Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Nghiên cứu kỹ điểm du lịch với hệ thống các tuyến, điểm du lịch phục vụ hoạt động tham quan của du khách. Xác định các đối tượng chính tại điểm tham quan khu đại nội Huế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.65 MB, 59 trang )

Nghiên cứu kỹ điểm du lịch với hệ thống các tuyến, điểm du lịch phục
vụ hoạt động tham quan của du khách. Xác định các đối tượng chính
tại điểm tham quan khu đại nội Huế.
Bài làm
I. Giới thiệu chung
Đại Nội Huế là tên gọi chung của Hồng Thành - vịng thành thứ hai bên trong
Kinh thành Huế và Tử Cấm Thành - vòng thành thứ ba và cũng là vòng thành trong
cùng, là nơi ăn ở và sinh hoạt của vua và hồng gia. Tọa lạc ở bờ Bắc sơng Hương,
Đại Nội Huế không chỉ là cơ quan đầu não của Việt Nam trong thời phong kiến
nhà Nguyễn mà ngày nay, khu vực này còn là một điểm tham quan nổi tiếng của
xứ Huế.
*Lịch sử Đại Nội Huế:
Với vị trí thuận lợi nằm hai bên bờ hạ lưu sông Hương và tựa lưng vào dãy
Trường Sơn nên từ rất sớm, Huế đã được chọn làm thủ phủ dưới các đời chúa
Nguyễn.





Năm 1802, sau khi lên ngơi, vua Gia Long chọn Huế làm nơi đóng đơ.
Để xây dựng quần thể kinh thành làm nơi hội họp triều đình và sinh hoạt
hồng gia, năm 1803, vua Gia Long đích thân tiến hành khảo sát chọn ví trí
xây thành mới. Là người có hiểu biết rộng nên vua Gia Long đã rất cân nhắc
trong việc chọn vị trí xây dựng kinh thành để làm bền long mạch. Và vùng
đất rộng bên bờ Bắc sơng hương, gồm các làng Phú Xn, Vạn Xn, An
Hịa, An Mỹ, An Vân, Diễn Phái, An Bảo, Thế Lại cùng một phần của sông
Bạch Mã và Kim Long được chọn.
Năm 1804, kinh thành (kinh thành là khu vực rộng lớn gồm nhà dân, nhà
quan lại và phần quan trọng nhất là Đại Nội) bắt đầu được xây dựng với mặt
chính hướng về núi Ngự bình cao hơn 100m, hai bên là cồn Hến và cồn Dã


Viên tạo thế tả thanh long và hữu bạch hổ, minh đường thủy tụ là khúc sông
Hương rộng.

Do quy mô khá rộng lớn, khoảng 520ha nên đến năm 1833, dưới triều vua Minh
Mạng, kinh thành Huế mới hoàn thành.
* Kiến trúc Đại Nội Huế


Đại Nội Huế bao gồm hai phần là Hoàng Thành và Tử Cấm Thành. Hồng Thành
gồm khoảng 147 cơng trình được xây dựng trên một khu đất gần như vuông với
mỗi cạnh dài khoảng 600m. Xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào
bảo vệ vệ, có 4 cửa được bố trí ở 4 mặt, trong đó Cửa chính của Hồng Thành là
Ngọ Mơn quay mặt về hướng Nam, ba cửa cịn lại là Hiển Nhơn (phía Đơng),
Chương Đức (phía Tây) và Hịa Bình (phía Bắc).

Hầu hết các cơng trình bên trong Hồng Thành đều được xây dựng trên trục đối
xứng theo nguyên tắc (tính từ trong ra) tả nam hữu nữ và tả văn hữu võ, riêng trục
chính giữa là các cung điện dành cho vua. Điểm ấn tượng của các cơng trình này là
được xây dựng hài hòa với thiên nhiên. Phần lớn các cung điện đều có hồ nước,
vườn hoa, cầu đá, các hịn đảo và những loại cây lâu năm để giữ sinh khí.
Tử Cấm Thành nằm trong lịng Hồng Thành, ngun gọi là Cung Thành, được
khởi công xây dựng từ năm Gia Long thứ 2 (1803), năm Minh Mạng thứ 2 (1821)
đổi tên thành Tử Cấm Thành. Tử Cấm Thành có chu vi 324m×290, 68m và cũng


được xây dựng đối xứng qua trục chính, kéo dài từ Ngọ Môn đến lầu Tứ Phương
Vô Sự. Tử Cấm Thành có 7 cửa và hàng chục cơng trình kiến trúc lớn nhỏ. Trong
đó, đáng chú y nhất là điện Cần Chánh, nơi vua làm việc và thiết triều. Ngoài ra,
cịn có nơi sinh hoạt của vua, hồng tộc, các cơng trình phục vụ ăn uống, chăm sóc
sức khỏe, giải trí Là một cơng trình có quy mơ đồ sộ nhất trong lịch sử Việt Nam,

Di tích Đại Nội Huế có q trình xây dựng kéo dài tới 30 năm với hàng vạn người
thi công cùng hàng loạt các công việc như lấp sông, đào hào, đắp thành, dời mộ…
cùng khối lượng đất đá khổng lồ lên đến hàng triệu mét khối.
II. Các tuyến điểm du lịch tại Đại nội Huế
1. Tuyến lăng Minh Mạng - lăng Khải Định - lăng Tự Đức - Đại Nội (Hoàng
Thành Huế) – Chùa Thiên Mụ.

