Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Xóa đói giảm nghèo thông qua dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” tại hai Huyện Tân Lạc và Lạc Thủy tỉnh Hòa Bình - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.32 KB, 84 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu…………………………………………………………………...1
Chương 1: Vai trò của dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” đối với công
cuộc xóa đói giảm nghèo của tỉnh Hòa Bình……………………….………2
1. Cơ sở lý luận về đói nghèo và xóa đói giảm nghèo……………...………2
1.1 Khái niệm về đói nghèo…………………………………………………..2
1.2 Các chỉ tiêu đánh giá……………………………………………………...7
1.3 Chuẩn đói nghèo sử dụng trong đánh giá………………………………..11
1.4. Xóa đói giảm nghèo……………………………………...……………..16
2. Những tác động của đói nghèo đến sự phát triển kinh tế xã
hội……………………………………………………………………………18
2.1. Tác động của đói nghèo đến sự phát triển kinh tế………………………18
2.2. Tác động của đói nghèo đến sự phát triển xã hội……………………….20
3. Tổng quan về dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” tại tỉnh Hòa
Bình………………………………………………………………….………24
3.1. Giới thiệu chung về GTZ……………………………………………….24
3.2. Dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” ………………………….…………25
3.3. Vai trò của dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” đối với tỉnh Hòa
Bình………………………………………………………………………….28
Chương 2: Thực trạng hoạt động xóa đói giảm nghèo của dự án “Hỗ trợ
giảm nghèo – GTZ” tại tỉnh Hòa Bình………………………...………….33
1. Tình hình kinh tế xã hội huyện Tân Lạc và Lạc Thủy tỉnh Hòa
Bình………………………………………………………………………….33
1.1. Huyện Lạc Thuỷ………………………………………………………...33
1.2. Huyện Tân Lạc………………………………………………………….36
1
2. Đánh giá thục trạng đói nghèo tại hai huyện Tân Lạc và Lạc Thuỷ tỉnh
Hòa Bình…………………………………………………….………...……39
2.1. Thực trạng đói nghèo…………………………...………………………39
2.2. Các nguyên nhân dẫn đến đói nghèo..…………………………………..43
3. Đánh giá chung về hoạt động của dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ”


tại tỉnh Hòa Bình…………………………………………………………...46
3.1. Các hoạt động đã triển khai……………………………………………..46
3.2. Kết quả đạt được……………………………………...………………...58
3.3. Những khó khăn tồn tại và nguyên nhân………………………………..60
3.4. Bài học kinh
nghiệm…………………………………………………….61
Chương 3: Giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động của dự án “Hỗ trợ
giảm nghèo – GTZ” đối với xóa đói giảm nghèo tỉnh Hòa
Bình………………………………………………………………………….63
1. Bối cảnh về kinh tế xã hội đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo tỉnh và
của dự án……………………………………………………………….…...63
1.1 Bối cảnh khách quan…………………………………………………….63
1.2 Bối cảnh chủ quan……………………………………………………….67
2. Định hướng và mục tiêu phát triển của dự án……………..…………76
2.1 Định hướng………..……………………………………………………76
2.2 Mục tiêu……………………..………………………………………….79
3. Giải pháp…………………………………………………………………80
Kết luận…………………………….……………………………………..81
Tài liệu tham khảo…………………..……………………………………82
2
Danh mục các từ viết tắt
Bộ LĐ-TB-XH Bộ Lao động, thương binh và xã hội
Bộ GD-ĐT Bộ Giáo dục và đào tạo
CPRGS Chiến lược Xóa đói Giảm nghèo và Tăng
trưởng Toàn diện
XĐGN Xóa đói giảm nghèo
WB Ngân hàng thế giới
ODA Viện trợ phát triển chính thức
GTZ Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức
UNDP Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc

ESCAP Ủy ban kinh tế và phát triển châu Á - Thái
Bình Dương của Liên hợp quốc
LỜI MỞ ĐẦU
3
Đói nghèo là một hiện tượng xã hội, mang tính lịch sử và phổ biến của
mọi quốc gia, dân tộc. Trong quá trình phát triển của đất nước, xóa đói giảm
nghèo luôn là nhiệm vụ quan trọng đòi hỏi phải có sự nỗ lực của tất cả các
ban ngành, chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ hợp tác của các
tổ chức quốc tế đã giúp nước ta tìm ra những giải pháp, phương hướng trong
công cuộc xóa đói giảm nghèo hiện nay.
Hai huyện Tân Lạc và Lạc Thủy tỉnh Hòa Bình là một trong những
vùng thí điểm của dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ”. Hai huyện này có tỷ lệ
nghèo đói luôn ở mức cao. Do vậy, dự án mong muốn góp phần cải thiện tình
hình đói nghèo tại hai huyện trên, giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo giữa các
vùng và góp phần ổn định xã hội.
Để có được cái nhìn tổng quát và thực tế hơn trong công tác xoá đói
giảm nghèo tại hai huyện trên của dự án. Em xin đi sâu nghiên cứu đề tài:
“Xóa đói giảm nghèo thông qua dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” tại hai
Huyện Tân Lạc và Lạc Thủy tỉnh Hòa Bình - Thực trạng và giải pháp”. Bài
viết đưa ra các đánh giá về thực trạng công tác XĐGN của dự án tại hai huyện
trên và một vài phương phướng cần giải quyết trong năm tới cũng như giai
đoạn tiếp theo của dự án.
Bài viết của em sẽ không tránh khỏi những hạn chế và sai sót. Rất
mong nhận được ý kiến nhận xét và đánh giá của thầy để bài viết của em
được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Chương 1: Vai trò của dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” đối với
công cuộc xóa đói giảm nghèo của tỉnh Hòa Bình
4
1.Cơ sở lý luận về đói nghèo và xóa đói giảm nghèo

1.1.Khái niệm về đói nghèo
1.1.1 Quan niệm về đói nghèo trên thế giới.
Các khái niệm về nghèo, đói nghèo, nghèo khổ được thế giới định
nghĩa trên nhiều phương diện khác nhau. Mỗi định nghĩa đều phản ánh các
khía cạnh khác nhau. Việc đo lường được từng khía cạnh một cách nhất quán
là điều rất khó khăn, còn gộp chung lại thì là điều không thể.
Những định nghĩa đơn giản nhất về “nghèo” có: Nghèo là tình trạng bị
thiếu thốn ở nhiều phương diện như: thu nhập hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo
thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn
thương trước những đột biến, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định.
Năm 1998, UNDP đã công bố một báo cáo nhan đề “Khắc phục sự nghèo khổ
của con người” và đã đưa ra những định nghĩa về nghèo như sau [96, tr.10]:
Sự nghèo khổ của con người: Thiếu những quyền cơ bản của con người
như biết đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ.
Sự nghèo khổ về tiền tệ: Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả
năng chi tiêu tối thiểu
Sự nghèo khổ cựu độ: Nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản tối thiểu.
Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo nghiêm trọng hơn được xác định
như không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu lương thực và phi thực phẩm
chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hay
nước khác.
Sự nghèo khổ tương đối: Sự nghèo khổ được xác định theo những
chuẩn có thể thay đổi theo thời gian.
5
Sự nghèo khổ tuyệt đối: Sự nghèo khổ được xác định bằng một chuẩn
mực cố định. Chẳng hạn như ngưỡng quốc tế của sự nghèo khổ là
1$/người/ngày.
Tóm lại, có hai khái niệm về nghèo thường được sử dụng trên nhiều
quốc gia như sau:

Nghèo tuyệt đối: Hội nghị chống đối nghèo khu vực châu Á – Thái
Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Kốc, Thái Lan (9/1993) đã đưa ra
định nghĩa chung như sau: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không
được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu
cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình đô phát triển kinh tế xã hội và
phong tục tập quán của địa phương”
Đây được xem là một định nghĩa chung nhất về nghèo, định nghĩa
mang tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu,
phổ biến về nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực đánh giá về mặt lượng được
tính đến sự khác biệt về nhiều yếu tố như lịch sử, địa lý, kinh tế, xã hội. Trong
đó, nhu cầu cơ bản của con người bao gồm 8 yếu tố phân thành 2 loại, trong
đó có nhu cầu thiết yếu: ăn, mặc, ở và 5 nhu cầu sinh hoạt hàng ngày: Văn
hóa, giáo dục, y tế, đi lại, giao tiếp. Mức đo của nó mang tính chất tương đối
vì còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng quốc gia, của
từng địa phương và từng thời kỳ.
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức
trung bình của cộng đồng.
Theo hai khái niệm thì người nghèo có thu nhập thấp nhất so với thu
nhập tính theo đầu người. Khái niệm nghèo tương đối gần với ý niệm bất bình
đẳng và thiếu hụt so với mức sống trung bình. Do vậy, nếu so sánh nghèo khổ
giữa các quốc gia với nhau, người ta thường sử dụng khái niệm nghèo tương
6
đối. Để đấu tranh chống nạn nghèo cùng cực thì sử dụng khái niệm nghèo
tuyệt đối. Cả 2 khái niệm trên đều có mục đích và cách thức sử dụng khác
nhau tùy thuộc vào mục tiêu mà quốc gia đó theo đuổi.
Mặt khác, khi quan niệm và đánh giá về nghèo cần phải xét trên các
điều kiện sau:
−Trong từng giai đoạn lịch sử.
−Trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một vùng, một miền, một
tầng lớp, một nhóm dân cư.

