụng các công nghệ nuôi tiên tiến, thân thiện với môi trường như Code of
Conduct – CoC (truy xuất nguồn gốc), Good Aquaculture Practice - GAP (áp dụng
các qui trình nuôi tốt), nuôi có trách nhiệm (Responsible Aquaculture Practice - RAP),
quản lý vùng nuôi an toàn, nhằm tạo sản phẩm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị
trường thế giới và trong nước. Nhưng cho dù mô hình nuôi tôm nào thì chất lượng con
giống sạch bệnh tăng trưởng nhanh đều được người nuôi quan tâm và đặt lên hàng
đầu.
Hiện nay, hầu hết các trại sản xuất giống đều phụ thuộc vào nguồn tôm bố mẹ tự
nhiên (Lê Xuân Sinh, 2002). Nguồn tôm sú bố mẹ tự nhiên đang giảm dần và giá tăng
cao có thể cao đến 4-5 triệu đồng/tôm mẹ. Nhằm giảm giá thành sản xuất nên các trại
giống đã tăng số lần cho tôm đẻ dẫn đến chất lượng tôm giống bị giảm (Châu Tài Tảo,
2005).
Nuôi vỗ thành thục tôm sú mẹ chủ động rất quan trọng trong sản xuất giống tôm sú.
Theo Châu Tài Tảo (2005) thì ở các huyện Năm Căn và Ngọc Hiển tỉnh Cà Mau cho
thấy 100% các trại giống đều sử dụng ốc mượn hồn làm thức ăn chính cho tôm bố mẹ
và là nguồn thức ăn giúp tôm thành thục nhanh. Hiện nay nguồn ốc mượn hồn có giá
thành cao (90.000- 150.000 đồng/kg) và đôi khi thiếu hụt. Nên đề tài “Nghiên cứu sử
dụng thức ăn tự chế trong nuôi vỗ tái thành thục tôm sú mẹ” được thực hiện nhằm
chủ động nguồn thức ăn cho quá trình nuôi vỗ tôm bố mẹ và giảm giá thành sản xuất.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng thức ăn tự chế thay thế ốc mượn hồn trong nuôi vỗ tái thành thục
tôm sú mẹ để giảm chi phí trong sản xuất giống, chủ động nguồn thức ăn cho tôm mẹ
đáp ứng cho sản xuất giống tôm sú.

1.3. Nội dung nghiên cứu
Đánh giá tỉ lệ đẻ, sức sinh sản của tôm mẹ và tỉ lệ nở của trứng tôm giữa tôm mẹ cho
ăn 100% ốc mượn hồn với tôm mẹ cho ăn 50% thức ăn chế biến + 50% ốc mượn hồn.


9


CHƯƠNG 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1. Tình hình nuôi tôm sú trên Thế giới và Việt Nam
Hiện nay trên thế giới, nuôi tôm sú (Penaeus monodon) là một nghề phát triển mạnh
có tầm quan trọng trong nền kinh tế. Theo báo cáo tình hình nuôi trồng thủy sản thế
giới năm 2006 của Tổ chức Lương nông thế giới (FAO), châu Á chiếm 9 trong 10
quốc gia dẫn đầu về nuôi trồng thủy sản. Các quốc gia đứng đầu về sản lượng thủy
sản như Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines, Indonesia, Nhật, Thái Lan, Việt Nam, Hàn
Quốc, Bangladesh và Chile. Nghề nuôi tôm đem lại lợi nhuận cao, góp phần nâng cao
đời sống người dân, phát triển kinh tế cho đất nước, giải quyết việc làm cho người
dân, hạn chế việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên sinh vật biển.
Năm 2004 sản lượng tôm sú của Việt Nam là 290.000 tấn, trong đó Đồng Bằng Sông
Cửu Long là 200.000 tấn. Cả nước sản xuất được 26,1 tỉ tôm giống, trong đó Đồng
Bằng Sông Cửu Long chỉ sản xuất được 7 tỉ con (Bộ Thủy sản, 2005). Việt Nam đã
không ngừng nghiên cứu nhằm nâng cao tay nghề nuôi, nâng cao chất lượng tôm sú
đưa tôm sú Việt Nam vững bước trên con đường phát triển không những về quy mô
diện tích mà còn sự đa dạng hóa các mô hình nuôi. Việt Nam có các mô hình nuôi như
nuôi thâm canh, nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến, và mô hình nuôi sinh thái bền
vững.
Nước ta có bờ biển dài hơn 3200 km bờ biển, có nhiều đầm phá, vịnh, cửa sông và
hàng ngàn đảo và quần đảo là nơi thuận lợi cho việc nuôi trồng các loài thủy sản lợ
mặn đặc biệt là nuôi tôm sú. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam tổng sản lượng thuỷ sản cả năm 2010 ước đạt 5.128.000 tấn, tăng 5,3%

so với năm 2009, trong đó tôm 589.000 tấn, tăng 7,1%. Theo Châu Tài Tảo (2005),
Bằng Sông Cửu Long là vùng nuôi tôm trọng điểm, chiếm đến 80% sản lượng tôm
nuôi và 30% sản lượng tôm giống so với cả nước. Năm 2010 Đồng Bằng Sông Cửu
Long với tổng sản lượng tôm sú đạt 386.400 tấn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, 2010) đã và đang phát triển nuôi tôm sú theo chiều sâu dự kiến đến năm 2015 sẽ
nâng sản lượng tôm sú lên ở mức 463.000 tấn. Trong đó sản lượng tôm sú nuôi chủ
yếu được đóng góp từ các tỉnh vùng Bán đảo Cà Mau. Để bảo đảm đạt kết quả mong
muốn, Đồng Bằng Sông Cửu Long mở rộng nuôi theo chiều sâu trên địa bàn 8 tỉnh Cà
Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang, Long An,
trong đó tỉnh Cà Mau có diện tích nuôi lớn nhất. Đồng Bằng Sông Cửu Long cải tiến
kỹ thuật nuôi theo hướng bền vững và áp dụng các công nghệ nuôi tiên tiến, thân thiện
với môi trường như Code of Conduct – CoC (truy xuất nguồn gốc), Good Aquaculture
Practice - GAP (áp dụng các qui trình nuôi tốt), nuôi có trách nhiệm (Responsible
Aquaculture Practice - RAP), quản lý vùng nuôi an toàn, nhằm tạo sản phẩm đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của thị trường thế giới và trong nước thì việc nâng cao kỹ thuật


