TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
KHOA Y
BỘ MÔN UNG BƯỚU
CHUYÊN ĐỀ 3
MẬT ĐỘ MÔ VÚ VÀ SÀNG LỌC UNG THƯ VÚ
Nhóm dịch: Nhóm 3 – YAK42
Năm 2021
THÀNH VIÊN NHÓM
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Họ và tên
Triệu Thị Yến Nhi
Nguyễn Bá Niên
Trang Hiền Phong
Huỳnh Thu Phương
Từ Minh Quang
Danh Thị Hoa Ri
Đào Thanh Tâm
Nguyễn Ngọc Thạch
Vỏ Văn Thạnh
Phan Thị Phương Thảo
Kiên Thị Bé Thi
Thái Thị Minh Thư
MSSV
1653010024
1653010025
1653010026
1653010027
1653010028
1653010029
1653010030
1653010031
1653010032
1653010033
1653010034
1653010035
GIỚI THIỆU
Mật độ vú tăng lên làm cản trở việc phát hiện các bất thường trên chụp nhũ ảnh và
tăng nguy cơ được chẩn đốn ung thư vú nhưng khơng liên quan đến việc tăng
nguy cơ tử vong do ung thư vú. Thông qua luật ở nhiều tiểu bang ở Hoa Kỳ liên
quan đến báo cáo chụp quang tuyến vú về mật độ vú và theo dõi đối với những phụ
nữ có vú dày đã dẫn đến những tranh luận mới về quy trình sàng lọc tối ưu để phát
hiện sớm ung thư vú trong phụ nữ có mơ vú dày khi chụp nhũ ảnh.
ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI
Mô vú bao gồm da, mạch máu, ống dẫn và mô đệm của các tuyến (xuất hiện cản
quang hoặc trắng trên chụp nhũ ảnh) và mỡ (xuất hiện thấu quang hoặc đen trên
chụp nhũ ảnh). Mật độ mô vú trong chụp nhũ ảnh được định nghĩa là số lượng
tương đối của các thành phần cản quang (trắng) so với mô mỡ thấu quang (đen)
trên phim.
Mật độ mô vú không liên quan với các thăm dò kiểm tra về mặt vật lý. Mật độ mơ
vú là một thăm dị X-quang và khơng thể dự đốn được nếu khơng chụp nhũ ảnh.
Tăng tỷ lệ của các thành phần cản quang dẫn đến mật độ mô vú lớn hơn. Mô vú
tăng đậm độ trên phim nhũ ảnh là bình thường và phổ biến, xảy ra ở 47 – 50% dân
số.
Mật độ vú tăng lên có thể che khuất việc phát hiện một khối lành tính hoặc quan
trọng hơn là ung thư vú. Giảm độ nhạy của chụp nhũ ảnh ở phụ nữ trẻ một phần có
liên quan đến tăng mật độ trên phim chụp nhũ ảnh do ở vú phụ nữ trẻ có tỷ lệ các
thành phần biểu mô và mô đệm cao hơn.
Phân loại mật độ mơ vú - Có nhiều cách để phân loại mật độ mô vú bằng chụp
nhũ ảnh. Cách được sử dụng phổ biến nhất là BI-RADS (the Breast Imaging
Reporting And Data System), ấn bản lần thứ 5, năm 2012, trong đó việc xác định
mật độ mơ vú được thực hiện bởi bác sĩ X quang bằng cách sử dụng hình ảnh đánh
giá, có thể thay đổi giữa các người đánh giá.
Các chương trình định lượng bằng máy tính có sẵn, nhưng phần lớn được sử dụng
làm công cụ nghiên cứu. Bời vì các phương pháp dựa trên máy tính khách quan này
không được áp dụng rộng rãi, hầu hết các luật của tiểu bang yêu cầu thông báo mật
độ vú cho bệnh nhân dựa trên phương pháp đánh giá trực quan ít lập lại hơn.
3
Phân loại BI-RADS - BI-RADS dựa trên một thang điểm mà nó xác định mật
độ mơ vú thuộc một trong bốn loại sau đây:
● A – Gần như là mỡ hoàn toàn
● B – Vú rải rác các vùng sơ tuyến đặc
● C – Tuyến vú đặc khơng đều (có các vùng đặc đủ để xóa mờ các khối nhỏ)
● D – Toàn bộ tuyến vú đặc (làm giảm độ nhạy của chụp nhũ ảnh)
Đối với hầu hết các mục đích, thuật ngữ "bộ ngực dày" đề cập đến cả mật độ không
đồng nhất hoặc vú cực kỳ dày (loại C hoặc D), chiếm khoảng 47 - 50% phụ nữ
sàng lọc trong dân số chung ở Mỹ.
Từ điển BI-RADS phiên bản thứ năm 2012 chỉ định mật độ vú dựa trên sự hiện
diện của bất kỳ mẩu nào của mô dày đặc. Các phiên bản trước đó của BI-RADS đã
sử dụng tỷ lệ phần trăm của mô dày đặc so với mô mỡ để báo cáo một phần tư (<25
phần trăm, 25 đến 50 phần trăm, 50 đến 75 phần trăm và> 75 phần trăm dày đặc).
Sự khác biệt vừa phải giữa các độc giả trong việc ấn định các loại mô vú dày đặc
(BI-RADS C và D) đã được báo cáo ở cả cấp độ máy chủ quan sát và máy chủ nội
bộ (giá trị kappa từ 0,4 đến 0,6). Ví dụ, trong một chuỗi quan sát gồm 83 bác sĩ X
quang giải thích 216,783 kiểm tra nhũ ảnh 145.123 phụ nữ từ 40 đến 89 tuổi, tỷ lệ
phần trăm được chụp nhũ ảnh được phân loại là mô vú dày đặc dao động từ 6 đến
85%. Ngoài ra, có sự thay đổi theo thời gian về mật độ mật độ vú của bệnh nhân,
đặc biệt là với những thay đổi về trọng lượng hoặc tình trạng nội tiết tố (ví dụ: giai
đoạn của chu kỳ kinh nguyệt, tình trạng sau mãn kinh so với tiền mãn kinh, hoặc sử
dụng hormone ngoại sinh).
Đánh giá mật độ mô vú dựa trên máy tính - Với đánh giá vú dựa trên máy tính
mật độ, phân loại mật độ vú ít thay đổi hơn so với người đọc là người. Công nghệ
dựa trên máy tính này thực hiện đánh giá thể tích tự động bằng kỹ thuật số dữ liệu
chụp nhũ ảnh, mặc dù nó có thể dao động dựa trên vị trí của bệnh nhân bởi vì số
lượng chất béo tế bào bao gồm trong phép đo có thể thay đổi. Hệ thống dựa trên
máy tính thể hiện sự đồng ý vừa phải đến đáng kể (giá trị kappa nằm trong khoảng
từ 0,6 đến 0,7) với BI- Phân loại RADS bởi độc giả của con người. Tuy nhiên, có
tới 14% sự thay đổi giữa các hệ thống nhà cung cấp phân công loại vú dày.
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đo mật độ vú - Có nhiều sự thay đổi về thành
phần của vú. Tỷ lệ khác nhau của chất béo, mô liên kết, ống dẫn và các thành phần
4
của các thùy góp phần vào sự khác biệt trong mật độ mô vú của chụp nhũ ảnh. Mật
độ mô vú chụp nhũ ảnh khơng liên quan đến kích thước hoặc độ săn chắc của vú.
Mật độ vú lớn hơn ở phụ nữ trẻ và cũng thay đổi theo tình trạng mãn kinh, yếu tố di
truyền, sinh đẻ, sử dụng estrogen, sử dụng phịng ngừa hóa học (tamoxifen), và thói
quen của cơ thể. Cũng có sự phụ thuộc vào người đọc mật độ mô vú trên nhũ ảnh.