Sơ đồ tuyến
+Lăng Minh Mạng:
Lăng Minh Mạng hay còn gọi là Hiếu Lăng, là nơi an nghỉ của vị vua thứ 2 dưới
triều Nguyễn – vua Minh MạngLăng Minh Mạng mang dáng vẻ đường bệ, uy
nghiêm nhưng vẫn hài hịa giữa các cơng trình kiến trúc và thiên nhiên. Sau khi lên
ngôi được 7 năm, vua Minh Mạng đã lên kế hoạch xây dựng lăng tẩm cho mình.
Địa điểm vua Minh Mạng chọn xây lăng là ở địa phận núi Cẩm Khê, gần ngã ba


Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai con sông Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành
dịng sơng Hương thơ mộng.

Lăng Minh Mạng được khởi công xây dựng vào năm 1840 và hồn thành 3 năm
sau đó. Cơng trình này huy động tới 13.000 thợ và lính để xây dựng. Năm 1841,
vua Minh Mạng qua đời, vua Thiệu Trị lên ngơi và tiếp tục hồn thành cơng trình
của vua cha. Về tổng thể, lăng Minh Mạng gồm khoảng 40 công trình lớn, nhỏ


được xây dựng kiên cố, tỉ mỉ và bắt mắt. Tất cả các cơng trình được bố trí cân đối
trên một trục dọc, kéo dài từ Đại Hồng Môn đến chân tường La Thành sau mộ vua.
+Lăng Khải Định:
Vua Khải Định lên ngôi năm 1916, là vị vua thứ 12 của truyền Nguyễn. Ông đã
cho xây dựng nhiều cung điện, dinh thự, lăng tẩm cho bản thân và hoàng tộc, đặc

biệt là Ứng Lăng. Lăng Khải Định ở Huế được xây dựng trên triền núi Châu Chữ,
nằm bên ngoài Kinh thành, cách khoảng 11km về phía nam. Lăng Khải Định (Ứng
Lăng) đã trở thành biểu tượng, đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình sành sứ và thủy
tinh.


Lăng được khởi công ngày 4 tháng 9 năm 1920, và kéo dài suốt 11 năm rịng rã
mới hồn tất. Có thể, so về diện tích, lăng Khải Định có quy mô bé hơn với những
lăng khác ở Huế rất nhiều nhưng lại cực kỳ công phu. Lăng lấy một quả đồi chữ
thập phía trước làm tiên án, lấy núi Chóp Vung và Kim Sơn châu trước mặt để làm
Tả thanh long và Hữu bạch hổ. Từ trái qua phải cịn có khe Châu E chảy qua làm
“thủy tụ”. Núi Châu Chữ được vua đổi tên thành Ứng Sơn. Vì lẽ đó mà lăng Khải
Định cịn có một tên gọi khác là Ứng Lăng, dựa theo tên của núi.
Ứng Lăng kết hợp và dung hòa những trường phái kiến trúc khác nhau như Phật
giáo, Ấn Độ giáo, Roman, Gothique… biểu hiện trên những trụ cổng hình tháp
mang phong cách Ấn Độ, trụ biểu dạng stuopa Phật Giáo, hàng rào như cây thánh
giá, nhà bia với những cột bát giác và vòm cửa biến thể theo phong cách Roman.

+ Lăng Tự Đức:


Đây là một trong những cơng trình đẹp nhất của kiến trúc thời Nguyễn. Ông vua
thi sĩ Tự Đức (1848-1883) đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngơi
vị của mình, phù hợp với sở thích và nguyện vọng của con người có học vấn uyên
thâm và lãng tử bậc nhất trong hàng vua chúa nhà Nguyễn.
Lăng tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư
Chánh (nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế). Khi mới khởi công
xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt cho cơng trình. Nhưng sau khởi
nghĩa Chày Vơi do anh em Đoàn Hữu Trưng khởi xướng, vua cho đổi tên thành
Khiêm Cung, sau khi vua mất gọi là Khiêm Lăng.

Bố cục khu lăng gồm 2 phần chính, bố trí trên 2 trục dọc song song với nhau, cùng
lấy núi Giáng Khiêm ở phía trước làm tiền án, núi Dương Xuân làm hậu chẩm, hồ
Lưu Khiêm làm yếu tố minh đường.