10


trong việc sản xuất giống sạch bệnh, chất lượng con giống đảm bảo để phục vụ tốt cho
người nuôi ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long là điều cấp bách và cần thiết hiện
nay.
2.2. Đặc điểm phân loại, hình thái và phân bố
2.2.1. Phân loại
Tôm sú thuộc hệ thống phân loại sau:
Ngành: Arthropoda
Ngành phụ: Crustacea
Lớp: Malacostraca
Bộ: Decapoda

Họ: Penaeidae
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus monodon
Theo Fabricius (1798).
Tên khoa học: Black Tiger Shrimp.
2.2.2. Hình thái
Fabricius (1798)
được trích dẫn bởi Tăng Minh Khoa (2010), tôm sú (Penaeus
monodon): chủy có 7-8 răng trên chủy và 3-4 răng dưới chủy. Chủy cong xuống rất ít.
Gờ gan dài và cong. Gai đuôi có rãnh nhưng không có gai bên. Phần đầu ngực và
phần bụng có những băng đen ngang. Chân ngực có thể có màu đỏ. Đây là loài tôm
kinh tế có kích cỡ lớn nhất trong nhóm tôm he, cơ thể có thể dài đến 360 mm hay dài
hơn.

Hình 2.1: Hình dạng ngoài của tôm sú.
2.2.3. Phân bố
Theo Bailey –Brock và Moss (1992) thì tôm sú phân bố chủ yếu ở vùng Ấn Độ-Tây
Thái Bình Dương: từ Đông và Đông nam Châu Phi, Pakistan đến Nhật Bản, xuống


11


Indonesia và Bắc Úc. Tôm có thể sống ở độ sâu 0-162m, nền đáy bùn, hay cát.
Trưởng thành sống ở biển khơi, giai đoạn ấu niên sống ở cửa sông.
Ở Việt Nam, tôm sú phân bố tập trung nhiều ở vùng ven biển miền trung, ven biển
Nam Bộ. Ở Nam Bộ tôm sú có nhiều ở vùng biển Kiên Giang. Vịnh Bắc Bộ tôm sú rất
hiếm (Nguyễn Anh Tuấn, 1995).
2.3. Đặc điểm sinh học
2.3.1. Tập tính sống

Tôm sú là loài rộng muối tùy theo giai đoạn phát triển mà tôm có khả năng thích nghi
với độ mặn khác nhau. Trong điều kiện thuần hóa tôm có khả năng sinh trưởng ở độ
mặn từ 1 - 34‰. Bãi đẻ của tôm sú thường có độ mặn trên 33‰, pH thích hợp từ 7,5 -
8,2, đáy bùn cát và độ sâu 10 -20m (Nguyễn Văn Chung, 2000). Tôm sú cũng là loài
rộng nhiệt, nhiệt độ thích hợp là 24 -34
0
C, dưới 15
0
C và trên 35
0
C tôm sẽ hoạt động
không bình thường và có thể chết hàng loạt (Nguyễn Văn Chung, 2004). Giai đoạn ấu
trùng và tiền trưởng thành tôm sống ở vùng gần cửa sông, khi trưởng thành sống vùng
nước sâu trên nền đáy bùn hay đáy cát (Phạm Văn Tình, 2003).
2.3.2. Chu kỳ sống
Theo Dall và csv (1990) thì cho rằng tôm sú (Penaeus monodon) có giai đoạn hậu ấu
trùng phân bố chủ yếu ở vùng cửa sông thường cư trú trong vùng rừng ngập mặn nơi
độ mặn có thể thay đổi lớn. Giai đoạn ấu niên thường rộng muối cũng cư trú vùng cửa
sông. Khi gần đến giai đoạn thành thục thì tôm sẽ rời vùng cửa sông di cư ra vùng
biển khơi để sinh sản. Trứng tôm sú có kích cỡ nhỏ khoảng 0,27mm và chìm.
Bảng 2.1: Vòng đời tôm sú (Penaeus monodon) (Kenway và Hall, 2002
)
Giai đoạn Độ tuổi Chiều dài (mm) Khối lượng (g) Nơi sống
Tôm bột Ngày 21-35 29 -56 0,02 -1,3 Cửa sông
Ấu niên Tháng 1,2 -5 56 -134 1,3 -33 Cửa sông
Tiền trưởng thành Tháng 5-6 134 -164 33 -60 Vùng ven bờ
Bố mẹ Tháng 4 -24 164 -266 60 -261 Biển khơi
Giai đoạn phát triển của phôi và ấu trùng của tôm sú sống trôi nổi ở các vùng khơi do
các dòng hải lưu và thủy triều. Sau khi chuyển qua giai đoạn hậu ấu trùng lúc này
chúng đã hoàn thiện dần các cơ quan chức năng để thích nghi với đời sống đáy. Suốt

thời gian này hậu ấu trùng lại di cư vào vùng của sông và thường cư trú ở rừng ngập
mặn, nơi có độ mặn dao động từ 5 -20% để kiếm ăn và sinh sống và phát triển.