Nghèo có những cấp độ khác nhau: ở dạng đói, nghèo tuyệt đối, nghèo
tương đối…Vì vậy, nói đến nghèo không chỉ tính đến số người nghèo đói mà
còn phải đo độ nghèo tức là đo khoảng cách giữa số thu nhập có được với
ngưỡng nghèo ấn định. Tỷ lệ và cấp độ nghèo phản ánh trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của một quốc gia, một vùng, một địa phương, trong từng thời
kỳ lịch sử.
Nghèo được tính theo thời gian: Có thể sự nghèo được truyền từ đời
này sang đời khác hay còn gọi là nghèo dai dẳng, kéo dài thường có ở các
nước chậm phát triển. Ngoài ra còn có những người vì hoàn cảnh thực tế mà
rơi vào cảnh nghèo, được gọi là “nghèo mới”
Nghèo có nhiều chiều hay nhiều phương diện: Nghèo ở đây không chỉ
phản ánh trên khía cạnh như thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu phương tiện sản xuất
và sinh hoạt đời sống mà còn thiệt thòi trên phương diện sức khỏe, giáo dục,
địa vị xã hội…Người nghèo khi đã rơi vào tình trạng thiếu thốn một phương
diện thì thường có nguy cơ lâm vào sự cùng quẫn và chồng chất mọi thiệt
thòi.
7
Bàn về sự nghèo khổ của con người còn có một khái niệm đã được
Liên Hợp Quốc đưa ra trong “Báo cáo về phát triển con người” năm 1997.
Theo đó, nghèo khổ của con người là khái niệm biểu thị sự nghèo khổ đa
chiều của con người có nghĩa là sự thiệt thòi (khốn cùng) theo 3 khía cạnh cơ
bản nhất của cuộc sống con người. Chẳng hạn đối với các nước đang phát
triển sự thiệt thòi đó là:
−Thiệt thòi xét trên khía cạnh cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh, được
xác định bởi tỷ lệ người dự kiến không thọ quá 40 tuổi.
−Thiệt thòi về tri thức, được xác định bởi tỷ lệ người lớn mù chữ.
−Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế, được xác định bởi tỷ lệ người không
tiếp cận được với các dịch vụ y tế, nước sạch và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy
dinh dưỡng.
1.1.2 Khái niệm đói nghèo ở Việt Nam.

Việt Nam cơ bản vẫn là một nước nghèo, có thu nhập bình quân đầu
người thấp. Tỷ lệ nghèo đói vẫn còn ở mức cao. Do vậy, dựa vào những khái
niệm chung của các tổ chức Quốc tế, dựa vào thực trạng đời sống kinh tế xã
hội trong nước, Việt Nam đã có những khái niệm mang tính chất cơ bản và
định hướng.
Trong từ điển tiếng Việt năm 1994 có những định nghĩa khác nhau về
nghèo như sau:
−Nghèo: Ở tình trạng không có hoặc có rất ít những gì thuộc về nhu cầu
tối thiểu của đời sống vật chất.
−Nghèo đói: Nghèo đến mức không có ăn.
−Nghèo hèn: Nghèo ở vị trí thấp kém trong xã hội.
8
Ở Việt Nam hiện nay chúng ta vẫn thường nhận diện đói ở hai dạng:
đói kinh niên và đói gay gắt. Còn quan niệm về nghèo bao gồm nghèo tuyệt
đối và nghèo tương đối. Dù ở dạng nào thì nghèo vẫn có quan hệ mật thiết với
đói.
Với cách đánh giá như vậy, nghèo ở Việt Nam mang những đặc trưng
cơ bản chung nhưng vẫn nổi bật ở hai đặc trưng:
−Nghèo dai dẳng kéo dài, nghèo từ đời này sang đời khác.
−Nghèo có cấp độ rất lớn, khoảng cách giữa số thu nhập quan sát được
với ngưỡng nghèo được quy định là rất lớn.
Hai đặc trưng này phản ánh được thực trạng Viêt Nam là một nước còn
nghèo và nằm trong nhóm nước đang phát triển với trình độ sản xuất còn
kém. Đồng thời hai đặc trưng này chi phối rất nhiều trong tiến trình giảm
nghèo ở Việt Nam hiện nay. Theo tài liệu của Bộ Lao động – Thương binh và
xã hội đã đưa ra các khái niệm đói nghèo ở Việt Nam như sau:
−Đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới
mức tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
−Nghèo: Là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thỏa
mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng

mức sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
−Hộ đói: Là hộ cơm không đủ no,, áo không đủ mặc, con cái thất học,
ốm đau không có tiền chữa trị, nhà cửa rách nát.
−Hộ nghèo: Là hộ thiếu ăn nhưng không đứt bữa, mặc không lành và
không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất…
−Xã nghèo: Là xã có các đặc trưng sau:
Tỷ lệ hộ đói nghèo của xã chiếm 40% trở lên.
9
Thiếu hoặc yếu cơ sở hạ tầng: Đường giao thông, điện thắp sang,
trường học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt, chợ.
−Vệt ( vùng) nghèo: Là chỉ một địa bàn tương đối rộng: Có thể là một
số xã liền kề nhau ( hoặc một vùng dân cư) nằm ở vị trí rất khó khăn, hiểm
trở, giao thông không thuận lợi. Các cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, không có
điều kiện phát triển sản xuất và đảm bảo đời sống, là vùng có tỷ lệ số xã
nghèo, hộ nghèo cao.
Bên cạnh đó, còn có các khái niệm để chỉ mức độ gay gắt của nghèo
đói như:
Đói gay gắt: Là tình trạng một bộ phận có mức thu nhập dưới 8kg gạo/
người/tháng.
Đói kinh niên: (tương ứng với nghèo truyền từ đời này sang đời khác)
là bộ phận dân cư nghèo đói nhiều năm liền cho tới thời điểm đang xét.
Nghèo đói cấp tỉnh: (hay còn gọi là nghèo mới) là bộ phận dân cư rơi
vào tình trạng nghèo đói đột xuất vì nhiều nguyên nhân như phá sản và các
rủi ro khác, tại thời điểm xét.
Việc đưa ra các khái niệm nghèo cả về định tính và định lượng nhằm
phân định mức độ nghèo và tìm ra giải pháp giảm nghèo.
Tóm lại, khái niệm nghèo có thể thống nhất về mặt định tính song
không thể có một chuẩn mực chung về đói nghèo cho tất cả các quốc gia và
tại Việt Nam cũng có sự khác nhau giữa các địa phương.
1.2.Các chỉ tiêu đánh giá.

1.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá đói nghèo trên thế giới.
Để xác định các chỉ tiêu về đói nghèo, trên thế giới đã đưa ra những
chuẩn mực đánh giá khác nhau:
10
Chỉ tiêu tính theo thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu
người(GNP). Chỉ tiêu này do Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra để đánh giá
mức độ giàu nghèo của các quốc gia.
VD: Căn cứ theo GDP trên đầu người /năm vào thời điểm năm 1990 để
phân tích cho thấy:
Trên 25.000 USD : nước cực giàu
Trên 20.000 – 25.000 USD : nước giàu
Trên 10.000 – 20.000 USD : nước khá giàu
Trên 2.500 – 10.000 USD : nước trung lưu
Trên 500 – 2.500 USD : nước nghèo
Dưới 500 USD : nước cực nghèo
Việt Nam với gần 400 USD/người/năm (năm 1990) được xếp thứ
110/171 trên thế giới, nằm trong nhóm nước cực nghèo. Năm 2006, thu nhập
bình quân đầu người của Việt Nam khoảng 730USD/năm. Việt Nam chỉ xếp
thứ 122 trong số 177 quốc gia về thu nhập bình quân đầu người.
Chỉ tiêu phát triển con người (HDI) do UNDP đưa ra gồm 3 chỉ tiêu:
−Tuổi thọ trung bình dân cư
−Trình độ học vấn, bao gồm tỷ lệ biết đọc, biết viết của dân cư, số năm
đi học trung bình của người dân.
−Thu nhập bình quân đầu người.
HDI của Việt Nam được đo cho năm 2004 là 0,709 và đứng ở vị trí 109
trong tổng số 177 nước được xếp hạng. Mới đây, theo “Báo cáo phát triển con
người năm 2007/2008” của Liên Hợp Quốc cho thấy, Việt Nam hiện có chỉ số
phát triển con người HDI ở hạng trung bình, với chỉ số là 0,733. So với năm
11
trước, Việt Nam đã tăng 4 bậc từ vị trí 109 lên vị trí 105 trong tổng số 177