Mật độ vú có thể thay đổi trong các giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh nguyệt,
với sự tăng nhẹ mật độ trong pha hoàng thể so với pha nang. Điều này cho thấy
rằng độ nhạy của chụp nhũ ảnh có thể được cải thiện một chút ở phụ nữ đang hành
kinh bằng cách chụp quang tuyến vú trong giai đoạn nang trứng (tức là, tuần đầu
tiên và tuần thứ hai sau khi có kinh), đặc biệt đối với phụ nữ đã từng sử dụng thuốc
tránh thai.
Sử dụng liệu pháp hormone sau khi mãn kinh làm chậm sự thay đổi liên quan đến
tuổi từ mô vú dày sang mô vú mỡ. Trong một nghiên cứu dọc, điều này rõ ràng hơn
đối với những phụ nữ dùng estrogen kết hợp và progestin hơn so với những người
chỉ dùng estrogen. Ngừng ngắn hạn (một đến hai tháng) liệu pháp hormone trước
khi chụp nhũ ảnh, mặc dù được một số bác sĩ khuyến cáo, không ảnh hưởng đến tỷ
lệ thu hồi nhũ ảnh (mammographic recall rates) trong một thử nghiệm ngẫu nhiên.
Mật độ vú tỷ lệ nghịch với tuổi bệnh nhân và mật độ vú dày thường liên quan đến
với phụ nữ dưới 50 tuổi hoặc tiền mãn kinh. Một nghiên cứu cắt ngang quốc tế cho
thấy rằng sự giảm mật độ vú là lớn nhất khi chuyển sang thời kỳ mãn kinh. Tuy
nhiên, nhiều phụ nữ lớn tuổi vẫn có bộ ngực dày (lên đến 44% phụ nữ ở độ tuổi 60
và 36% của phụ nữ ở độ tuổi 70).
Cuối cùng, có bằng chứng cho thấy việc giải thích mật độ vú có thể hơi chủ quan,
với sự thay đổi giữa các bác sĩ X quang. Trong một nghiên cứu hồi cứu với khoảng
217.000 hình ảnh chụp X quang được giải thích bởi 83 bác sĩ X quang, 37% hình
ảnh chụp X quang tổng thể được đánh giá là hiển thị dày đặc vú. Trong các bác sĩ X
quang, tỷ lệ phần trăm này dao động từ 6 đến 85%. Trong số những bệnh nhân có
chụp X quang tuyến vú liên tiếp được đọc bởi các bác sĩ X quang khác nhau, 17%
có kết quả trái ngược liên quan đến trạng thái dày đặc so với trạng thái không dày
đặc.
5
MẬT ĐỘ MÔ VÚ VÀ NGUY CƠ UNG THƯ VÚ
Sự hiện diện của nhu mô vú dày trên chụp nhũ ảnh ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư
vú theo 2 cách: mơ vú dày có thể làm mờ đi một ung thư nằm bên dưới, giảm độ
nhạy của chụp nhũ ảnh đối với việc phát hiện các tổn thương nhỏ; và tăng mật độ là
một yếu tố nguy cơ độc lập của ung thứ vú, bởi vì hầu hết các ung thư phát triển
trong nhu mô tuyến. Tuy nhiên, mật độ mô vú tăng không liên quan với sự tăng tử
vong do ung thư vú.
Trong khi mật độ mô vú tăng là một yếu tố nguy cơ độc lập của ung thư vú, tuy
nhiên mức độ mật độ mô vú ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư vú lại không được
thiết lập một cách hồn tồn. Ước tính tốt nhất, so với dân số chung thì nguy cơ
tương đối của ung thu vú là 1.2 đối với những người phụ nữ có mơ vú dày đồng
nhất và 2.1 đối với những phụ nữ có mơ vú cực kỳ dày. Nhiều báo cáo cho thấy
một nguy cơ tương đối gấp từ bốn đến sau lần dựa trên dựa so sánh giữa những phụ
nữ có mật độ mơ vú trong bách phân vị 90 với những phụ nữ có mật độ mơ vú
trong phách phân vị thứ 10, điều này làm thổi phồng nguy cơ và không đại diện cho
dân số trung bình. Nguy cơ tuyệt đối, đúng hơn là nguy cơ tương đối, là sự phản
ánh có ý nghĩa nhiều hơn trong ảnh hưởng của mật độ mô vú. Trong thời kỳ của
yếu tố nguy cơ, một người phụ nữ 45 tuổi với mật độ mơ vú trung bình, khơng tiền
căn gia đình bị ung thư vú, và khơng sinh thiết mơ vú trước đó thì có 0.7% nguy cơ
ung thư vú sau 5 năm so với một phụ nữ với những đặc điểm tương tự, ngoại trừ
mật độ mô vú cực dày thì nguy cơ ung thư vú sau 5 năm là 1.3%.
Mật độ mơ vú một mình khơng quyết định nguy cơ ung thu vú: nguy cơ tương đối
conferred by mật độ mô vú phần nào phụ thuộc vào những yếu tố nguy cơ khác.
•
•
•
•
Mật độ mơ vú khơng là yếu tố nguy cơ độc lập cho ung thư vú trong một
nhóm những phụ nữ nguy cơ ung thư vú rất cao đã từng chụp MRI.
Phụ nữ da đen khả năng cao có một mơ vú nhiều mơ mỡ hơn (do đó mật độ
vú thưa hơn) phụ nữ da trắng, nhưng họ lại có nguy cơ cao hơn trong phát
triển ung thư vú xâm lấn, ám chỉ sự khác nhau trong sinh học của những khối
u.
Người Châu Á có mật độ mô vú cao hơn nhưng tỉ lệ trung bình bị ung thư vú
thấp hơn.
Tăng tuổi tác làm tăng nguy cơ ung thư vú, cũng như là sự tăng chỉ số khối cơ
thể (BMI), nhưng tuổi và béo phì liên quan đến giảm mật độ mô vú.
6
MẬT ĐỘ MƠ VÚ VÀ CÁC SÀNG LỌC CHÍNH CỦA UNG THƯ VÚ
Chụp nhũ ảnh/chụp quang tuyến vú là công cụ tầm sốt chính trong căn bệnh ung
thư vú và qua các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng cho ta thấy nó có
thể làm giảm tỷ lệ tử vong do ung thư vú.
Tuy nhiên ngay khi cả trong điều kiện tốt nhất thì chụp nhũ ảnh có thể bỏ lỡ khoảng
20% phát hiện ra ung thư vú tiềm ẩn. Độ nhạy của nhũ ảnh tỷ lệ nghịch với mật độ
vú, đặc biệt khi đọc trên những tấm phim với công nghệ cũ.
Chụp nhũ ảnh kỹ thuật số - chụp nhũ ảnh kỹ thuật số thường nhạy hơn chụp nhũ
ảnh phim trong trường hợp mô vú dày và thường được sử dụng cho người phụ nữ
có gia tăng mật độ tuyến vú.
Ở Mỹ, chụp nhũ ảnh kỹ thuật số thay thế phần lớn nhũ ảnh phim. Thông tin từ Hiệp
hội Sàng lọc Ung thư vú (BCSC – Breast Cancer Screening Consortium) cho thấy
dựa trên cơ sở dữ liệu từ nhiều chương trình sàng lọc ung thư vú ở Hoa Kỳ, ở
những người phụ nữ vú có nhiều mơ mỡ/mơ vú khơng đặc hoặc có mơ sợi tuyến vú
rải rác thì độ nhạy của nhũ ảnh phim tuyến vú chỉ khoảng 85 – 86% nhưng giảm
còn 79% ở người phụ nữ có mơ vú dày đặc khơng đồng nhất và thậm chí giảm cịn
68% ở người phụ nữ có mô vú dày đặc. Dùng kỹ thuật chụp nhũ ảnh kỹ thuật số
cho thấy độ nhạy của nhũ ảnh với người phụ nữ khơng có tình trạng mơ vú dày đặc
(mơ vú có nhiều mỡ/mơ vú khơng đặc hoặc mơ sợi tuyến vú rải rác, độ nhạy từ 78
– 87%) cho kết quả tương đồng với người phụ nữ có mô vú dày đặc không đồng
nhất (82%) và những người có mơ vú dày đặc (84%).