12



Hình 2.2: Vòng đời tôm sú.
2.3.3. Phân biệt giới tính
Theo Motoh (1981) loài tôm sú có các cơ quan sinh dục phụ. Ở con đực, các nhánh
trong của chân bụng thứ nhất biến thành cơ quan giao vỹ (petasma). Khi chưa thành
thục, các nhánh trong này đơn thuần là những nhánh thon, dẹp, nhưng khi thành thục,
chúng kéo dài và dính lại với nhau nhờ những lông móc nhỏ giữa chúng. Cấu trúc của
petasma đặc trưng riêng cho từng loài.
Cơ quan sinh dục trong của tôm đực bao gồm một đôi tinh sào, đôi ống dẫn tinh và
đầu mút nằm ở vùng tim phía trên của gan tụy. Tinh sào trong suốt và có 5-8 thùy liên
kết lại ở phần gốc và đổ về ống dẫn (deferens). Ống dẫn gồm có đoạn đầu ngắn và
hẹp; đoạn giữa dày và lớn và đoạn cuối dài hẹp. Đầu cuối của ống có túi tinh và đổ ra
gốc của chân ngực 5, có thể nhìn thấy qua lớp vỏ. Túi tinh được hình thành khi các
tinh trùng đi qua ống dẫn.
Cơ quan sinh dục của tôm cái là thelycum. Thelycum là đĩa biến dạng của đốt ngực
thứ 7 và 8. Tôm sú có thelycum kín (2 tấm đậy kín). Cơ quan sinh dục trong của tôm
cái bao gồm một đôi buồng trứng và ống dẫn trứng. Buồng trứng kéo dài theo chiều
dài cơ thể. Buồng trứng có nhiều thùy ở phần đầu và nằm gần dạ dày và vùng tim;
Các thùy bên nằm phía trên của gan tụy; Thùy bụng nằm giữa mặt bên và trên của dãy
ruột và phía dưới của các mạch máu bụng trên lưng (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh
Phương, 2009).



13



Hình 2.3: Cơ quan sinh dục của tôm sú (b: petasma, c: thelycum)
2.3.4. Kích cở thành thục
Theo Motoh (1985) cho rằng trong tự nhiên, các loài tôm thuộc giống Penaeus thường
đạt tuổi thành thục sau 8-10 tháng. Tôm sú (Penaeus monodon) là loài có kích cỡ lớn
song chúng có thể thành thục ở kích cỡ 35 g đối với con đực và 67,7 g đối với con cái.
Trong ao, tôm đực có thể đạt thành thục ở trọng lượng 20 g và con cái ở 41,3 g.
2.3.5. Tập tính sinh sản
Theo Bray và Lawrence (1992) thì tôm sú thuộc nhóm có thelycum kín, tôm cái chỉ
giao vỹ khi vừa lột xác. Túi tinh của tôm đực được chuyển sang túi chứa tinh nằm
trong thelycum của tôm cái. Túi tinh này sẽ được giữ để thụ tinh cho vài lần đẻ trứng
hay đến khi tôm cái lột vỏ tuân theo thứ tự: lột xác - giao vỹ - thành thục - đẻ trứng.
Hiện tượng giao vỹ ở tôm xảy ra khi có sự tiết pheromone sinh dục của tôm cái và
tôm đực nhận biết nhờ râu thứ nhất hay gai râu thứ nhất.
Ở tôm sú (Penaues monodon) có thelycum kín, giao vỹ xảy ra sau khi lột xác của con
cái vào lúc 18:00-6:00.
Các bước trong quá trình giao vỹ của tôm được mô tả như sau: một hay nhiều con đực
bị con cái hấp dẫn, tiếp cận con cái từ phía sau, con đực chạm đầu gai chủy vào dưới
đuôi con cái; con cái bơi lên mặt, và chúng rượt đuổi nhau hay bơi song song, con đực
thường bơi phía dưới và sau con cái; từ phía dưới con cái, con đực trở ngửa lên, đầu
áp đầu, bụng áp bụng với con cái; con đực sau đó quay vuông góc với con cái, búng
co đầu và đuôi vài lần để chuyển túi tinh vào con cái.


14




Hình 2.4: Đặc điểm giao vỹ của tôm sú (Penaeus monodon) các giai đoạn từ (a) (d).
2.3.6. Phát triển của tuyến sinh dục
Theo Tan-Fermin và Pudadera (1989) thì sự phát triển của tuyến sinh dục tôm sú như
sau:
Phát triển tuyến sinh dục đực
Tinh dịch có màu sữa hay xám nhạt. Tinh trùng không di động, có hình quả cầu có
chóp gai.
Phát triển tuyến sinh dục cái
Ở tôm sú (Penaeus monodon) có 5 giai đoạn phát triển của buồng trứng dựa trên sự
khác biệt về cỡ trứng, độ rộng tuyến sinh dục và màu sắc.
Giai đoạn I: buồng trứng mỏng, trong suốt, không nhìn thấy được từ bên ngoài. Tôm
sú giai đoạn này trứng có kích cỡ 36 µm thì được bao bởi một lớp folicule và trứng
lớn hơn sẽ có nhân và hạt noãn hoàng. Ở giai đoạn thoái hoá trứng cũng chứa noãn
hoàng và có lớp folicule dày, trứng giai đoạn này có hình dạng không đều.
Giai đoạn II (giai đoạn phát triển): buồng trứng mềm và có màu trắng hay xanh ô-liu,
dạng dãy thẳng. Trứng có kích cỡ trung bình 177 µm có những hạt noãn hoàng. Tế
bào có chất nguyên sinh bao gồm những hạt glycoprotein nhỏ, giọt lipoglycoprotein
và giọt dầu.
Giai đoạn III (giai đoạn gần chín): buồng trứng có màu xanh nhạt, phần trước dày và
nở rộng. Có thể thấy buồng trứng dễ dàng qua lớp vỏ đặc biệt ở đốt bụng thứ nhất.
Trứng có kích cỡ trung bình 215 µm.
Giai đoạn IV (giai đoạn chín): buồng trứng có dạng hạt kim cương nở rộng phủ khắp
đốt bụng thứ nhất. Trứng có màu xanh ô-liu đậm hay xanh rêu đậm và phủ đầy


15


khoang cơ thể. Trứng có kích cỡ trung bình 235 µm. Tôm ở giai đoạn này thường

được sử dụng cho sinh sản trong trại giống.