+Các điểm Hồng thành Huế:
Tham quan nhiều cơng trình kiến trúc đặc sắc như: Ngọ Mơn, Điện Thái Hồ,
Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, Triệu Tổ Miếu,
Thái Tổ Miếu, Hiển Lâm Các, Cửu Đỉnh, Cửu Vị Thần Cơng.
+ Chùa Thiên Mụ:
Chùa Thiên Mụ (cịn gọi là chùa Linh Mụ) nằm ở đồi Hà Khê, trên bờ bắc sông
Hương, phường Kim Long và cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía
tây. Được xây dựng vào năm 1601 bởi chúa Tiên Nguyễn Hoàng - vị chúa Nguyễn
đầu tiên ở Đàng Trong, chùa Thiên Mụ có thể được coi là ngơi chùa cổ nhất ở Huế.
Năm 1862, vì mong có con nối dõi, vua Tự Đức - vị vua thứ 4 của triều Nguyễn đã
đổi tên chùa thành Linh Mụ, có nghĩa là Bà mụ linh thiêng vì sợ tên Thiên Mụ
phạm đến Trời (Thiên có nghĩa là Trời). Tuy nhiên, sau năm 1869, người dân được
sử dụng cả hai tên Thiên Mụ và Linh Mụ để gọi ngôi chùa.


Dưới các đời chúa Nguyễn, chùa Thiên Mụ Huế đã trải qua nhiều lần tu sửa lớn.
Với sự đầu tư lớn, Thiên Mụ trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng trong thời đó
và là một trong những địa điểm du lịch Huế vô cùng nổi tiếng. Đến đây, du khách
sẽ tham quan chùa Thiên Mụ Huế với Tháp Phước Duyên, Điện Đại Hùng, Điện
Địa Tạng, Điện Quan Âm... cùng bia đá, chng đồng và phía sau cùng là vườn
thơng tĩnh mịch. Đứng trên tịa tháp du khách có thể nhìn dịng sơng Hương phẳng
lặng và ngắm những du thuyền nhẹ trơi trên sơng. Chùa cịn có bức tượng của một
con rùa bằng đá cẩm thạch lớn, biểu tượng của sự trường thọ.
Không chỉ nổi tiếng bởi kiến trúc cổ kính, uy nghiêm, chùa Thiên Mụ cịn gắn liền
với những câu chuyện tâm linh huyền bí.

2. Tuyến lăng Minh Mạng - lăng Khải Định – Trung tâm Văn hóa Huyền Trân
– Đại Nội (Tử Cấm Thành Huế) – Lăng Tự Đức
Cùng với tham quan các điểm lăng Minh Mạng, lăng Khải Định, lăng Tự Đức; du
khách sẽ tham quan các điểm trong Tử Cấm Thành Huế ( thuộc Đại Nội Huế): Tả
vu, Hữu vu, Duyệt Thị Đường, Thái Bình Lâu.


Sơ đồ tuyến
- Trung tâm văn hóa Huyền Trân: Nằm cách thành phố Huế khoảng 7km về phía
tây, Trung tâm Văn hóa Huyền Trân tọa lạc trên diện tích rộng hơn 28ha. Nơi đây
không chỉ là điểm du lịch văn hố, tâm linh, mà cịn là điểm du lịch lịch sử, đưa du
khách trở về sự kiện lịch sử trọng đại trong việc bảo vệ và mở mang bờ cõi của đất
nước vào thời nhà Trần, thế kỷ 14.


3. Tuyến chùa Thiên Mụ - Đại Nội – Chợ Đông Ba – biển Thuận An – nhà
vườn An Hiên.

Sơ đồ tuyến
+ Tham quan chùa thiên Mụ
+ Tham quan Đại Nội các điểm: Ngọ Mơn, Điện Thái Hịa, Tử Cấm Thành, Hồ
Tĩnh Tâm, Thế Miếu, Hiển Lâm Các, Cửu Đỉnh.
+ Chợ Đông Ba:


Chợ Đông Ba là trung tâm thương mại lớn nhất của tỉnh Thừa Thiên – Huế và
các vùng lân cận, nằm dọc theo bờ bắc sông Hương, trên đường Trần Hưng Đạo
của thành phố Huế và kéo dài từ cầu Tràng Tiền đến cầu Gia Hội. Trong có có tất
cả các món quà mang văn hóa, quà lưu niệm của Huế như nón lá bài thơ từ làng
Phù Cẩm, được làm bằng lá, bánh kẹo, trà Tuấn, tôm chua (tôm sú Huế), hạt sen

lấy từ hồ Tịnh Tâm, các món ăn truyền thống như cơm, vại bò, bánh lá…
Người ta nói rằng chợ Đơng Ba là nơi bạn có thể tìm được hầu hết các món ăn Huế
ngon miệng, khu ẩm thực sôi động và chất lượng cao. Đừng bỏ qua những món ăn
đường phố.
Ngày nay, chợ Đơng Ba vẫn giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế và thương
mại của thành phố, mặc dù nhiều siêu thị hiện đại mở ra nhiều. Ngoài việc cung
cấp thực phẩm và hàng hố khác cho các thành phố, đó cũng là một điểm dừng
chân của du khách để khám phá các phương thức kinh doanh điển hình cũng như
mua một số món đặc sản của người dân địa phương.
+ Tắm biển Thuận An:
Bãi biển Thuận An thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, biển nằm ngay bên cạnh cửa biển Thuận An. Đây chính là nơi sông Hương


xi dịng hướng phá Tam Giang rồi đổ ra biển Đơng, hịa cùng đại dương mênh
mang. Do vậy mà bãi biển Thuận An mang một vẻ đẹp riêng giữa ánh sắc của dịng
sơng hiền hịa và biển cả rộng lớn. Chẳng thế mà nhà vua Thiệu Trị đã xếp bãi biển
Thuận An là danh thắng thứ 10 trong Thần kinh nhị thập cảnh.