nước.
Chỉ tiêu chất lượng cuộc sống (PQLI): đề cập vào 3 điểm có tính phổ
biến về nhu cầu cơ bản của con người:
−Tuổi thọ dự báo khi 1 tuổi
−Tỷ lệ tử vọng của trẻ sơ sinh
−Tỷ lệ xóa mù chữ.
Sự kết hợp chỉ tiêu GNP, HDI và PQLI cho phép nhìn nhận nước giàu
nghèo chính xác và khách quan hơn. Nó cho phép đánh giá khách quan, toàn
diện sự phát triển con người trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội.
Ngoài ra, để đánh giá “nghèo khổ của con người”, Liên hiệp quốc đã sử
dụng chỉ số nghèo khổ con người – HPI hay còn gọi là chỉ số nghèo khổ tổng
hợp. Giá trị HPI của một nước nói lên rằng sự nghèo khổ của con người ảnh
hưởng bao nhiêu phần trăm dân số của nước đó. So sánh các giá trị HDI và
HPI cho thấy sự phân phối thành tựu của tiến bộ con người. Các nước có thể
có giá trị HDI như nhau nhưng giá trị HPI lại khác nhau.
1.2.2 Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo ở Việt Nam
Các chỉ số đánh giá đói nghèo được sử dụng ở Việt Nam hiện nay:
Dựa trên những định nghĩa về đói nghèo ở Việt Nam. Thước đo sử
dụng phổ biến hiện nay để đánh giá nghèo khổ về thu nhập là đếm số người
sống dưới chuẩn nghèo. Gọi là “chỉ số đếm đầu người” (HC). Từ đó xác định
tỷ lệ nghèo (Tỷ lệ đếm đầu – HCR)
Tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm của dân số. Việc sử dụng
chỉ số này là cần thiết để đánh giá tình trạng nghèo và những thành công
trong mục tiêu “giảm nghèo” của quốc gia và thế giới.
12
Tuy nhiên để phản ánh được tính chất gay gắt của nghèo đói và để có
chính sách hữu hiệu cần thiết giảm nghèo cho mọi đối tượng là người nghèo.
Các nhà kinh tế đã xây dựng chỉ số: “khoảng cách nghèo”.
Khoảng cách nghèo là phần chênh lệch giữa mức chi tiêu của người
nghèo với ngưỡng nghèo, tính bằng phần trăm so với ngưỡng nghèo. Khi so

sánh nhóm dân cư trong một nước, khoảng cách nghèo cho biết tính chất và
mức độ nghèo khổ khác nhau giữa các nhóm.
Các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá nghèo đói ở Việt Nam: được
tính trên nhiều phương diện khác nhau căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế
- xã hội của nước ta và hiện trạng đời sống trung bình phổ biến của dân cư
hiện nay. Có thể đưa ra một số chỉ tiêu chính để đánh giá đói nghèo như sau:
− Chỉ tiêu về thu nhập: Thu nhập bình quân một người một tháng (hoặc
năm) được đo bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường được dùng
lương thực (gạo) để đánh giá. Thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần túy
và cần xác định rõ chỉ tiêu thu nhập bình quân nhân khẩu tháng để xác định
mức đói nghèo.
−Chỉ tiêu về nhà ở và tiện nghi sinh hoạt: Căn cứ trên hiện trạng về nhà
cửa và các đồ dùng sinh hoạt. Chỉ tiêu này mang tính chất tương đối vì phụ
thuộc vào thời điểm đánh giá chỉ tiêu.
−Chỉ tiêu về tư liệu sản xuất: Những người nghèo đói có ít thậm chí rất
ít tư liệu sản xuất, bên cạnh đó tư liệu sản xuất của họ lại thô sơ. Một bộ phận
lớn người nghèo còn thiếu ruộng đất để canh tác, sản xuất.
−Chỉ tiêu về vốn: tính trên số tiền được sử dụng vào sản xuất kinh
doanh. Người nghèo hiện nay đa phần là đi vay nợ hoặc vay tín dụng của
ngân hàng.
13
Hiện nay, các chỉ tiêu đánh giá nghèo đói còn xét trên nhiều yếu tố
khác như: giáo dục, y tế, nguy cơ dễ bị tổn thương, không có tiếng nói và
không có quyền lực.
1.3. Chuẩn đói nghèo sử dụng trong đánh giá.
1.3.1. Chuẩn đói nghèo của thế giới.
Theo cách tiếp cận của WB, thì phạm vi nghèo khổ ngày càng được mở
rộng. Nghèo khổ thường gắn liền với thiếu thốn trong tiêu dùng. Theo cách
tiếp cận này thì nghèo khổ không chỉ dựa trên tiêu chí thu nhập mà còn gồm
cả những tiêu chí không gắn với thu nhập.