Hình 2.5: Các giai đoạn phát triển của buồng trứng tôm sú (Penaeus
monodon), (Tan –Fermin và Pudadera, 1989)
2.3.7. Đẻ Trứng và sức sinh sản
Theo Phạm Văn Tình (2003), thì tôm đẻ trứng vào ban đêm, thường 22-2 giờ. Tuy
nhiên, tùy từng mùa mà thời gian đẻ trứng của tôm cũng khác nhau. Trước khi đẻ
trứng, tôm cái nằm yên trên đáy bể. Khi bắt đầu đẻ trứng, con cái bơi tới và thỉnh
thoảng búng nhanh. Sau đó, bơi chậm lại và đẻ trứng rơi vào nước. Các chân bụng
hoạt động nhanh để phân tán trứng đều trong nước và rơi xuống đáy bể. Đôi khi, trứng
không rơi đều ra mà dính lại thành đám trên đáy bể, điều này sẽ làm trứng bị hư và
không nở được. Các hoạt động bên ngoài đều có ảnh hưởng đến hoạt động đẻ trứng
của tôm.
Theo Phan Đình Phúc và Nguyễn Cơ Thạch (2004), thì sức sinh sản của tôm tỉ lệ
thuận với khối lượng, tôm thành thục ngoài tự nhiên có khối lượng 145 g thì sức sinh
sản là 4050 trứng/g, còn tôm thành thục trong lồng ở biển thì sức sinh sản là 3413
trứng/g.
Trong tự nhiên, tôm thường đẻ 1 lần trong mỗi chu kỳ lột xác, song trong điều kiện
nuôi vỗ tôm có thể đẻ nhiều lần (có thể đến 12 lần) (Lưu Hoàng Ly, 1991).


16


2.3.8. Phát triển của phôi, ấu trùng và hậu ấu trùng
Theo Primavera và Posadas (1981), sự phát triển của phôi: giai đoạn này bắt đầu khi
trứng thụ tinh và phân cắt thành 2, 4, 8, 16, 32, 64, 128 tế bào, phôi dâu, phôi nang,
phôi vị đến khi nở. Thời gian hoàn tất giai đoạn này khoảng 12-15h tùy thuộc vào
nhiệt độ của nước.
Motoh (1981) trích dẫn bởi Tăng Minh Khoa (2010) cho rằng sự phát triển của ấu

trùng tôm sú trãi qua các giai đoạn nauplii (6 giai đoạn), zoae (3 giai đoạn) và mysis
(3 giai đoạn).
Nauplius: Ấu trùng nauplius mới nở có chiều dài khoảng 0,3 mm, có 3 đôi phụ bộ và
một điểm mắt ở giữa trước. Ấu trùng có tập tính trôi nổi, hướng quang, dinh dưỡng
bằng noãn hoàng.
Zoae: bao gồm 3 giai đoạn phụ: Ấu trùng zoea 1 phân biệt

với nauplius qua một số
đặc điểm như có carapace tròn, các phụ bộ và gai đuôi phát triển. Ở giai đoạn zoae 2
ấu trùng xuất hiện 2 mắt có cuống, chủy có răng, bụng phát triển dài ra. Đôi râu thứ
nhất hướng ra phía trước. Ấu trùng zoae 3

có các gai lưng và gai bụng trên các đốt
bụng. Râu thứ nhất to hơn và có nhiều lông tơ. Các mầm chân ngực xuất hiện phía sau
các phụ bộ miệng. Đặc điểm rõ nhất là chân bụng (uropod) xuất hiện trước đuôi. Ấu
trùng zoae có tính ăn lọc, thụ động, thức ăn chính là tảo, có kích cỡ 3-30µm. Tuy
nhiên zoae 1

vẫn còn sử dụng noãn hoàn trong khi bắt đầu ăn ngoài. Zoae có tính
hướng quang mạnh.
Mysis: có 3 giai đoạn phụ, giai đoạn mysis 1

có cơ thể kéo dài, chân ngực phát triển,
telson xuất hiện, chưa có chân bụng. Mysis

2 có mầm chân bụng nhưng chưa phân
đốt. Mysis 3

có chân bụng phát triển dài gấp đôi so với giai đoạn mysis 2, chân bụng
có 2 đốt. Ấu trùng Mysis dần dần chuyển sang ăn động vật phiêu sinh, bơi ngửa và

giật về phía sau.
Sau giai đoạn mysis chuyển sang giai đoạn hậu ấu trùng (postlarvae) có hình dạng
tương tự như tôm trưởng thành chiều dài đầu tiên khoảng 4,5mm có tập tính bơi trong
cột nước, phần lớn sống đáy. Từ postlarvae 6 chủ yếu sống đáy.
2.3.9. Tập tính bắt mồi và nhu cầu dinh dưỡng
Tập tính bắt mồi của tôm
Tôm sú được xem như là loài ăn tạp (Dall, 1998). Thức ăn của tôm bao gồm giáp xác,
giun nhiều tơ, nhuyễn thể, côn trùng, tảo và các mảnh thực vật. Các chất vẫn bao gồm
các mảnh hữu cơ cũng là thức ăn quan trọng của tôm. Tuy nhiên, tính ăn của chúng
cũng thay đổi theo giai đoạn.
Giai đoạn nauplii: dinh dưỡng bằng noãn hoàng.


17


Giai đoạn zoae: ăn được thức ăn có kích thước <50 µm. dinh dưỡng chủ yếu bằng tảo
khuê (sketonema, Cheatoceros sp ). Trong sản xuất giống nếu thiếu tảo tươi có thể
bổ xung thêm tảo khô, thức ăn công nghiệp như: Lansy, Frippack 1,
Giai đoạn mysis: ăn được thức ăn có kích thước 50 -90 µm, ăn các phiêu sinh vật như:
luân trùng, ấu trùng artermia, có thể cho ăn thêm Lansy, Frippack 2
Giai đoạn tôm bột (postlarvae): ăn được thức ăn có kích thước 90 -250 µm. Trong tự
nhiên tôm ăn các giáp xác nhỏ, nhuyễn thể nhỏ, giun nhiều tơ. Khi ương tôm giống có
thể cho ăn thức ăn chế biến từ lòng đỏ trứng gà, thịt tép, cá, hay thức ăn công nghiệp
như Frippack 2, Frippack 150,
Postlarvae giai đoạn đầu có chiều dài khoảng 4,5mm, các chân bụng có nhiều lông tơ
và vẫn còn tập tính bơi trong cột nước nhưng phần lớn bắt đầu sống đáy. Từ giai đoạn
postlarvae 6 (khoảng 6 ngày từ khi tôm chuyển từ mysis sang postlarvae) thì tôm hoàn
toàn sống đáy.
Giai đoạn trưởng thành: ăn thiên về động vật đáy như: giáp xác đáy, hai mảnh vỏ,