Tạo mơ vú kỹ thuật số - kỹ thuật tạo mô vú kỹ thuật số (DBT- digital breast
tomosynthesis) ngày càng khả thi tại Hoa Kì. Mạng lưới Ung thư Toàn diện Quốc
gia (NCCN – National Comprehensive Cancer Network) vừa cập nhật hướng dẫn
dành cho phụ nữ có nguy cơ ung thư vú trung bình qua việc xem xét bổ sung sàng
lọc bằng kỹ thuật tạo mô vú hàng năm bắt đầu từ năm 40 tuổi. Đối với phụ nữ có
nguy cơ ung thư vú trung bình thì khơng cần sàng lọc bổ sung bằng các phương
thức khác khi mà DBT được thực hiện như việc khám sàng lọc từ đầu.
Nếu những người phụ nữ có mơ vú dày đặc có thể tiếp cận sàng lọc bằng kỹ thuật
tạo mô vú, một số chuyên gia đề nghị kỹ thuật tạo mô vú nên ưu tiên hơn kỹ thuật
chụp nhũ ảnh tiêu chuẩn, mặc dù đây không phải là tiêu chuẩn chăm sóc. Kỹ thuật
7
DBT, DBT giữa những người phụ nữ có nguy cơ ung thư vú trung bình và khả năng
cao phơi nhiễm với phóng xạ được mơ tả riêng.
Mặc dù khơng có thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng để so sánh DBT và
chụp nhũ ảnh kỹ thuật số ở những người có mơ vú dày đặc được thực hiện, các
nghiên cứu lâm sàng cho thấy rằng, so với chụp nhũ ảnh kỹ thuật số thì tầm sốt
bằng DBT có độ nhạy cao hơn để phát hiện ung thư trong khi độ nhạy giảm khi tầm
soát bằng nhũ ảnh. Trong một quan sát nghiên cứu tiền cứu gồm khoảng 2600 phụ
nữ với mô vú dày đặc, chụp nhũ ảnh ba chiều (3D) phát hiện thêm 5,4 đến 6,2
trường hợp ung thư trên 1000 kết quả được thực hiện ở người phụ nữ có mơ vú dày
đặc.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng DBT có thể có tác dụng lớn đến việc giảm tỷ lệ
dương tính giả ở người phụ nữ có mơ vú dày đặc và có thể có tác động lớn đến việc
cải thiện khả năng phát hiện ung thư ở người phụ nữ có mơ vú dày đặc không đồng
nhất. Trong một nghiên cứu, trong số khoảng 3200 phụ nữ có mơ vú dày đặc tự cho
là mình khơng có triệu chứng và chụp Xquang kỹ thuật số tuyến vú âm tính, có
thêm 4 ca ung thư vú trên 1000 kết quả được thực hiện phát hiện bằng chụp cắt lớp
(khoảng tin cậy 95%, 1.8-6.2). Trong khi siêu âm tuyến vú phát hiện nhiều ung thư
tiềm ẩn hơn (7,1 trên 1000 kết quả, khoảng tin cậy 95%, 4.2-10.0), hơn một nửa số
ca ung thư vú khác ở phụ nữ có mơ vú dày đặc có thể phát hiện bằng DBT. Hồ sơ
rủi ro của nhóm tự giới thiệu này chưa được biết đến, điều này gây khó khăn trong
việc suy rộng kết quả này cho bất kì đối tượng cụ thể nào.
MẬT ĐỘ VÚ VÀ SÀNG LỌC BỔ SUNG CHO UNG THƯ VÚ
Một số bệnh ung thư tiềm ẩn trên tuyến vú và chỉ có thể được phát hiện bằng cách
chụp ảnh vú hoặc khám sức khỏe. Việc thực hiện sàng lọc bổ sung để xác định ung
thư tuyến vú tiềm ẩn có mang lại lợi ích nhiều hơn tác hại hay không vẫn chưa
được xác định. Khoảng một nửa số phụ nữ thông qua chụp nhũ ảnh phát hiện vú
dày đặc, cả vú dày đặc bình thường và thông thường. Thực hiện sàng lọc bổ sung
sau khi chụp nhũ ảnh âm tính ở phụ nữ có mơ vú dày đặc (bao gồm mô vú đặc và
cực kỳ đặc) có thể khiến 48-50% kết quả sàng lọc dân số có kết quả sàng lọc dương
tính giả tiềm ẩn kèm theo lo lắng và nhu cầu sinh thiết vú, khơng có bằng chứng
trực tiếp nào cho thấy việc sàng lọc bổ sung như vậy ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong
do ung thư vú. Một tỷ lệ nhỏ dân số (khoảng 10 phần trăm) có BI-RADS (Hệ
8
thống dữ liệu và báo cáo hình ảnh vú) loại D với mô vú cực kỳ dày đặc, và do đó
tập trung sàng lọc bổ sung trên quần thể này riêng biệt đã được đánh giá trong một
số nghiên cứu.
Bằng chứng và sự đồng thuận của chuyên gia vẫn chưa rõ ràng về sự cân bằng giữa
rủi ro và lợi ích của sàng lọc bổ sung các phương thức được thảo luận dưới đây.
Các phương thức đang được nghiên cứu để sàng lọc bổ sung:
Sàng lọc bằng siêu âm toàn bộ vú – hai loại siêu âm đã được nghiên cứu cho
sàng lọc bổ sung: sàng lọc siêu âm cầm tay và siêu âm vú tự động. Siêu âm vú tự
động sử dụng một đầu dò tự động để chuẩn hóa việc thu nhận hình ảnh; tuy nhiên,
các hệ thống tự động này không được phổ biến rộng rãi. Trong cả hai cách tiếp cận,
vú được quét một cách có hệ thống trong các mặt phẳng trực giao, và các hình ảnh
đã chọn sẽ được ghi lại. Mặc dù phần lớn các nghiên cứu đánh giá việc sử dụng
siêu âm để sàng lọc bổ sung ở phụ nữ có mơ vú dày đã được thực hiện bằng siêu
âm cầm tay, một dữ liệu ban đầu còn hạn chế của siêu âm tự động gợi ý rằng hai
loại siêu âm có thể so sánh được để sàng lọc bổ sung.
Sàng lọc siêu âm tồn bộ vú có thể phát hiện ung thư vú giai đoạn sớm, ung thư vú
bị che lấp khi chụp nhũ ảnh ở phụ nữ có mơ vú dày, nhưng xét nghiệm sàng lọc bổ
sung mang lại một rủi ro là cho kết quả dương tính giả. Khi được sử dụng như một
công cụ bổ sung cho chụp nhũ ảnh, siêu âm có thể cải thiện độ nhạy của sàng lọc
với bất lợi là giảm độ đặc hiệu, kéo theo việc tăng nhu cầu đối với các chẩn đốn
hình ảnh kế tiếp, tăng tỷ lệ sinh thiết vú và sinh thiết vú với kết quả lành tính, kéo
theo lo lắng của bệnh nhân.
Phần lớn ung thư được phát hiện qua siêu âm (88% đến 93%) là xâm lấn, nhưng
hầu hết là không hạch. Việc bổ sung siêu âm để kiểm tra nhũ ảnh vẫn chưa được
chỉ ra để giảm tỷ lệ tử vong do ung thư vú. Không có thử nghiệm ngẫu nhiên nào so
sánh chụp nhũ ảnh và sàng lọc siêu âm bổ sung với sàng lọc chụp nhũ ảnh đơn độc
trong phụ nữ có nguy cơ trung bình.