Tuy nhiên ở các nước đang phát triển, việc phân tích và đánh giá nghèo
khổ chủ yếu dựa trên tiêu chí thu nhập (hay chi tiêu). Phương pháp này cho
phép so sánh tình trạng nghèo khổ giữa các nước, các vùng khác nhau theo
thời gian nhằm cung cấp thông tin cho các chính sách công và đánh giá mức
độ thành công của chính sách đó. Phương pháp được các nhà kinh tế sử dụng
là xác định “giới hạn nghèo khổ” hay còn gọi là “đường nghèo khổ”.
So sánh quốc tế thường dựa vào một ngưỡng chi tiêu được tính bằng
đô-la một ngày. Cụ thể hơn, tính ra đô-la cùng với sức mua như ở Mỹ( còn
gọi là đô-la theo sức mua tương đương, viết tắt là PPP). Những ngưỡng nghèo
thường được dùng hiện nay là 1 đô la và 2 đô la/ngày. Đây là ngưỡng chi tiêu
có thể đảm bảo mức cung cấp năng lượng tối thiểu cần thiết cho con người,
mức chuẩn đó là 2100 calo/người/ngày.
Ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm (nghèo
đói ở mức thấp). Vì mức chi tiêu này chỉ đảm bảo mức chuẩn về cung cấp
hàng hóa phi lương thực. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết
để đạt được 2100 calo/ngày gọi là “nghèo về lương thực, thực phẩm”.
14
Bảng 1: Tỷ lệ nghèo theo ngưỡng “1 đô-la/ngày”
Chi tiêu trung bình đầu
người (theo đô la
PPP/tháng)
Tỷ lệ dân số sống dưới mức
1$ PPP/ngày 2$ PPP/ ngày
1990 41,7 50,8 87,0
1993 48,9 39,9 80,5
1996 63,7 23,6 69,4
1998 68,5 16,4 65,4
1999 68,0 16,9 65,9
2000 71,3 15,2 63,5
2001 73,8 14,6 61,8

2002 78,7 13,6 58,2
2003 82,0 12,0 55,8
2004 85,5 10,6 53,4
Nguồn: Ngân hàng thế giới, Khu vực Châu Á Thái Bình Dương (2004)
Chú thích: Đô-la tính theo sức mua tương đương được tính theo giá cố
định năm 1993
1.3.2. Chuẩn đói nghèo của Việt Nam
* Phương pháp của của Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội
Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội đưa ra ngưỡng đói nghèo tại Việt
Nam năm 1993 để hỗ trợ cá hoạt động xóa đói giảm nghèo của chính phủ. Kể
từ đó, công tác xác định tỷ lệ nghèo của Bộ LĐ-TB-XH được quyết định theo
nhu cầu xác định hộ nghèo (và xã nghèo) đủ tiêu chuẩn để nhận hỗ trợ trực
tiếp.
Bộ Lao động-Thương Binh-Xã hội dùng phương pháp dựa trên thu
nhập của hộ. Các hộ được xếp vào diện nghèo nếu mức thu nhập đầu người
của họ dưới mức chuẩn được xác định, mức này khác nhau giữa thành thị,
nông thôn, và miền núi. Tỷ lệ nghèo được xác định bằng tỷ lệ dân số có thu
nhập dưới ngưỡng nghèo.
15
Bảng 2: Ngưỡng nghèo của Bộ LĐ-TB-XH theo quy đổi ra thóc và
VND
Khu vực Bình quân đầu người/tháng
1993 1995 1997
Thời kỳ
2001-2005
Nông thôn 15 kg 20 kg
Thành thị 20 kg 25 kg
Nông thôn miền
núi và hải đảo
<15 kg