Bãi biển Thuận An có chiều dài khoảng 12km, nổi tiếng với những con sóng hiền
hịa và khơng khí trong lành. Bờ cát mịn màng trắng tinh hồn tồn khơng có vỏ
sị, ốc như người ta vẫn hay thấy ở các bãi biển miền Trung khác.
+ Nhà vườn An Hiên:
Tọa lạc tại vị trí đắc địa (58 đường Nguyễn Phúc Ngun, thơn Xn Hịa, xã
Hương Long, thành phố Huế) nằm quay mặt về phía dịng sơng Hương thơ mộng,
nhà vườn An Hiên được xem là khu nhà vườn đẹp nhất đến nay ở cố đô Huế.


Là một trong những nhà vườn nổi tiếng nhất ở Huế, An Hiên được xây dựng vào
cuối thế kỷ thứ 19. Ban đầu, ngôi nhà thuộc về công chúa thứ 18 của vua Dục Ðức.
Mặc dù đã trải qua hơn một thế kỷ tồn tại, nhưng không gian kiến trúc của ngơi

nhà vẫn giữ được đặc tính cổ xưa của nó cho đến nay. Khn viên nhà vườn An
Hiên hiện nay có hình gần như vng và có diện tích 4.608 m2, mặt nhìn về hướng
Nam, phía trước có sơng Hương chảy ngang, bao gồm nhiều kiến trúc dân dụng
lớn nhỏ, được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của Việt Nam và của xứ
Huế. Khám phá nhà vườn An Hiên chắc chắn sẽ là một trong những điều khó quên
nhất khi trở về với xứ Huế mộng mơ.


III. Các đối tượng tham quan chính tại điểm tham quan khu Đại
Nội Huế
1. Ngọ Môn
Ngọ Môn là một công trình kiến trúc bề thế dài 58m, rộng 27,5m và cao 17m
gồm 3 tầng, là một trong 4 cổng dẫn vào Hồng Thành. Ngọ Mơn nằm ở phía nam
so với vị trí trung tâm là ngai vàng ở điện Thái Hịa trong Hồng Thành. Về quy
mơ, Ngọ Mơn cũng là cổng thành lớn nhất trong 4 cổng Hoàng Thành. Căn cứ trên
la kinh (la bàn) của địa lý phong thủy Đơng phương, thì phía nam thuộc hướng
“ngọ” trên trục “tý - ngọ” (Bắc - Nam). Cái tên Ngọ Môn xuất phát từ đó, mang ý
nghĩa về khơng gian, phương hướng; chứ không phải nghĩa về thời gian.
Ngọ Môn vừa là cổng chính vừa là bộ mặt của Hồng Thành, được xây dựng
vào năm 1833 dưới triều vua Minh Mạng. Ngọ Mơn chỉ được mở khi vua ra vào
Hồng thành và có đồn ngự đạo theo hầu hoặc khi tiếp kiến các sứ thần ngoại
quốc.

Kiến trúc Ngọ Mơn gồm có 2 phần là phần Đài - Cổng và phần Lầu Ngũ Phụng.


Đài - cổng: có bình diện hình chữ U vng góc với diện tích hơn 1560m 2, gồm
5 cửa. Cửa chính giữa là Ngọ Mơn chỉ dành cho vua đi, cao 4,2m, rộng 3,7m;
hai cửa liền kề là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn dành cho các quan. Hai cửa
ngồi cùng là Tả Dịch Mơn và Hữu Dịch Mơn dành cho lính hầu và đồn tùy

tùng.


Ngọ Mơn có 5 cửa ra vào. Tổng thể được chia làm hai phần chính là phần nền đài
phía dưới và lầu Ngũ Phụng bên trên. Từ trong Hoàng Thành có cầu thang hai
phía lộ thiên đi lên lầu Ngũ Phụng.


Phần Lầu Ngũ Phụng: Là cơng trình kiến trúc đẹp nhất trong quần thể Hoàng
Thành Huế được xây dựng trên nền đài của cửa Ngọ Mơn. Lầu Ngũ Phụng đặt
phía trên đài - cổng, chạy dọc theo thân đài hình chữ U. Lầu có hai tầng với
khung được xây dựng bằng 100 cây cột gỗ lim tượng trưng cho Bách tính trăm
họ trong thiên hạ, trong đó có 48 cây cột xuyên xuốt 2 tầng lầu và nhiều đường
nét thiết kế tinh xảo.