Phát hiện từ các nghiên cứu đại diện về việc sử dụng kiểm tra siêu âm như một biện
pháp sàng lọc bổ sung cho những phụ nữ có mơ vú dày bao gồm những điều sau
đây:
•
Nghiên cứu tiến cứu lớn, đa trung tâm được thực hiện thông qua American
College of Radiology Imaging Network (ACRIN Protocol 6666) đã đánh giá
9
•
•
•
•
•
năng suất chẩn đoán của thiết bị sàng lọc siêu âm cầm tay bổ sung cho chụp
nhũ ảnh ở những phụ nữ có nguy cơ cao khơng có triệu chứng kèm theo ít
nhất là mơ vú dày khơng đồng nhất trên chụp nhũ ảnh và một yếu tố nguy cơ
bổ sung cho ung thư vú. Các bác sĩ chẩn đoán hình ảnh có kinh nghiệm siêu
âm giải thích các cuộc kiểm tra. Nghiên cứu nhận thấy rằng việc thêm siêu
âm sàng lọc vào chụp nhũ ảnh đã xác định thêm 4,3 ung thư trên 1000 phụ nữ
được sàng lọc nhưng số lượng kết quả dương tính giả tăng lên (giá trị tiên
đoán dương cho chụp nhũ ảnh đơn thuần là 22,6% so với 11,2% đối với chụp
nhũ ảnh kết hợp siêu âm). Trong một nghiên cứu tiếp theo, bất chấp việc sàng
lọc siêu âm bổ trợ, 18% đến 22% ung thư không được phát hiện.
Trong một tổng quan hệ thống của 12 nghiên cứu về siêu âm sàng lọc ở các
quần thể có yếu tố nguy cơ ung thư khác nhau, siêu âm có liên quan đến thêm
11,9 đến 106,6 sinh thiết trên 1000 trường hợp thăm khám (trung bình, 52,2),
với việc phát hiện thêm 0,3 đến 7,7 trường hợp ung thư (trung bình, 4,2).
Việc kết hợp siêu âm và chụp nhũ ảnh làm tăng độ nhạy đối với các bệnh ung
thư nhỏ, nhưng giảm đáng kể độ đặc hiệu. Trong một tổng quan hệ thống năm
2016 của các nghiên cứu về sàng lọc bổ sung với siêu âm (cả siêu âm vú cầm
tay hoặc tự động) ở phụ nữ có mơ vú dày và âm tính khi chụp nhũ ảnh, hơn
90% kết quả xét nghiệm dương tính là dương tính giả. Độ nhạy của siêu âm là
80% đến 83%, độ đặc hiệu 86% đến 94% và giá trị tiên đoán dương từ 3%
đến 8%. Tỷ lệ recall là 14%. Trong một phân tích tổng hợp tiếp theo vào năm
2020 bao gồm 21 nghiên cứu ở phụ nữ có mơ vú dày, sàng lọc siêu âm bổ
sung làm tăng độ nhạy (96% so với 74% của chụp nhũ ảnh đơn thuần) và
giảm độ đặc hiệu (87% so với 93% của chụp nhũ ảnh đơn thuần) để phát hiện
ung thư vú.
Việc sử dụng siêu âm bổ sung đã dẫn đến sự gia tăng gấp năm lần số lượng
sinh thiết không cần thiết, so với chụp nhũ ảnh đơn thuần. Tỷ lệ sinh thiết
dương tính đối với sinh thiết được tạo ra bởi sàng lọc bổ sung nằm trong
khoảng từ 6% đến 8%, so với 25% đến 40% cho các sinh thiết được tạo ra
bằng cách chụp nhũ ảnh sàng lọc đơn thuần.
Trong nhiều nghiên cứu, tỷ lệ recall của siêu âm sàng lọc bổ sung là khoảng
gấp đôi so với chụp nhũ ảnh và tỷ lệ sinh thiết lớn hơn ba lần.
Trong một nghiên cứu về hiệu quả chi phí sử dụng ba mơ hình mơ phỏng,
siêu âm bổ sung cho phụ nữ từ 50 đến 74 tuổi với bộ ngực khơng đồng nhất
hoặc mơ vú q dày và âm tính với chụp nhũ ảnh thì tiêu tốn hơn 100.000
USD cho mỗi số năm sống chất lượng (QALY). Khám sàng lọc bổ sung hai
10
năm một lần cho phụ nữ từ 50 đến 74 tuổi tiết kiệm chi phí hơn so với sàng
lọc hàng năm cho phụ nữ từ 40 đến 74 tuổi, nhưng khơng có chiến lược nào
nói chung đáp ứng được các ngưỡng được chấp nhận về hiệu quả chi phí. So
với chụp nhũ ảnh đơn thuần, siêu âm bổ sung được dự đốn là có thể ngăn
ngừa thêm 0,36 ca tử vong do ung thư và dẫn đến thêm 354 sinh thiết trên
1000 phụ nữ được sàng lọc hai năm một lần trong 25 năm.
Chụp cộng hưởng từ - Chụp cộng hưởng từ chức năng tuyến vú với độ tương
phản từ cao làm tăng độ nhạy trong việc phát hiện ung thư ở những phụ nữ có nguy
cơ ung thư vú cao (>20 đến 25 phần trăm nguy cơ trọn đời), bao gồm những phụ nữ
mang những gen đột biến gây hại đã biết (như là đột biến BRCA1 hay BRCR2),
những phụ nữ có tiền căn gia đình bị ung thư vú và/hoặc ung thu buồng trứng, và
những phụ nữ đã xạ trị điề trị Hogkin lymphoma. Tuy nhiên, Hiệp hội Ung thư Hoa
Kỳ đã nhận thấy những dữ liệu không đủ để đề nghị hay phản đối MRI cho sàng
lọc bổ sung đơn độc cho những phụ nữ có mật độ vú tăng, và có mối lo ngại rằng
MRI ở những phụ nữ có mật độ vú dày có thể liên kết với tỉ lệ dương tính giả cao
dẫn tới những sinh thiết khơng cần thiết và những chẩn đốan q mức có thể xảy
ra.
Dữ liệu thì giới hạn việc sử dụng MRI sàng lọc bổ sung ở những phụ nữ nguy cơ
thấp hoặc trung bình và có mơ vú dày.
•
•
Trong một đánh giá có hệ thống về ba nghiên cứu về MRI sau khi chụp quang
tuyến vú âm tính, độ nhạy của MRI dao động từ 75 đến 100 phần trăm, độ đặc
hiệu từ 78 đến 94 phần trăm, và giá trị tiên đốn dương tính từ 3 đến 33 phần
trăm. Tỷ lệ thu hồi (recall rates) là 23 đến 24 phần trăm, và 3,5 đến 28,6 ung
thư bổ sung được tìm thấy trên 1000 lần khám, trong đó 34 đến 86 phần trăm
là ung thư xâm lấn. Phần lớn phụ nữ trong các nghiên cứu này có nguy cơ bị
ung thư vú cao hơn, ngồi việc có tăng mật độ vú.
Trong một nghiên cứu ACRIN 6666 khác ở những phụ nữ khơng có đột biến
BRCA hoặc ung thư vú có ba vịng sàng lọc âm tính với chụp nhũ ảnh và siêu
âm bổ sung trên hai năm, MRI vú đã xác định thêm sáu trường hợp ung thư vú
xâm lấn trong số 334 phụ nữ. Đối với những phụ nữ có bộ ngực dày và kết
quả chụp quang tuyến vú âm tính, siêu âm bổ sung khơng cho kết quả những
khối u ác tính (khơng được tìm thấy trên chụp quang tuyến vú hoặc MRI)
nhưng lại mang lại kết quả dương tính giả thêm vào. Điều này cho thấy rằng
11
•
những phụ nữ được chụp MRI để sàng lọc bổ sung sau khi chụp quang tuyến
vú âm tính cũng khơng nên được sàng lọc bằng siêu âm.