( = VND 55,000)
VND 80,000
Nông thôn đồng
bằng và trung du
<20 kg
(=VND 70,000
VND 100,000
Thành thị <25 kg
(=VND 90,000)
VND 150,000
Nguồn: Các tài liệu của Bộ LĐ-TB-XH qua các năm khác nhau.
Bên cạnh đó, Ủy ban dân tộc sử dụng ngưỡng nghèo của Bộ LĐ-TB-
XH như một trong 5 tiêu chí dùng để xếp loại các xã đặc biệt khó khăn. Tiêu
chí chọn lựa các xã nghèo:
−Tỷ lệ đói nghèo từ 25% trở lên
−Cơ sở hạ tầng: chưa đủ 3 trong 6 hạng mục cơ bản với mức độ biểu
hiện như sau:
−Nước sạch: dưới 30% tổng số hộ gia đình trong xã.
−Điện sinh hoạt: dưới 50% tổng số hộ gia đình.
−Giao thông: không có đường đến trung tâm xã, không thể đến trong
một khoảng thời gian nhất định trong năm.
−Cơ sở trường học: số phòng học (theo tiêu chí của Bộ GD-ĐT) không
thể đáp ứng hơn 70% số học sinh, hoặc phòng học tạm thời và được xây dựng
với vật liệu đơn giản
16
−Không có trung tâm y tế hoặc chỉ có trạm xá
−Không có chợ hoặc chợ tạm bợ
* Phương pháp của Tổng cục Thống kê
Tổng cục thống kê dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người để
tính tỷ lệ nghèo. Phương pháp này đã xác định 2 ngưỡng nghèo.

Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua được một số lương
thực hàng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng. Ngưỡng đói nghèo về lương
thực thực phẩm được xác định theo chuẩn mà hầu hết các nước đang phát
triển cũng như Tổ chức Y tế thế giới và các cơ quan khác đã xây dựng mức
Kcal tối thiểu cần thiết cho mỗi thể trạng con người, là chuẩn về nhu cầu
2.100 Kcal/người/ngày. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi tiêu cần
thiết để đạt được lượng Kcal này gọi là nghèo về lương thực thực phẩm.
Ngưỡng nghèo thứ hai, thường được gọi là “ngưỡng nghèo chung”,
ngưỡng này bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hóa phi lương thực.
Bảng 3: Ngưỡng nghèo ở Việt Nam
Chi tiêu bình quân đầu người/ năm
1993
(tính vào thời điểm
1/1993)
1998
(tính vào thời
điểm 1/1998)
Ngưỡng nghèo về
lương thực thực phẩm
750.000 VND 1.287.000 VND
Ngưỡng nghèo chung 1.116.000 VND 1.788.000 VND
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
* Theo Chuẩn mới của Chính phủ giai đoạn 2006 – 2010.
Năm 2006, Chính phủ quy định chuẩn nghèo mới được sử dụng thống
nhất để thuận tiện trong đánh giá tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam, chuẩn mới này
17
có tính đến tiêu chí Quốc tế để so sánh. Ngưỡng thu nhập xác định hộ nghèo
cho giai đoạn 2006 – 2010 là 200 ngàn đồng/người/tháng cho khu vực nông
thôn và 260 ngàn đồng/người/tháng cho khu vực thành thị, tính theo sức mua
tương đương khoảng 1.8 USD/ngày/người và 2 USD/ngày/người tương ứng.

Bảng 4: Tỷ lệ hộ nghèo năm 2004 và năm 2006
theo chuẩn mới của Chính Phủ giai đoạn 2006-2010 (%)
Năm 2004
(Tính theo chuẩn mới của
Chính phủ giai đoạn
2006-2010 quy về giá
tháng1/2004)
Năm 2006
Cả nước 18,1 15,5
Chia theo khu vực
Thành thị 8,6 7,7
Nông thôn 21,2 17
Chia theo vùng
Đồng bằng sông Hồng 12,9 10,1
Đông Bắc 23,2 22,2
Tây Bắc 46,1 39,4
Bắc Trung Bộ 29,4 26,6
Duyên hải Nam Trung Bộ 21,3 17,2
Tây Nguyên 29,2 24,0
Đông Nam Bộ 6,1 4,6
Đồng bằng sông Cửu Long 15,3 13,0
Nguồn:Tổng cục thống kê
1.4. Xóa đói giảm nghèo.
1.4.1. Quan niệm về giảm nghèo
Giảm nghèo được hiểu là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức
sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số
18
lượng người nghèo giảm xuống. Nói một cách khác, giảm nghèo là quá trình
chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự nghèo khổ, do đó cách giải quyết