giun nhiều tơ, các loại ấu trùng của động vật đáy.
Hiện tượng tôm ăn lẫn nhau xãy ra khi tôm thiếu thức ăn, thức ăn thiếu chất dinh
dưỡng hay mất cân bằng trong dinh dưỡng, và nuôi với mật độ quá dày. Tôm khỏe
thường tấn công tôm yếu, tôm lớn ăn tôm nhỏ và tôm vỏ cứng ăn tôm vỏ mềm.
Tôm sú ăn suốt ngày đêm. Tuy nhiên ăn nhiều vào ban đêm. Tôm cũng ăn nhiều vào
lúc thủy triều lên cao. Tôm thích ăn đáy và ăn ven bờ. Tôm giảm ăn vào những lúc lột
xác. Các yếu tố môi trường cũng ảnh hưởng rất lớn đối vời khả năng bắt mồi của tôm.
Nhiệt độ quá cao hay quá thấp, oxy quá thấp làm tôm giảm ăn. Các yếu tố khác thay
đổi bất ngờ thường gây sốc cho tôm, làm tôm giảm ăn (Tăng Minh Khoa, 2010).
2.3.10. Đặc điểm sinh trưởng
Theo Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương (2009), tôm sú cũng giống như các
loài giáp xác khác, chúng lớn lên nhờ lột xác. Tiến trình lột xác của tôm trãi qua một
số giai đoạn chính là tiền lột xác, lột xác, hậu lột xác, giữa chu kỳ lột xác, với những
diễn biến bao gồm sự kết dính giữa biểu mô và vỏ tôm bị lỏng lẻo ra, cơ thể nhanh
chóng rút ra khỏi vỏ cũ, cơ thể hấp thụ nước để nở rộng vỏ và lớn nhanh, cơ thể cứng
cáp lại nhờ chất khoáng và chất đạm. Do có hiện tượng lột xác nên quá trình tăng
trưởng của tôm không liên tục mà có tính gián đoạn.
Quá trình lột xác của tôm được điều khiển nhờ hormone lột xác được tiết ra từ cơ
quan Y và hormone ức chế lột xác được tiết ra từ cơ quan X. Chu kỳ lột xác là thời
gian giữa hai lần lột xác liên tiếp nhau, chu kỳ này mang tính đặc trưng riêng biệt cho
loài và giai đoạn sinh trưởng của tôm. Chu kỳ lột xác sẽ ngắn ở giai đoạn tôm con và


18


kéo dài khi tôm càng lớn. Ngoài ra, quá trình lột xác và tốc độ tăng trưởng của tôm
còn bị ảnh hưởng rất lớn bởi rất nhiều yếu tố như loài, dinh dưỡng, môi trường nước.
Giai đoạn ấu trùng tôm lột xác mổi ngày, tôm càng lớn chu kỳ lột xác càng dài
2.4. Một số nghiên cứu về tôm sú

Browday và csv (1998) đã nhận định những thành tựu đạt được trong việc sản xuất
tôm bố mẹ trong điều kiện nhân tạo là các cải tiến về di truyền và chất lượng tôm bố
mẹ sẽ là cơ hội lớn về kinh tế và tính phát triển bền vững lâu dài của nghề nuôi tôm.
Santiago (1997) cho rằng số lượng trứng, tỉ lệ nở, tỉ lệ sống của ấu trùng từ tôm sú bố
mẹ nhân tạo không khác gì với tôm được đánh bắt từ tự nhiên. Thức ăn tôm bố mẹ
phù hợp, sức khỏe tôm tốt và điều kiện nuôi được quản lý thích hợp thì chất lượng
tôm bố mẹ nhân tạo vẫn tương đương với tôm bố mẹ đánh bắt từ tự nhiên (Browday,
1998). Menasveta và csv (2001) đã thử nghiệm nuôi vỗ thành thục tôm sú trong các hệ
thống nước biển lọc sinh học tuần hoàn cho kết quả tốt
.
Tại Mỹ các nghiên cứu về gia hóa tôm sú bố mẹ đã được AQUACOP tiến hành từ
năm 1975 và đã được nuôi giữ đến 8 thế hệ liên tiếp trong điều kiện nhân tạo.
Ở khu vực Đông Nam Á, thì Philippines đã tiến hành nuôi vỗ tôm sú bố mẹ cải thiện
sức sinh sản tôm sú bố mẹ nhân tạo từ 166.000 trứng/lần đẻ lên 250.000 trứng/lần đẻ
(Hoàng Tùng, 2003).
Tại Thái Lan thì Withyachumnarnkul (2002) đã tiến hành nghiên cứu về gia hóa sản
xuất tôm bố mẹ chất lượng cao từ năm 1996.
Theo Preston (2002) sản xuất tôm sú giống nhân tạo sạch bệnh (nuôi từ tôm bột lên
tôm bố mẹ) được thực hiện hoàn toàn trong các hệ thống tuần hoàn. Chính chất lượng
nước trong hệ thống tuần hoàn ổn định và tốt hơn trong ao, cách ly được các nguồn
nhiễm bệnh nên cho kết quả nuôi tôm tốt và chất lượng cao. Tôm nuôi trong hệ thống
Bảng 2.2: Chu kỳ lột xác của tôm sú (Penaeus monodon):
Cỡ tôm (g) Chu kỳ lột xác (ngày)
Postlarvae
2-3
3-5
5-10
10-15
15-20
20-40

Tôm cái (tôm đực) 50-70
Hàng ngày
8-9
9-10
10-11
11-12
12-13
14-15
18-21 (23-30)