Một thử nghiệm lớn của Hà Lan (thử nghiệm DENSE) điều tra việc sử dụng
MRI sàng lọc bổ sung trong phụ nữ có bộ ngực cực dày chứng tỏ sự giảm bớt
interval cancers; phụ nữ với bộ ngực cực dày được kiểm tra bằng chụp nhũ
ảnh và MRI bổ sung đã được chẩn đoán mắc ít interval cancers hơn trong thời
gian nghiên cứu hai năm (2,5 so với 5 vú ung thư trên 1000 sàng lọc).
Việc sử dụng rộng rãi MRI để tầm soát ung thư vú bổ sung bị hạn chế bởi chi phí
cao, thiếu tính ứng dụng rộng rãi, và các phản ứng có hại tiềm ẩn với mơi trường
tương phản. Sử dụng gadolinium đối với MRI vú có liên quan đến xơ hóa hệ thống
thận ở bệnh nhân bị bệnh thận,mặc dù hiện nay điều này là cực kỳ hiếm khi sử
dụng các chất mới hơn dựa trên gadolinium. Đánh giá về các biện pháp phòng ngừa
liên quan đến MRI và sử dụng gadolinium có thể được tìm thấy ở những nơi khác.
Các công nghệ mới nổi - Nhiều phương pháp sàng lọc bổ sung khác đang được
điều tra, bao gồm cả việc sử dụng abbreviated MRI, kỹ thuật chụp vú phân tử, và
chụp nhũ ảnh có độ tương phản cao. Khơng có phương pháp nào trong số này được
sử dụng trong lâm sàng thường quy.
Abbreviated first post-contrast acquisition subtracted (FAST) MRI Kiểm tra định kỳ MRI vú có độ tương phản cao yêu cầu bệnh nhân nằm sấp trên
bàn chụp MRI khoảng 20 đến 50 phút bởi vì hình ảnh thu được trong một loạt ảnh
động cả khi có và không sử dụng thuốc cản quang gadolinium tĩnh mạch. Một giao
thức ngắn gọn với ít trình tự hơn, chỉ mất ba đến năm phút thời gian thu nhận, có
thể có độ chính xác chẩn đốn tương đương và nhanh hơn để bác sĩ X quang giải
thích. Các giao thức rút gọn như vậy có thể làm cho sàng lọc MRI ít tốn kém hơn
và dễ tiếp cận hơn đối với phụ nữ có vú dày.
Khơng có dữ liệu nào chứng minh kết quả tử vong bằng cách sử dụng abbreviated
MRI làm phương thức sàng lọc.
Chụp vú phân tử - Kỹ thuật chụp vú phân tử (MBI) để bổ sung sàng lọc ở
phụ nữ có bộ ngực dày và chụp nhũ ảnh âm tính, sử dụng máy chụp gamma và
Tc99m-Sestamibi tiêm tĩnh mạch, được chấp thuận tại Hoa Kỳ bởi Cục Thực phẩm
Hoa Kỳ và Cơ quan Quản lý Dược phẩm (FDA), mặc dù chúng không được sử
dụng rộng rãi. Trong khi các nghiên cứu ban đầu sử dụng một kỹ thuật bức xạ cao
hơn, kỹ thuật mới sử dụng liều bức xạ rất thấp, làm thay đổi nguy cơ lợi ích của
12
phương thức này. Các nghiên cứu lâm sàng ban đầu với kỹ thuật liều thấp chứng
minh rằng việc bổ sung MBI giúp phát hiện gia thêm 8,8 trên 1000 ca ung thư chỉ
với sự giảm rất ít của độ đặc hiệu.
Chụp nhũ ảnh với độ tương phản cao - Chụp nhũ ảnh với độ tương phản cao
là kỹ thuật năng lượng kép cho phép thu được hình ảnh năng lượng thấp có thể so
sánh với chụp nhũ ảnh và hình ảnh đã trừ hiển thị sự hấp thu chất cản quang sau khi
tiêm một loại i-ốt vào tĩnh mạch chất cản quang. Trong thiết lập chẩn đoán, độ nhạy
đã được chứng minh là tương đương với MRIở những phụ nữ có nguy cơ mắc ung
thư vú cao, mặc dù nó chưa được so sánh với MRI ở phụ nữ có vú dày. Tuy nhiên,
nó có thể vượt trội hơn so với chụp nhũ ảnh một mình. Ví dụ, trong một nghiên cứu
năm 2017 từ Nhật Bản, kỹ thuật hình ảnh này đã phát hiện nhiều bệnh ung thư hơn
ở phụ nữ với vú dày hơn chụp nhũ ảnh đơn thuần; kỹ thuật này có thể có một vai
trị trong việc sàng lọc bổ sung.
Luật pháp ở Hoa Kỳ - Không có nghiên cứu tiền cứu lớn nào hỗ trợ siêu âm toàn
bộ vú bổ sung hoặc sàng lọc MRI ở những phụ nữ có nguy cơ trung bình với mơ vú
dày trên chụp nhũ ảnh. Tuy nhiên, nhiều bang đã thông qua luật về vú dày đặc, và
các bang khác đang xem xét luật như vậy. Ở mức tối thiểu, các luật này yêu cầu
bệnh nhân phải được thông báo về mật độ vú của họ, rằng mô vú dày đặc có thể là
một yếu tố nguy cơ gây ung thư vú và mơ dày đặc có thể cản trở việc phát hiện ung
thư. Nếu báo cáo mật độ vú bắt buộc được ban hành trên toàn quốc, như đã được đề
xuất, thì luật như vậy có thể ảnh hưởng đến 25 triệu phụ nữ ở Hoa Kỳ (gần một nửa
số phụ nữ trong độ tuổi từ 40 đến 74).
Mặc dù nhiều bang có luật thơng báo mật độ vú và một số bang đặc biệt khuyến
nghị tầm soát bổ sung bằng siêu âm, nhưng chỉ một số bang có quy định bảo hiểm
bắt buộc đối với các xét nghiệm bổ sung , và rất có thể bảo hiểm của bệnh nhân có
thể khơng chi trả cho xét nghiệm bổ sung và phụ nữ sẽ phát sinh chi phí tự trả đáng
kể nếu cô ấy chọn khám sàng lọc bổ sung.
Giải thích mật độ vú cho bệnh nhân - Một nghiên cứu báo cáo rằng ngôn ngữ
được sử dụng bởi các thông báo về mật độ vú ở các tiểu bang, nơi bắt buộc, thường
vượt quá mức độ dễ đọc được khuyến nghị, cho điểm kém trong xếp hạng mức độ
dễ hiểu và nói chung khơng tương quan với mức độ đọc viết của tiểu bang. Khi phụ
nữ được thông báo về việc tăng mật độ vú được xác định bằng nhũ ảnh, điều quan
trọng là phải thảo luận thực tế rằng “mô vú dày đặc” là một phát hiện chụp nhũ ảnh
bình thường được ghi nhận ở gần một nửa số phụ nữ và thảo luận về ưu và nhược
13
điểm của việc kiểm tra bổ sung trước khi bắt đầu sàng lọc như vậy. Bác sĩ lâm sàng
và bệnh nhân nên xem xét các rủi ro và lợi ích tiềm ẩn, bao gồm nguy cơ chụp Xquang tuyến vú âm tính giả, nguy cơ phát hiện bổ sung dương tính giả có khả năng
dẫn đến hình ảnh theo dõi hoặc sinh thiết vú lành tính và nguy cơ chẩn đoán quá
mức. Nếu ung thư vú tại chỗ được phát hiện. Một công cụ cung cấp thông tin để tạo
điều kiện thuận lợi cho cuộc thảo luận này được đưa vào bảng bên dưới.
Khơng có luật nào liên quan đến mật độ vú và sàng lọc bổ sung bên ngoài Hoa Kỳ.