Để miêu tả ngắn gọn về kiến trúc của Ngọ Mơn, ca dao xưa có câu:
"Ngọ Mơn năm cửa chín lầu,
Một lầu vàng, tám lầu xanh, ba cửa thẳng, hai cửa quanh."
Lầu ở đây chính là để nói đến lầu Ngũ Phụng - tịa nhà này được ví như 5 con
chim phụng hoàng đang đậu liền nhau. Tất nhiên đây chỉ là cách gọi hình tượng lấy
từ điển tích xưa, cịn trên thực tế lầu Ngũ Phụng là cả một tổ hợp kiến trúc gồm 9
chiếc lầu được ghép nối tiếp liền mạch với nhau. Chín ngơi lầu này đều gồm hai
tầng, kết cấu bộ khung hoàn toàn bằng gỗ lim với chẳn 100 cây cột kiểu thức khá
đồng nhất dù quy mô khác nhau. Xét về thực chất, Ngũ Phụng Lâu gồm 5 tồ lầu
chính và 4 tồ lầu phụ, chia thành 3 dãy xếp thẳng góc với nhau trong đó dãy chính
là phần giữa, tức nằm ngay đáy chữ U. Trong 9 toà lầu này chỉ duy nhất có tồ lầu
chính giữa lợp ngói Hồng lưu ly (màu vàng) vì đây là nơi dành cho vua ngồi dự
lễ, tám bộ cịn lại lợp ngói Thanh lưu ly (màu xanh), đây là vị trí của các quan. Các
bờ nóc, bờ quyết, hồi mái được trang trí bằng nhiều chi tiết hoa văn tinh xảo.



Nơi đây ngày xưa vẫn thường diễn ra các lễ lạc quan trọng nhất của triều Nguyễn
như lễ Ban sóc (ban lịch mới), Truyền Lô (tuyên đọc tên tiến sĩ tân khoa), lễ Duyệt
binh,… Và một sự kiện rất quan trọng đó là ngày 30 tháng 8 năm 1945, tại Ngọ
Môn, vua Bảo Đại - vị vua cuối cùng của Việt Nam, đã thối vị và trao chính
quyền lại cho chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Tại đây, vua Bảo Đại đã có một câu nói nổi tiếng “Trẫm thà làm dân một nước tự
do độc lập cịn hơn làm vua của một nước nơ lệ”.

Tầng lầu bên dưới của Ngũ Phụng Lâu phần lớn đều để trống, chỉ trừ tịa nhà
chính giữa là có hệ thống cửa - kiểu “thượng kính hạ bản” ở mặt trước và che ván
vách ở các mặt còn lại để bảo đảm cho sự kín đáo của nơi thiết ngự tọa mỗi khi vua
ngồi dự lễ. Ở hai cánh hai bên, theo nguyên tắc truyền thống “tả chung, hữu cổ”,
gian ở góc bên trái cánh chữ U đặt chng, gian ở góc bên phải đặt trống. Chiếc
trống hiện nay là chiếc trống đã được phục chế, cịn chiếc chng hiện cịn vẫn là
chiếc chuông nguyên thuỷ, cao gần 4 thước (1,8m), nặng 1.359 cân (815kg), do
vua Minh Mạng sai đúc vào năm 1822 . Trái lại ở tầng trên thì che chắn kín, mặt
trước lầu giữa dựng cửa lá sách, chung quanh dựng ván, nhưng có trổ nhiều cửa sổ
với kiểu dạng khá phong phú, như hình trịn, hình rẻ quạt, hình chiếc khánh...
Chính hệ thống các cửa sổ này cùng với hệ thống lan can con tiện bằng gỗ ở tầng
lầu trên và lan can bằng gạch hoa đúc rỗng ở nữ tường quanh nền đài làm cho tổng
thể kiến trúc Ngọ Môn trở nên nhẹ nhàng, thanh tú.
Trên hệ thống mái của lầu Ngũ Phụng cũng được trang trí rất cơng phu và tinh
tế. Ở bờ nóc và bờ quyết đều trang trí hình rồng, giao đắp bằng vơi vữa và sành sứ;
cũng như ở mái Điện Thái Hòa, có thể xem đây là giang sơn của các lồi rồng (dù
tên cơng trình là lầu Ngũ Phụng). Chính giữa bờ nóc tồ lầu giữa là bình hồng lơ


bằng pháp lam sắc vàng rực rỡ; dải bờ nóc ngay bên dưới được trang trí các ơ thơ
và các vật quý trong bát bửu, hoặc hoa lá biểu trưng tứ quý, tứ thời..theo kiểu “nhất

thi nhất hoạ”.Ở các ô hộc khác thuộc bờ nóc, bờ quyết và các đầu hồi của mái lầu
cịn được trang trí nhiều hình ảnh rồng, giao, dơi ngậm kim tiền, hoa lá... càng làm
cho phần mái cơng trình có vẻ nhẹ nhàng và dun dáng.
Nhìn chung, với cách cấu trúc và trang trí độc đáo, Ngọ Mơn tuy là một cơng
trình kiến trúc đồ sộ, có chiều cao đáng kể nhưng người xưa đã tạo cho nó một vẻ
đẹp thanh nhã và duyên dáng rất đặc biệt. Điều đáng nói nhất là cơng trình này rất
hồ hợp với cảnh quan xung quanh, với sơng Hương, núi Ngự... Với giá trị ấy, có
thể xếp Ngọ Mơn vào hàng những cơng trình kiến trúc nghệ thuật xuất sắc nhất của
triều Nguyễn nói riêng và kiến trúc cổ Việt Nam nói chung.