19


tuần hoàn có thể đạt tỉ lệ sống từ giai đoạn giống đến giai đoạn trưởng thành (1 năm
tuổi) là 60% và từ trưởng thành đến thành thục là 80%.
Hiện nay, ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về nuôi vỗ thành thục tôm sú bố mẹ để
đáp ứng nhu cầu sản xuất giống trên cơ sở dùng tôm đầm hay tôm ngoài tự nhiên. Lê
Xân (2000) đã nghiên cứu và nuôi vỗ thành thục tôm sú bố mẹ từ tôm sú giống bằng
cách nuôi nhiều giai đoạn đã kết luận rằng tôm nuôi trong ao trưởng thành sau 16 -18
tháng nuôi, khi chuyển sang nuôi vỗ thành thục trong bể cho tỉ lệ 77,7% thành thục
và tỉ lệ con cái được thụ tinh 61.8%. Nguyễn Cơ Thạch và Phan Đình Phúc (2000),
nghiên cứu tôm sú bố mẹ trong lồng ở biển, sau đó lựa chọn tôm tốt nuôi thành thục
trong lồng và trong bể xi măng với thức ăn giàu chất dinh dưỡng. Kết quả cho thấy
tôm nuôi trong bể xi măng có tỉ lệ thành thục cao hơn trong nuôi lồng trên biển và tôm
có nguồn gốc từ ao đầm tỉ lệ thành thục thấp hơn tôm biển. Nguyễn Thanh Phương và
csv (2005), đã nghiên cứu gia hóa và tạo tôm sú bố mẹ chất lượng cao cho kết quả tôm
bố mẹ trọng lượng trên 100g nuôi trong bể lọc tuần hoàn có thể tham gia sinh sản và
tôm gia hóa F1 cho sức sinh sản tương đương với tôm đầm nhưng vẫn ít hơn tôm
biển.

Thạch Thanh và csv (1999), nghiên cứu thành công qui trình nước tuần hoàn trong
ương nuôi tôm sú được công bố. Qui trình tuần hoàn hiện đang được áp dụng ở những
nơi xa biển, mà nhiều nhất là ở thành phố Cần Thơ đã mở ra một mô hình mới trong
sản xuất giống tôm sú.
Nguyễn Thanh Phương (2005), khi nuôi vỗ tôm sú bố mẹ để gia hóa và tạo tôm bố mẹ
có chất lượng cao cho tôm bố mẹ ăn kết hợp gồm mực, gan heo, sò huyết, cho kết quả
sinh trưởng, tỉ lệ sống và sinh sản tốt hơn tôm chỉ ăn gan heo và mực. Nhưng ông cho
rằng thức ăn kết hợp gan heo, mực, sò huyết chưa phải là thức ăn tốt nhất mà cần phải
nghiên cứu thêm.
Hầu hết các trại giống đều phải phụ thuộc vào nguồn tôm sú bố mẹ khai thác từ tự
nhiên. Tuy nhiên, tôm bố mẹ dùng cho sinh sản nhân tạo có thể từ hai nguồn: tôm tự
nhiên bắt từ biển và tôm nuôi trong các ao, đầm. Tùy theo nguồn tôm khác nhau mà
có thể có những ưu khuyết điểm khác nhau và tùy từng nơi mà dùng phổ biến tôm
biển hay tôm đầm. Nhìn chung, tôm biển có kích cỡ 155-280g, tôm đầm 120-180g có
thể được chọn làm tôm bố mẹ để nuôi vỗ. Tôm bố mẹ sau khi chuyển về đến trại phải
được chọn kỹ và có thời gian thích nghi. Những con tôm chưa thành thục hay chớm
thành thục, khỏe mạnh, vỏ sạch sẽ và cứng, không thương tích, mang bình thường
(không có màu đỏ, vàng hay đen) được chọn để nuôi vỗ. Sau đó, tiến hành xử lý tôm
bố mẹ bằng formaline 200 mg/l trong 30 phút hoặc sử lý bằng ozone trong 5 phút
trước khi cho vào bể nuôi vỗ bằng composite hoặc bể xi măng với mật độ tôm bố mẹ
4 con/m
2

(1 đực:4 cái) (Châu Tài Tảo, 2005).


20


Theo Nguyễn Xuân Thu và csv (2004), thì chất lượng thành thục của tôm sú cắt mắt

phụ thuộc rất lớn vào loại thức ăn sử dụng khi nuôi vỗ thành thục. Phạm Văn Tình
(2003), phải chọn đúng loại thức ăn tôm mẹ mới thành thục được do trong quá trình
thành thục, chất dinh dưỡng từ gan tụy dược huy động cho sự thành thục của buồng
trứng thông qua quá trình tổng hợp noãn hoàng. Harrision (1997) các mô dự trữ ở gan
tụy nhanh chóng cạn kiệt. Vì vậy, thức ăn thành thục là nguồn dinh dưỡng quan trọng
cho quá trình phát triển của buồng trứng tôm mẹ.
Wouters và csv (2001), các chất dinh dưỡng thiết yếu cho quá trình thành thục của
buồng trứng là các nhóm acid béo thuộc nhóm chất béo lipid, cholesterol, carotennoid,
triglycerid và vitamin (E, C, A). Cụ thể như sau :
Chất béo (lipid): lipid được huy động từ gan tụy và lipid của thức ăn sẽ nhanh chóng
được chuyển hóa và vận chuyển đến buồng trứng đang phát triển. Đặc biệt là nhóm
acid béo thuộc nhóm HUFA và phospholipid. Nhóm acid béo không no cao phân tử (
HUFA) rất quan trọng trong quá trình thành thục gồm EPA 20:5n-3, DHA: 22:6n- 3
và ARA: 20:4n-6 thức ăn tươi sống hay tổng hợp nếu thiếu acid nhóm n-3 sẽ cho chất
lượng thành thục, sức sinh sản, chất lượng trứng rất kém (Wouters và csv, 1999).
ARA là acid thuộc nhóm n-6 là dẫn xuất của hormone prostanlandin quan trọng cho
quá trình thành thục và đẻ trứng. Theo Harrision (1997) thì ARA được phân tích với
hàm lượng cao một số thức ăn nuôi thành thục như trùn biển, vẹm, nghêu, thậm chí
gan heo, gan bò.
Theo Wouters và csv (2001), cho rằng lipid quá cao trong thức ăn sẽ ảnh hưởng xấu
đến buồn trứng đang phát triển. Hàm lượng lipid bình quân cho tôm bố mẹ thường
khoảng 10% là hợp lý.
Phospholipid: có mặt hàm lượng cao trong trứng tôm. Cahu và csv (1994) với nhiều
nghiên cứu đã khẳng định thức ăn nuôi tôm bố mẹ nên có khoảng 2% phospholipid.
Cholesterol: được dự trữ ở gan tụy và chuyển hóa vào buồng trứng trong quá trình
thành thục. Cholesterol có hàm lượng cao trong mực và nghêu (Harrision, 1990).
Triglycerid: là nguồn năng lượng cơ bản cho trứng và ấu trùng cũng như quá trình
thành thục. Trong quá trình thành thục hàm lượng của nó tăng lên do chúng được vận
chuyển vào trứng, hàm lượng của nó giảm khi tôm đẻ (Ravid và csv, 1999).
Nhu cầu đạm và acid amin: quá trình thành thục là thời kỳ cơ thể tôm bố mẹ cần