Phân tầng nguy cơ trong sàng lọc bổ sung – Những bằng chứng y học và sự đồng
thuận của các chuyên gia trong hướng dẫn, hỗ trợ việc xác định nguy cơ ung thư vú
của bệnh nhân đồng thời sử dụng thông tin này trong việc hướng dẫn, thảo luận với
bệnh nhân để đưa ra quyết định về việc chỉ định các sàng lọc và sàng lọc ung thư
vú bổ sung.
Trong hầu hết các mơ hình rủi ro được sử dụng để ước tính xác suất của khả năng
xuất hiện ung thư vú trong đời và / hoặc xác suất mang một đột biến gen có hại có
nguy cơ dẫn đến ung thư vú thì mật độ vú khơng được sử dụng trong việc tính tốn
các rủi ro.
Trong các hướng dẫn chuyên ngành về tầm soát ung thư vú, khơng khuyến khích sử
dụng mật độ vú làm yếu tố để xác định chỉ định các tầm soát bổ sung khác ngồi
chụp nhũ ảnh. Nhiều mơ hình rủi ro khác nhau đã được xây dựng dựa trên các quần
thể khác nhau với sự đa dạng trong tiền sử gia đình về ung thư vú, buồng trứng
hoặc các bệnh ung thư khác, sinh thiết vú trước đó, tuổi hiện tại, tuổi có kinh lần
đầu / tuổi mãn kinh, tuổi mang thai lần đầu và các yếu tố khác.
Nguy cơ cao (> 20% nguy cơ trọn đời) - Chụp MRI vú tầm soát bổ sung định
kỳ, được xem như một biện pháp hỗ trợ cho việc chụp nhũ ảnh và được khuyến
cáo thực hiện ở những phụ nữ có nguy cơ trọn đời > 20% dựa theo các mơ hình rủi
ro, bất kể mật độ vú.
Mật độ vú không phải là một yếu tố liên quan đối với những bệnh nhân này và
không cần thiết siêu âm đối với những bệnh nhân đã được chụp MRI. Tỷ lệ phát
hiện ung thư của MRI lớn hơn so với siêu âm. Trong cuộc thử nghiệm trên số lượng
lớn phụ nữ có nguy cơ cao chỉ ra rằng siêu âm bổ sung khơng tìm thấy thêm các
dấu hiệu ung thư nào ngồi những hình ảnh đã thấy khi sử dụng kết hợp giữa chụp
nhũ ảnh và MRI.
14
Những phụ nữ có mơ vú dày đặc và có các yếu tố nguy cơ cao khác (chẳng hạn như
đột biến gen có hại, tiền sử phơi nhiễm phóng xạ, tiền sử gia đình) nên tuân thủ các
hướng dẫn sàng lọc bổ sung dành cho phụ nữ có nguy cơ cao, có thể bao gồm chụp
MRI bổ sung bên cạnh việc chụp nhũ ảnh định kỳ hàng năm.
Trường cao đẳng X quang và Hiệp hội nhũ ảnh Hoa Kỳ khuyến nghị sử dụng siêu
âm sàng lọc cho những phụ nữ thuộc nhóm nguy cơ cao có chống chỉ định với chụp
MRI (vì nhiều lý do bao gồm: chứng sợ hãi khơng thích nghi với liệu pháp giải lo
âu, có đặt máy tạo nhịp tim hoặc thiết bị khơng tương thích MRI khác, tiền sử dị
ứng nghiêm trọng bao gồm sốc phản vệ đối với gadolinium).
Nguy cơ trung bình hoặc thấp (<15% nguy cơ trọn đời) - Thiếu bằng chứng y
học để thường xuyên khuyến nghị tầm soát bổ sung bằng MRI hoặc siêu âm ở
những phụ nữ có nguy cơ trung bình những người có bộ ngực dày. Lời khun liên
quan đến sàng lọc bổ sung khác nhau giữa tổ chức:
•
•
•
•
Lực lượng đặc nhiệm về dịch vụ phịng ngừa của Hoa Kỳ (USPSTF) vào năm
2016 đã phát hiện ra rằng bằng chứng là không đủ để đánh giá sự cân bằng
giữa lợi ích và tác hại của việc sàng lọc bổ sung bằng siêu âm vú, MRI, DBT
hoặc các phương pháp khác ở phụ nữ có bộ ngực dày và âm tính khác chụp
quang tuyến vú.
Hướng dẫn MRI sàng lọc bổ sung từ Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ nêu rõ rằng
việc sàng lọc MRI khơng được khuyến khích cho những phụ nữ có nguy cơ
thấp..
Đối với những phụ nữ có bộ ngực dày là yếu tố nguy cơ duy nhất của họ đối
với ung thư vú, Trường Cao đẳng Xquang Hoa Kỳ nói rằng "việc bổ sung
siêu âm để kiểm tra chụp nhũ ảnh có thể hữu ích cho phát hiện ung thư gia
tăng". Họ cũng lưu ý rằng quyết định không cung cấp siêu âm sàng lọc, do
các vấn đề về khả năng tái lập thử nghiệm, tỷ lệ dương tính giả cao, sự phụ
thuộc của người vận hành và giá trị tiên đốn dương tính đối với các khuyến
nghị sinh thiết, được chấp nhận trong tiêu chuẩn chăm sóc. Một số trung tâm
hình ảnh vú có thể quyết định không cung cấp dịch vụ khám siêu âm sàng lọc.
Khơng có khuyến nghị nào liên quan đến việc kiểm tra siêu âm vú từ người
Mỹ Hiệp hội Ung thư, Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ, Học viện Hoa Kỳ Bác
sĩ Gia đình, hoặc Trường Cao đẳng Bác sĩ Hoa Kỳ.
Nguy cơ trung bình (15 đến 20% rủi ro trọn đời) - Khơng có hướng dẫn đồng
thuận nào để khuyến cáo cho hoặc không nên siêu âm sàng lọc bổ sung ở những
15
phụ nữ có nguy cơ trung bình và bộ ngực dày. Các khuyến cáo cho MRI ở phụ nữ
có nguy cơ trung bình bị ung thư vú (khơng chỉ được xác định bởi mật độ vú) là
khơng thể kết luận.
•
•
Các hướng dẫn MRI tầm soát của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ khun rằng
MRI tầm sốt bổ sung có thể có hoặc có thể khơng được khun dùng như
một biện pháp hỗ trợ cho chụp nhũ ảnh ở những phụ nữ có nguy cơ trung
bình.
Đối với phụ nữ có nguy cơ ung thư vú trọn đời từ 15 đến 20 phần trăm, tiêu
chí về mức độ phù hợp từ Trường Cao đẳng Xquang Hoa Kỳ xếp hạng MRI
sàng lọc bổ sung là 7 và bổ sung siêu âm là 5 trên thang điểm từ 1 (khơng
khuyến khích) đến 9 (rất khuyến khích) dựa trên chuyên gia sự đồng thuận và
xem xét các chứng cứ y học.
Kiểm tra MRI bổ sung ở phụ nữ có nguy cơ trung bình với BI-RADS lớp D với mô
vú cực kỳ dày đặc là một lựa chọn, nhận biết rằng điều này sẽ tìm thấy một số bệnh
ung thư nhưng cũng có thể dẫn đến tăng dương tính giả, kết quả là tăng sinh thiết,
chi phí, có thể chẩn đốn q mức và bệnh nhân lo lắng, khơng có bằng chứng về
việc giảm tỷ lệ tử vong cụ thể hoặc tổng thể ung thư vú.
Siêu âm sàng lọc bổ sung có thể được tiếp cận rộng rãi hơn và có thể ít tốn kém
hơn MRI bổ sung trong quần thể có nguy cơ trung bình này; tuy nhiên, cả hai đều
không được bảo hiểm đối với loại rủi ro này ở hầu hết các tiểu bang.