2. Cầu Trung Đạo
Từ Ngọ Mơn tiến vào sân Đại Triều Nghi, đường thẳng chính giữa qua hồ Thái
Dịch còn gọi là cẩu Trung Đạo ( cầu Trung Đạo nối Ngọ Môn với sân Đại Triều
Nghi). Hồ Thái Dịch nằm hai bên cầu, cầu có lan can che chắn.
Hồ Thái Dịch đào năm 1833 (thời vua Minh Mạng). Trong hổ Thái Dịch thả hoa
súng, hoa sen. Xung quanh hồ trồng những cây đại, nay đã thành cổ thụ, trầm tĩnh
soi mình trên mặt nước, toả hương thơm ngát quanh năm.

Sen trồng ở Hồ Thái Dịch


Cầu Trung Đạo đường vào Điện Thái Hòa
Cầu Trung Đạo được xây dựng từ đầu đời Gia Long, đến năm Minh Mạng 14
thì được tu sửa và mở rộng hơn trong đợt tái thiết Hoàng Thành. Cầu được xây
bằng gạch, mặt dưới gồm nhiều vịm cuốn. Hai đầu cầu có hai cổng dựng bằng 4
cột đồng. Trên cột đồng trang trí hoa sen. Điều này mang ý nghĩa hoa sen tượng
trưng cho những ngọn đuốc soi sáng cho nhà vua. Hai cột giữa cao chạm trổ rồng 5
móng. Tuy hai trụ đối xứng nhau nhưng một bên được tạo hình rồng vươn lên, một
bên tạo hình rồng lao xuống tạo sự sinh động, hấp dẫn. Phía trên các trụ có những
khung hình chữ nhật trang trí bằng pháp lam rực rỡ và có gắn chữ nổi khá lớn

"Trung hịa vị đục" theo ý nghĩa "trung" là cái gốc lớn của thiên hạ, "hòa" là đạt
đạo của thiên hạ. Khi thực hiện được sự trung hịa thì trời đất n ổn, vạn vật sinh
sôi nảy nở. Câu này phù hợp với ý nghĩa của chữ "thái hoà" ở quẻ Càn trong Kinh
dịch).
Cầu Trung Đạo dẫn đến sân chầu trước điện Thái Hịa. Cầu là cơng trình kiến
trúc nằm trên trục chính của Hoàng thành, dành cho vua đi. Đối xứng hai bên cầu
là hai cơng trình kiến trúc khác được xây dựng theo nguyên tắc "tả nam hữu nữ",
"tả văn hữu võ".

3. Sân Đại Triều Nghi và Điện Thái Hòa


* Sân Đại Triều Nghi:
Là khoảng sân rộng trước Điện Thái Hòa nơi các quan đứng chầu trong các
buổi đại thiết triều của triều đình nhà Nguyễn. Là nơi diễn ra các lễ Đăng Quang,
sinh nhật vua, những buổi đón tiếp sứ thần chính thức và các buổi đại triều được tổ
chức 2 lần vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch hàng tháng. Vào dịp này, nhà vua mặc
hoàng bào, lưng đeo đai, tay cầm hốt trầm quế, chân đi hia, ngồi uy nghiêm trên
ngai vàng trong Điện Thái Hịa. Chỉ các quan Tứ trụ và những hồng thân quốc
thích của nhà vua mới được phép vào điện diện kiến. Các quan khác có mặt đơng
đủ và đứng xếp hàng ở sân Đại triều theo cấp bậc và thứ hạng. Sân này chia làm ba
bậc đều lót bằng đá thanh:


Bậc trên hết dành cho các quan văn võ từ tam phẩm trở lên



Bậc dưới dành cho các quan từ tứ phẩm trở xuống đến cửu phẩm




Bên dưới cùng gần cầu Trung Đạo dùng cho các kỳ cựu hương lão được vua
mời đến chầu trong những dịp đại lễ.

Quan văn đứng bên trái, quan võ đứng bên phải. Tất cả các vị trí đều được đánh
dấu trên hai dãy đá đặt trước sân chầu.


Hai hàng trụ đá đề phẩm trật (từ Chính nhất phẩm đến Tòng tam phẩm của các
quan văn võ chầu hầu tại sân Đại Triều Nghi (hoàng thành Huế).
Giữa sân Đại Triều Nghi từ cửa Ngọ Mơn đi vào có một con đường gọi là Dũng
đạo. Hai góc hai bên có đúc hai con kỳ lân rất lớn bằng đồng thếp vàng được đặt
trong lồng gương bằng gỗ sơn vàng. Hai con Kỳ Lân được trang trí ở hai góc sân
có ý nghĩa là đời thái bình, đồng thời nó cũng là một biểu tượng nhắc nhở sự
nghiêm chỉnh giữa chốn triều nghi.
Sân Đại Triều Nghi không mang giá trị về mặt kiến trúc trừ kỳ lân phía trước
sân. Tuy nhiên, xét về mặt vai trò lịch sử, sân là nơi chứng kiến sự hưng thịnh và
suy vong của 13 đời vua triều Nguyễn. Ngày nay, sân là sân khấu ngồi trời để
biễu diễn nhã nhạc cung đình Huế mỗi lần có chương trình “đêm Hồng Cung”, là
nơi diễn ra các hoạt động văn hóa của kinh thành Huế.
* Điện Thái Hòa:

Điện Thái Hòa là điểm đến quen thuộc của khách du lịch trong những tour du
lịch Huế. Điện được xây dựng năm 1805, theo thể thức chung của các cung điện,
miếu tẩm ở kinh thành Huế thế kỷ XIX. Năm 1833, khi quy hoạch lại hệ thống
kiến trúc cung đình ở Đại Nội, vua Minh Mạng cho dời điện về phía Nam và làm
lại đồ sộ hơn. Trải qua các đời vua Nguyễn, điện Thái Hòa đã nhiều lần tu sửa và



có phần thay đổi so với kiến trúc ban đầu. Tuy vậy, nơi đây vẫn là một di tích quan
trọng trong quần thế Kinh thành Huế.

Mặt bằng kiến trúc của điện Thái Hịa khoảng 1360m 2. Căn nhà chính dài
43,3m, rộng 30,3m. Điện gồm 2 nhà ghép lại, phía trước là tiền điện, nhà sau là
chính điện, nơi đặt ngai vàng của vua.

Ngai vàng của nhà vua trong Điện Thái Hoà


So với tất cả các cung điện khác ở Huế xưa nay, điện Thái Hịa là cơng trình
kiến trúc quan trọng nhất bởi đây là nơi đặt ngai vàng của nhà vua – tượng trưng
cho quyền lực của nhà nước phong kiến, là nơi tổ chức các buổi lễ thiết triều.
Cung điện được xây theo lối trùng thiềm điệp ốc và được chống đỡ bằng 80 cột
gỗ lim được sơn thếp và trang trí hình rồng vờn mây - một biểu tượng về sự gặp gỡ
giữa hoàng đế và quần thần đúng như chức năng vốn có của ngơi điện.
Nhà trước và nhà sau của điện được nối với nhau bằng một hệ thống trần vòm
mai cua dưới máng nước nối của hai mái nhà (thuật ngữ kiến trúc gọi là máng thừa
lưu). Chính trần mai cua này nối với nửa trong tạo ra một không gian nội thất liên
tục, thống nhất, rộng rãi, khơng cịn cảm giác ghép nối hai tòa nhà. Việc ứng dụng
máng thừa lưu là một sáng tạo của người xây dựng điện, nó chẳng những che kín
được sự lõm xuỗng của nơi nối hai mái mà còn tạo nên nhịp điệu kiến trúc. Đây
cũng là một dụng ý của kiến trúc sư. Do thời tiết và kiến trúc cổ truyền Việt Nam
mà điện không thể xây cao như của Trung Quốc, vì vậy nửa ngồi mái cao hơn,
nửa trong mài thấp hơn. Mục đích là tạo cảm giác "cao" cho gian ngoài- nơi bá
quan hành lễ, bên trong thấp vừa làm nổi bật gian ngoài vừa là nơi vua ngồi nên
kín đáo, uy nghiêm.
Hệ thống vì kèo nóc nhà sau tương đối đơn giản, chỉ làm theo kiểu "vì kèo cánh
ác", nhưng hệ thống vì kèo nóc nhà trước thì thuộc loại vì kèo "chồng rường - giả
thủ" được cấu trúc tinh xảo. Toàn bộ hệ thống vì kèo, rường cột, ở đây đều liên kết

với nhau một cách chặt chẽ bằng hệ thống mộng chắc chắn.
Mái điện lợp ngói hồng lưu ly, nhưng khơng phải là một dải liên kết mà được
chia làm ba tầng chồng mí lên nhau theo thứ tự từ cao xuống thấp, gọi là mái
"chồng diêm", mục đích là để tránh đi sự nặng nề của một tòa nhà quá lớn đồng
thời để tôn cao ngôi điện bằng cách tạo ra ảo giác chiều cao cho tòa nhà. Giữa hai
tầng mái trên là dải cổ diêm chạy quanh bốn mặt của tòa nhà. Dải cổ diêm được
phân khoảng ra thành từng ơ hộc để trang trí hình vẽ và thơ văn (197 bài thơ) trên
những tấm pháp lam theo lối nhất thi nhất họa.
Trang trí cũng như kiến trúc của điện Thái Hịa nói chung, có một khái niệm
đặc biệt đáng chú ý là con số 5, và nhất là con số 9. Hai con số này chẳng những
xuất hiện ở trang trí nội ngoại thất của tịa nhà mà cịn ở trên các bậc thềm của
điện. Từ phía Đại Cung Môn của Tử Cấm Thành đi ra điện Thái Hòa, vua phải
bước lên một hệ thống bậc thềm ở tầng nền dưới là 9 cấp và ở tầng nền trên là 5
cấp. Trước mặt điện số bậc cấp bước lên Đệ nhị Bái đình và Đệ nhất Bái đình cộng
lại là 9. Tiếp đó, hệ thống bậc thềm ở nền điện cũng có 5 cấp. Đứng ở sân Đại triều