một lượng protein cao hơn so với bình thường. Theo Aquacop (1979) thì tôm sú bố
mẹ cần hàm lượng đạm 50- 55% khi nuôi vỗ thành thục. Castille và Laurence (1989),
đã nghiên cứu và cho biết hàm lượng protein trong buồng trứng tăng cao trong quá
trình phát triển của buồng trứng và giảm nhanh sau khi tôm đẻ. Tôm mẹ sẽ đẻ lặp lại
nhiều lần khi có hàm lượng protein cao và có ý nghĩa (Palacios và csv, 2000). Thành


21


phần acid amin trong thức ăn tôm mẹ đề nghị nên giống với thành phần acid amin
trong thức ăn tươi thành thục (Deshimura, 1982).
Vitamin và khoáng chất: vitamin E có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng tinh và tỉ lệ nở của trứng. Harrision (1997), vitamin A được tích lũy cao trong
buồng trứng tôm thành thục, hàm lượng vitamin C trong buồng trứng chịu ảnh hưởng
từ hàm lượng vitamin C trong thức ăn.Ngoài ra, vitamin C cũng đóng vai trò nâng cao
tỉ lệ nở của trứng. Vitamin C, E là nhóm chống oxy hóa giúp bảo vệ tốt các acid béo
cần thiết cho quá trình thành thục. Vitamin D có vai trò quan trọng trong thành thục
giúp trao đổi canxi và phospho ở giáp xác (Nguyễn Duy Hòa và Nguyễn Văn Hảo,
2009).
Các chất khoáng: Theo Harrision (1990), sự thiếu hụt hoặc mất cân đối các chất
khoáng ảnh hưởng rất lớn đến sự thành thục và làm thoái hóa noãn bào, giảm chất
lượng trứng.
Trong thức ăn thành thục của tôm các chất khoáng như canxi, magie,
phospho, sodium, sắt, selenium, luôn được đưa vào. Đặc biệt là phosphorus (Mendoza
và csv, 1997).
Carotenoids: đặt biệt là astaxanthin là chất chống oxy hóa đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ các nguồn dự trữ dinh dưỡng cần thiết cho quá trình phát triển phôi.
Giáp xác không thể tổng hợp carotenoids vì vậy cần bổ sung từ thức ăn. Tỉ lệ bổ sung
khoảng 2% khẩu phần thức ăn cho tôm bố mẹ cải thiện ý nghĩa chất lượng ấu trùng

(nâng cao tỉ lệ sống của ấu trùng) bổ sung 50mg astaxanthin trong 1kg thức ăn của
tôm sú bố mẹ cho sản lượng trứng cao hơn và tỉ lệ biến thái ấu trùng tốt hơn (Dall,
1995).


22


CHƯƠNG 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 30 tháng 4 năm 2011
Địa điểm: trại sản xuất giống ĐĂNG KHOA. 179
c
/5 – Khu vục 1 – An Bình – Ninh
Kiều –TP. Cần thơ.
3.2. Vật liệu và trang thiết bị
Bể xử lý nước, bể nuôi tôm bố mẹ (216 lít), bể cho tôm đẻ (0,5m
3
), bể lọc tuần hoàn 3
ngăn giá thể (đá 1x2).
Máy bơm nước, máy thổi khí, máy ozone (4g/h).
Kính hiển vi, khúc xạ kế, các bộ test (pH, NO
2
, ), ống cấp nước, ống PVC, thao
nhựa, vợt, túi lọc, cốc thủy tinh, cân điện tử
Hóa chất sử dụng: EDTA, fomol, chlorine,
Nguồn nước
Nước ót được lấy từ Vỹnh Châu có độ mặn 90 -120‰ pha với nước ngọt sinh hoạt
(nước máy) thành nước 30‰, xử lý chlorine 40ppm sục khí mạnh liên tục trong 48h
cho chlorine bay hơi. Sau đó kiểm tra lại bằng test chlorine nếu còn chlorine thì trung

hòa bằng Na
2
SO
3

với tỉ lệ 1:3. kiểm tra lại pH, nếu thấp thì dùng NaHCO
3
(20ppm) thì
pH sẽ tăng thêm 0,5. Dùng EDTA 5-10ppm để trung hòa kim loại nặng, sục khí đều
sau đó bơm nước qua túi lọc gòn 5µm trước khi sử dụng.
Nguồn tôm bố mẹ
Tôm mẹ khai thác từ biển được thu mua từ Rạch Gốc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.
Vận chuyển trong thùng xốp 30cm x 40cm x 60cm mức nước 15cm với mật độ 4 – 6
con/thùng. Chọn tôm có kích cở 180g – 250g khỏe mạnh, vỏ sạch, màu sáng,
thelycum có túi tinh màu trắng, nếu tôm mang trứng từ biển càng tốt. Xử lý ozone 5
phút trước khi đưa vào bể nuôi vỗ.
Thức ăn
Thức ăn tươi sống: ốc mượn hồn mua từ Hà Tiên – Kiên Giang.