Nhiều chuyên gia gợi ý rằng ở những phụ nữ có nguy cơ trung bình bị ung thư vú,
nên quyết định sàng lọc bổ sung bằng siêu âm hoặc MRI sau khi thảo luận giữa
bệnh nhân và bác sĩ để xác định sở thích cá nhân của bệnh nhân. Các thành phần
của cuộc thảo luận giúp đưa ra quyết định của những bệnh nhân có vú dày bao gồm
thơng tin về ý nghĩa của mật độ vú, mức độ nguy cơ mắc bệnh ung thư vú của bệnh
nhân, các phương pháp giảm nguy cơ, lợi ích và tác hại tiềm ẩn của việc tầm sốt
ung thư vú, tính sẵn có của các phương pháp tầm sốt phạm vi bảo hiểm.
TĨM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ
•
Mật độ mơ vú là một kết quả được phát hiện qua chụp nhũ ảnh. Nhiều yếu tố
góp phần vào mật độ mơ vú ở phụ nữ, bao gồm: tuổi tác, di truyền, thói
quen, mức độ sinh sản, sử dụng estrogen và giai đoạn chu kỳ kinh nguyệt.
16
•
•
•
•
•
Mật độ mơ vú dày được tìm thấy ở khoảng 50% phụ nữ được chụp nhũ ảnh,
trong đó có tới 44% phụ nữ ở độ tuổi 60.
Hầu hết trong kết quả chụp nhũ ảnh, thuật ngữ "mật độ mô vú dày" dùng để
chỉ tồn bộ mơ là mơ đặc hoặc cực kỳ không đồng nhất (loại C hoặc D của
hệ thống dữ liệu và báo cáo hình ảnh về vú [BI-RADS], ấn bản thứ năm). Sự
thay đổi đáng kể trong việc ấn định các loại mô vú dày đặc cũng đã được ghi
nhận.
Sự hiện diện của mô vú dày đặc trên chụp nhũ ảnh làm giảm độ nhạy của
chụp nhũ ảnh và là một yếu tố nguy cơ độc lập của ung thư vú, vì hầu hết các
bệnh ung thư phát triển trong nhu mô tuyến. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng
của mật độ vú đến nguy cơ ung thư vú không được xác định rõ ràng và việc
tăng mật độ vú không liên quan đến việc tăng tỷ lệ tử vong do ung thư vú.
Chụp nhũ ảnh kỹ thuật số nhạy hơn chụp nhũ ảnh bằng phim đối với vú dày
và được ưu tiên, khi có sẵn, cho phụ nữ có mật độ vú tăng. Chụp nhũ ảnh kỹ
thuật số (DBT) so với chụp nhũ ảnh kỹ thuật số có thể làm giảm tỷ lệ nhớ lại
ở những phụ nữ có bộ ngực dày nhưng có thể phần nào làm tăng tỷ lệ phơi
nhiễm bức xạ, tùy thuộc vào loại hình chụp cắt lớp hiện có.
Nếu những phụ nữ có mật độ mơ vú dày đặc được tiếp cận với việc kiểm tra
q trình sinh tổng hợp, thì có rất ít dữ liệu cho thấy q trình sinh tổng hợp
có thể được ưu tiên hơn so với chụp nhũ ảnh tiêu chuẩn, đặc biệt là ở những
phụ nữ có mật độ mô vú không đồng nhất, mặc dù đây không phải là tiêu
chuẩn. Tuy nhiên, phụ nữ nên được tư vấn về bảo hiểm của cuộc khám sàng
lọc này. Nếu một người phụ nữ không được tiếp cận với quá trình sinh tổng
hợp, chụp nhũ ảnh sàng lọc vẫn là tiêu chuẩn. Khơng có hướng dẫn tầm sốt
ung thư vú chính nào khun rằng mật độ mơ vú được sử dụng làm yếu tố
duy nhất để xác định nhu cầu sàng lọc bổ sung ngoài chụp nhũ ảnh. Bằng
chứng y học và hướng dẫn đồng thuận của chuyên gia cũng sử dụng thông
tin phân tầng nguy cơ này nhằm hỗ trợ xác định nguy cơ ung thư vú và sử
dụng nó để giúp hướng dẫn với bệnh nhân.
Khơng có nghiên cứu lớn nào hỗ trợ việc sàng lọc siêu âm tồn bộ vú ở
những phụ nữ có nguy cơ trung bình với mơ vú dày đặc trên chụp nhũ ảnh.
Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ, nhiều tiểu bang đã yêu cầu bệnh nhân phải được
thông báo về mật độ vú của họ, rằng mơ vú dày đặc có thể là một yếu tố
nguy cơ gây ung thư vú và mô dày đặc có thể cản trở việc phát hiện ung thư.
Một số luật đặc biệt khuyến nghị sàng lọc bổ sung bằng siêu âm, nhưng chỉ
17
•
•
•
một số tiểu bang trong số đó yêu cầu bảo hiểm chi trả cho việc kiểm tra bổ
sung này.
Chưa có thử nghiệm ngẫu nhiên nào so sánh việc sàng lọc với kết hợp siêu
âm và chụp nhũ ảnh và sàng lọc chỉ bằng chụp nhũ ảnh ở những phụ nữ có
nguy cơ trung bình. Việc bổ sung siêu âm vào chụp nhũ ảnh làm tăng độ
nhạy đối với các ung thư nhỏ nhưng làm giảm độ đặc hiệu rất nhiều. Trong
các nghiên cứu về sàng lọc bổ sung bằng siêu âm, hơn 90% kết quả xét
nghiệm dương tính là dương tính giả. Việc tầm sốt bổ sung bằng chụp cộng
hưởng từ (MRI) cũng bị hạn chế bởi tỷ lệ dương tính giả cao và thêm vào đó
là chi phí cao hơn, thiếu tính ứng dụng rộng rãi và các phản ứng có hại tiềm
ẩn từ các thiết bị.
Chúng tơi đề nghị rằng hầu hết phụ nữ có bộ ngực dày và khơng có thêm yếu
tố nguy cơ nào về ung thư vú (tức là nguy cơ trung bình hoặc thấp) không
nên khám nghiệm bổ sung (Lớp 2C). Sau khi thảo luận về những rủi ro và lợi
ích tiềm ẩn liên quan đến việc sàng lọc như vậy (bảng 1), một số phụ nữ có
thể lựa chọn thích hợp để khơng thực hiện sàng lọc bổ sung trong khi những
người khác sẽ chọn sàng lọc bổ sung. Đối với những phụ nữ có nguy cơ
trung bình và thấp, có thể chọn khám sàng lọc bổ sung bằng siêu âm hoặc
MRI.
Đối với những phụ nữ có bộ ngực dày và có nguy cơ bị ung thư vú mức
trung bình (15 đến 20% nguy cơ suốt đời), có thể lựa chọn sàng lọc bổ sung
bằng siêu âm hoặc MRI.
HÌNH ẢNH
Phân loại mật độ vú trên chụp nhũ ảnh
(A) Hầu như hoàn toàn là mô mỡ
(B) Các vùng mô sợi nằm rải rác.
18
(C) Đặc không đồng nhất.
(D) Cực kỳ dày đặc.
Trao đổi với phụ nữ về mật độ vú
Thảo luận với phụ nữ
Nhận xét bổ sung cho bác sĩ lâm sàng
Mật độ mơ vú là gì?
• Mơ vú dày đặc khơng phải là bất
• Khoảng 43% phụ nữ Hoa Kỳ có mơ
thường. Gần một nửa số phụ nữ có
vú "dày đặc" (được định nghĩa là
mô vú dày đặc
danh mục "c" [mật độ khơng đồng
• Nếu bạn có mật độ mơ vú thuộc loại
nhất] hoặc danh mục mô "d" [cực kỳ
dày đặc]
"c", nguy cơ của bạn cũng giống
như nguy cơ liên quan đến việc có • Mơ dày đặc trên chụp nhũ ảnh có thể
người thân cấp hai (ví dụ: dì) bị ung
bị che dấu bởi các hình ảnh bất
thư vú
thường, do đó làm giảm độ nhạy của
• Nếu bạn có mật độ mô vú thuộc loại
chụp nhũ ảnh. Độ nhạy của chụp
nhũ ảnh theo phân loại mật độ là "a,"
"d" (cực kỳ dày đặc), nguy cơ của
88,2%; "b," 82,1%; "c," 68,9%; và
bạn giống như có người thân cấp
"d", 62,2%.
một bị ung thư vú.