nhìn vào hay từ phía Tử Cấm Thành nhìn ra người ta đều thấy trên mỗi mái điện
đều được đắp nổi 9 con rồng ở trong các tư thế khác nhau: lưỡng long chầu hổ phù
đội bầu rượu, lưỡng long triều nhật, hồi long (rồng quay đầu lại), rồng ngang v.v…
Ở nội điện cũng thế, từ ngai vàng, bửu tán, các mặt diềm gỗ chung quanh cho đến
mỗi mặt của ba tầng bệ mỗi nơi đều trang trí một bộ 9 con rồng. Có thể nói điện
Thái Hịa là giang sơn để cho lồi rồng bay lượn.
Nhìn chung, trong gian điện này một hình ảnh nổi bật đó là con rồng. Ở đây con
rồng được sử dụng đủ kích cỡ, đủ hình thái, mỗi con một dáng vẻ riêng tạo cho ta
cái cảm giác đang bước vào một nơi mà ở đó là giang sơn của lồi rồng. Trên 80
cây cột gỗ lim trong điện đều được vẽ hình rồng vờn mây nước màu vàng son rực
rỡ.

4. Tử Cấm Thành


Khu vực Tử Cấm Thành
6. Đại cung môn
7. Tả vu và Hữu vu
8. Điện Cần Chánh: 8a. Điện Võ Hiển; 8b. Điện Văn Minh
9a. Điện Trinh Minh; 9b. Điện Quang Minh
10. Điện Càn Thành


11. Điện Khôn Thái: 11a. Viện Thuận Huy; 11b. Viện Dưỡng Tâm
12. Lầu Kiến Trung

13. Thái Bình Lâu

14. Vườn Ngự Uyển

29. Ngự Tiền Văn phòng

30. Lục Viện

31. Nhật Thành Lâu.

Tử Cấm thành thuộc quần thể di tích cố đơ Huế là trung tâm sinh hoạt hàng ngày
của vua và hoàng gia triều Nguyễn. Tử Cấm thành có vị trí sau lưng điện Thái
Hòa, được khởi xây năm Gia Long thứ 3 (1804) gọi là Cung thành và các vua triều
Nguyễn xây dựng thêm. Đến năm Minh Mạng thứ 3 (1822), vua đổi tên là Tử
Cấm thành, nghĩa là thành cấm màu tía. Theo nghĩa hán tự, chữ Tử có nghĩa là màu
tím, lấy ý theo thần thoại: Tử Vi Viên ở trên trời là nơi ở của Trời, Vua là con Trời
nên nơi ở của Vua cũng gọi là Tử, Cấm Thành là khu thành cấm dân thường ra vào.
Trong Tử Cấm Thành có khoảng 50 cơng trình kiến trúc với qui mô lớn nhỏ khác

nhau được phân chia làm nhiều khu vực, tổng số cơng trình đó biến động qua các
thời kỳ lịch sử.
Khơng gian kiến trúc Hồng thành và Tử Cấm thành có mối liên quan chặt chẽ
với nhau về sự phân bố vị trí của các cơng trình dựa theo chức năng sử dụng. Tử
Cấm thành nằm trong lịng Hồng thành, cả hai vịng thành này với một hệ thống
cung điện ở bên trong thường được gọi chung là Hồng cung hay Đại Nội.
Xét về bình diện, Tử Cấm thành là một hình chữ nhật có cạnh là 324 x
290,68m, chu vi là 1.229,36m, thành cao 3,72m, dày 0,72m xây hoàn toàn bằng
gạch vồ. Về kiến trúc, Tử Cấm thành cũng như Đại Nội có những điểm chính sau:
Bố cục mặt bằng của hệ thống kiến trúc chặt chẽ và đăng đối. Các cơng trình
đều đối xứng từng cặp qua trục chính (từ Ngọ Mơn đến lầu Tứ Phương Vơ Sự) và
ở những vị trí tiền, hậu; thượng, hạ; tả , hữu; luôn nhất quán (tả văn hữu võ, tả nam
hữu nữ, tả chiêu hữu mục). Con số 9 và 5 được sử dụng nhiều trong kiến trúc vì
theo Dịch lý, con số ấy ứng với mạng thiên tử.
Bố cục của hệ thống Hoàng cung biểu hiện rõ tư tưởng độc tôn quân quyền. Tử
Cấm thành là một tiểu vũ trụ của hồng gia, trong đó đầy đủ mọi tiện nghi sinh
hoạt: ăn ở, làm việc, học tập, nghỉ ngơi, giải trí, điện Càn Thành là nơi vua ăn ngủ
tọa lạc tại trung tâm của vũ trụ đó.
Tử Cấm thành có 7 cửa: nam là Đại cung (Đại Cung mơn) kết cấu hồn tồn
bằng gỗ, lợp ngói hồng lưu ly; đơng là của Hưng Khánh và cửa Đông An, về sau
lấp cửa Đông An, mở thêm cửa Duyệt Thị ở phía đơng Duyệt Thị Đường, ở mặt


×