23


Thức ăn tự chế:
Bảng 3.1: Thành phần của thức ăn tự chế

Thành phần Hàm lượng
Mực 200g
Thịt tép 200g
Sò huyết
Gan bò
100g
100g
DHA 2%
Thức ăn được xay nhuyễn sau đó thêm vào 5% Alginate, tạo viên và cho vào dung
dịch 4% CaCl
2
, bảo quản trong tủ đông sử dụng dần.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Hệ thống nuôi vỗ là hệ thống lọc sinh học tuần hoàn. Trước khi lắp đặt hệ thống phải
vệ sinh sạch sẽ các dụng cụ. Sau khi lắp đặt xong tiến hành bơm nước mặn 30‰ đã
xử lý vào bể nuôi vỗ 216 lít.
Nuôi vỗ 12 con tôm mẹ được mua từ Rạch Gốc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau kích
cở từ 180 – 250g, màu sắc sáng, đầy đủ phụ bộ, khỏe mạnh. Bố trí ngẫu nhiên 2
nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lặp lại 6 lần (1 con/bể).
Nghiệm thức 1: chọn 6 con tôm mẹ cho ăn ốc mượn hồn.
Nghiệm thức 2: chọn 6 con tôm mẹ cho ăn ốc mượn hồn 50% + thức ăn tự chế 50%.
Lượng thức ăn cho ăn bằng 30% trọng lượng tôm mẹ và chia đều cho 4 lần/ngày.
Trước mỗi lần cho ăn siphone thức ăn thừa và theo dõi sức khỏe của tôm. Định kỳ 2
ngày xử lý ozone 5 phút để diệt một số bệnh ký sinh như zoothanium,
3.3.2. Cắt mắt nuôi thành thục và cho đẻ
Sau khi bố trí tôm vào bể nuôi vỗ 1 – 2 ngày thấy tôm khỏe mạnh ăn tốt, tiến hành cắt
mắt tôm mẹ. Phương pháp cắt mắt là dùng kéo cắt mắt tôm. Sau khi cắt mắt cho tôm
vào bể nuôi vỗ. Mỗi bể 1 con và cho tôm ăn bình thường và thường xuyên kiểm tra độ
thành thục của buồng trứng tôm. Khi thấy trứng tôm ở giai đoạn IV thì chuẩn bị đưa

tôm sang bể đẻ. Cho tôm vào bể đẻ lúc 18h, bể đẻ có thể tích 600 lít chứa 500l nước
có độ mặn 30‰ có sục khí nhẹ đều có thể đậy kín bằng bạt. Khi tôm đẻ xong vớt tôm
mẹ ra cho vào bể nuôi vỗ và tiếp tục nuôi vỗ tái phát dục cho lần đẻ kế tiếp.
3.3.3. Chế độ chăm sóc
Theo dõi sự bắt mồi của tôm mẹ.


24


Ngày cho ăn 4 lần vào lúc 6h, 12h, 18h, 0h cho ăn 30% trọng lượng thân tôm mẹ. Đối
với nghiệm thức 2: 6h và 18h cho ăn ốc mượn hồn, từ 12h và 0h cho ăn thức ăn tự
chế. Sau 3h kể từ khi cho ăn kiểm tra thức ăn trong bể tôm, siphone thức ăn thừa. Nếu
thiếu thì tăng lượng thức ăn cho lần cho ăn kế tiếp tăng theo tỉ lệ 50% ốc +50% chế
biến. Cần theo dõi nhiệt độ hằng ngày. Chỉ tiêu pH, kH, NO
3
-
, NH
4
+
/NH
3
-
theo dõi 4
ngày/lần.
3.3.4. Phương pháp thu và xử lý số liệu
Phương pháp thu thập số liệu
• Phương pháp định lượng trứng tôm
Vì bể đẻ có thể tích 500 lít nên chỉ có thể định lượng trứng của tôm mẹ bằng cách sục
khí mạnh cho trứng tôm phân bố đều trong bể đẻ, dùng pipet 5ml lấy 5 điểm trong bể

được 5 mẫu và tính theo công thức:
(n
1
+
n
2
+
n
3
+
n
4
+
n
5
)
Số trứng = x 5x10
5
(3.1)
25
Trong đó:
n
1
, n
2
, n
3
, n
4
, n

5
là số trứng trong 5 mẫu.
• Phương pháp định lượng nauplii
Tắt sục khí bể ương nauplii, dùng đèn điện chiếu vào một điểm của bể, nauplii sẽ tập
trung lại ngay điểm chiếu đèn (ví tôm sú có tính hướng quang) dùng vợt thu nauplii
cho vào xô 50l chứa nước mặn 30‰ đã chuẩn bị sẳn. Dùng pipet 1ml lấy 5 lần được 5
mẫu. Đếm số nauplii trong 5 mẫu và tính theo công thức:
(n
1
+
n
2
+
n
3
+
n
4
+
n
5
)
Số nauplii = x 50
.000 (3.2)
5
Trong đó:
n
1
, n
2

, n
3
, n
4
, n
5
là số nauplii trong 5 mẫu.
Các chỉ tiêu theo dõi
Số lần đẻ/ chu kỳ lột xác của cả 2 nghiệm thức
Số tôm đẻ

Tỉ lệ đẻ = (%)
(3.3)
Số tôm cắt mắt






25


Tổng số lượng trứng

Sức sinh sản trung bình =
(trứng/lần đẻ) (3.4)
Lần đẻ

Số lượng nauplius x 100

Tỉ lệ nở =

(%) (3.5)
Số lượng trứng x tỉ lệ trứng thụ tinh
Tổng số trứng
Sức sinh sản tương đối =
(trứng/g) (3.6)
Khối lượng tôm

Xử lý số liệu được thu thập tính toán các giá trị trung bình sử dụng phần mềm Excell
và Statistica 5.0.





















×