• Nguy cơ ung thư vú tăng lên ở
• Mơ vú dày đặc có thể gây khó khăn
những phụ nữ có mơ vú dày tương
cho bác sĩ X quang trong việc xác
tự như việc có người thân mắc bệnh
định các bất thường và giải thích kết
ung thư vú.
quả khám; do đó, độ chính xác của
chụp nhũ ảnh thấp hơn.
• Mặc dù nguy cơ mắc bệnh ung thư
vú ở phụ nữ có bộ ngực dày cao
hơn, nhưng nó khơng làm tăng nguy
cơ tử vong vì ung thư vú.
Tính nguy cơ ung thư vú
• Nhiều cơng cụ trực tuyến cho phép
• Cơng cụ đánh giá nguy cơ ung thư
bạn tính tốn nguy cơ chẩn đốn
vú (The Breast Cancer Risk
ung thư vú (ví dụ: rủi ro ước tính
Assessment) là bản cập nhật của mơ
cho chẩn đốn trong 5 hoặc 10 năm
hình Gail từ BCSC.[2] Công cụ này
19
tới hoặc trong suốt cuộc đời của
bạn)
• Nếu nguy cơ cả đời của bạn đối với
ung thư vú là <15%, thì thơng
thường khơng nên kiểm tra bổ sung
ngồi chụp nhũ ảnh
• Nếu nguy cơ suốt đời của bạn là 15
đến 20%, ACR và ACS khuyên bạn
nên thảo luận về mối quan tâm và
thói quen của mình với người tư vấn
để xác định xem bạn có nên sàng
lọc bổ sung bằng các xét nghiệm
khác hay không. Tuy nhiên, không
phải tất cả các hiệp hội đều khuyến
nghị điều này và nó vẫn là một điều
chưa chắc chắn
• Nếu nguy cơ suốt đời được tính tốn
của bạn là> 20%, một số nhóm
khuyến nghị chụp MRI bổ sung
hàng năm (ví dụ: luân phiên 6 tháng
một lần với chụp nhũ ảnh và sau đó
6 tháng với MRI)
khơng bao gồm thơng tin mật độ vú
• (www.cancer.gov/bcrisktool/Default.
aspx)
• Cơng cụ Tyrer – Cuzick có sẵn bằng
điện tử và có thể được tải xuống từ
(www.ems-trials.org/riskevaluator/).
Cơng cụ này bao gồm thông tin về
mật độ vú và mất nhiều thời gian
hơn để sử dụng.
• Cách tiếp cận để sàng lọc bổ sung
cho những bệnh nhân có nguy cơ
trung bình (nguy cơ suốt đời từ 15
đến 20%) còn nhiều tranh cãi. Trong
số các hiệp hội lớn, chỉ ACR và ACS
khuyến nghị ra quyết định chung và
có sàng lọc bổ sung
• Nhiều phụ nữ cho rằng nguy cơ mắc
bệnh ung thư vú của họ cao hơn bình
thường. Ước tính , những người phụ
nữ có thể đã được tư vấn, cứ 9 phụ
nữ thì có 1 người được chẩn đốn
mắc bệnh ung thư vú, nhưng khơng
chết vì ung thư vú. Phụ nữ ở Hoa Kỳ
có nguy cơ chết vì bệnh tim mạch
cao hơn ung thư vú
• Giải thích ước tính rủi ro bằng cách
sử dụng số tuyệt đối và cả khung
dương và âm (ví dụ: trong số 1000
phụ nữ có mật độ loại "c" và khơng
có các yếu tố nguy cơ khác, con số
ước tính được chẩn đốn mắc bệnh
ung thư vú trên 10 năm là 20, nghĩa
là 980 trong loại " c "sẽ khơng được
chẩn đốn mắc bệnh ung thư vú
trong thập kỷ tới)
Cung cấp thông tin về siêu âm và MRI
20
Lợi ích khác
• Siêu âm và MRI có thể phát hiện
thêm bệnh ung thư mà trên phim
chụp X quang tuyến vú của bạn
khơng thể thấy được.
• Phát hiện sớm hơn từ sàng lọc có
thể cho kết quả phẫu thuật, hóa
trị và xạ trị tích cực hơn
• Tác hại tiềm ẩn
• Nguy cơ kết quả dương tính giả
tăng lên khi siêu âm và chụp
cộng hưởng từ MRI. Kết quả
dương tính giả xảy ra khi họ
được yêu cầu quay lại để kiểm
tra thêm nhưng khơng bị ung thư
vú. Đây có thể là một điều áp lực
đối với một số phụ nữ
• Nguy cơ làm sinh thiết vú của
bạn dù bạn không bị ung thư vú
tăng lên
• Bạn sẽ có nhiều nguy cơ bị chẩn
đốn q mức (ung thư vú sẽ
khơng gây hại gì trong suốt cuộc
đời của bạn). Bởi vì chúng tơi
khơng thể xác định trường hợp
ung thư nào được "chẩn đoán q
mức", bạn có thể phải điều trị
q mức (ví dụ: hóa trị hoặc
phẫu thuật khơng cần thiết)
• Chi phí của bạn sẽ cao hơn (đặc
biệt là MRI).
• IV gadolinium (có nguy cơ lâu
dài không chắc chắn) được yêu
cầu sử dung để chụp MRI vú
Tư vấn về cách giảm thiểu rủi ro
Khơng có nghiên cứu dài hạn nào
cung cấp dữ liệu về tỷ lệ tử vong do
ung thư vú để sàng lọc bổ sung bằng
siêu âm hoặc MRI.
• Mặc dù gadolinium IV có nguy cơ
mắc bệnh xơ cứng thận, nguy cơ này
chủ yếu ảnh hưởng đến bệnh nhân
mắc bệnh ESRD đang được lọc máu.
Lâm sàng hiện nay là sàng lọc
những bệnh nhân có thể có nguy cơ
mắc bệnh thận trước khi dùng
gadolinium.
• Thơng tin của FDA đã báo cáo
những tác dụng phụ tiềm ẩn của sự
tích tụ gadolinium trong não được
phát hiện trong các khám nghiệm tử
thi
•
•
21
Một lối sống lành mạnh có liên
quan đến việc giảm nguy cơ ung thư
vú (ví dụ: hạn chế tăng cân sau mãn
kinh, duy trì chế độ tập thể dục, hạn
chế uống rượu).
• Nếu có nguy cơ rất cao, có thể cân
nhắc sử dụng thuốc (ví dụ: phịng
ngừa bằng hóa chất).
• Sẽ chỉ thảo luận về phẫu thuật dự
phòng trường hợp có nguy cơ cực
kỳ cao (ví dụ: bạn có đột biến gen
BRCA
Đưa ra quyết định
• Bạn hiểu gì về lợi ích và tác hại?
• Giá trị cá nhân và mục tiêu của bạn
để sàng lọc là gì?
• Khuyến khích bạn đưa ra quyết định
sáng suốt và đúng đắn cho bạn
Thảo luận về biện pháp phịng ngừa
bằng hóa chất cho những phụ nữ có
nguy cơ ung thư vú trong 5 năm là
≥3%.
• Đối với những phụ nữ có đột biến
BRCA, hãy thảo luận về việc đến
một phòng khám chuyên khoa để
được tư vấn và thảo luận về vai trò
của phẫu thuật cắt bỏ vú dự phịng
tiềm năng
•
•
•
22
Quyết định của họ có thể khơng
giống như những gì bác sĩ sẽ đề nghị