vấn đề nghèo khổ là khác nhau. Ở nước ta, nghèo đói một phần là do nền kinh
tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế lạc hậu kém phát
triển sang nền kinh tế phát triển hiện đại. Nhận thấy, trình độ sản xuất cũ, lạc
hậu vẫn được lưu giữ, trong khi đó trình độ sản xuất mới tiên tiến chưa đóng
vai trò chủ đạo, thay thế từ đó dẫn đến sự giàu nghèo khác nhau trong các
tầng lớp dân cư. Do vậy, giảm nghèo ở nước ta chính là phải từng bước thay
đổi quá trình sản xuất cũ, lạc hậu để chuyển sang trình độ sản xuất mới cao
hơn. Đây là một quá trình lâu dài và khó khăn. Bước đầu, cách thức giảm
nghèo sẽ là tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có được khả năng tiếp cận các
nguồn lực phát triển, trên cơ sở đó giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng
nghèo. Bên cạnh đó, cần có các chính sách xã hội có tính chất bảo trợ đối với
người nghèo trước hết là đảm bảo các nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống.
Trong quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo luôn có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo ra cơ sở, điều kiện vật
chất để giảm nghèo. Ngược lại giảm nghèo là nhân tố đảm bảo cho sự tăng
trưởng kinh tế mang tính bền vững.
Quy mô và mức độ nghèo đói ở mỗi nước phụ thuộc vào hai yếu tố:
Thu nhập bình quân đầu người và mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập. Do đó, phạm vi nghèo đói tuyệt đối là sự kết hợp của thu nhập bình
quân đầu người thấp và phân phối không đồng đều. Điều này có ý nghĩa quan
trọng làm cơ sở để các nước đang phát triển có được những lựa chọn chính
sách toàn diện cho giảm nghèo đói.
1.4.2. Sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo
19
Trong thời gian vừa qua, các chính sách đổi mới của Việt Nam đã tạo
động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và đã phần nào nâng cao mức
sống của người dân. Nhưng do xuất phát điểm của Việt Nam còn thấp, do sự
phát triển không đồng đều giữa các vùng, nên còn một bộ phận dân cư đang
phải sống trong tình trạng nghèo đói, không đủ điều kiện đảm bảo cuộc sống
tối thiểu. Đây chính là vấn đề xã hội nhức nhối cần được giải quyết nếu

không sẽ gây những bất ổn về kinh tế, chính trị và xã hội.
Vấn đề xóa đói giảm nghèo là một đòi hỏi khách quan, cần giải quyết
để tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước theo hướng CNH – HĐH. Trong
thời kỳ đổi mới ở nước ta, tuy đã đạt được những thành tựu nhất định song
nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái của tiêu cực. Đó là sự phân
hóa giàu nghèo, dẫn đến tình trạng đói nghèo của một bộ phận dân cư trong
xã hội. Do đó, giải quyết thành công vấn đề xóa đói giảm nghèo sẽ tạo điều
kiện thực hiện công bằng xã hội, xóa bỏ nguy cơ phân hóa giai cấp, tiến tới
mục tiêu phát triển và phát triển bền vững của xã hội XHCN.
Xóa đói giảm nghèo tạo điều kiện cho phát triển. Đó là những điều kiện
về ăn, mặc, ở, học hành, chữa bệnh, tiếp xúc với văn hóa và văn minh trên thế
giới. Từ đó duy trì và phát triển tốt nguồn nhân lực trong tương lai, là nhân tố
quan trọng và quyết định trong quá trình phát triển.
Xóa đói giảm nghèo góp phần đảm bảo an ninh trật tự xã hội, tạo môi
trường xã hội trong sạch, thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội. Đói nghèo là
một nguyên nhân gây nên các tệ nạn trong xã hội, mất an ninh trật tự. Nó
không chỉ kéo theo hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng mà còn là nguyên
nhân quan trọng của xung đột, mất ổn định và tàn phá môi trường sống.
Vì vậy, xóa đói giảm nghèo là một việc làm hết sức cần thiết , là một
mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
20
Xóa đói giảm nghèo sẽ tạo điều kiện để phát triển kinh tế và ngược lại phát
triển kinh tế sẽ giúp giảm đói nghèo một cách nhanh chóng hơn.
2. Những tác động của đói nghèo đến sự phát triển kinh tế xã hội
2.1. Tác động của đói nghèo đến sự phát triển kinh tế.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những thành tựu nhất định
về tăng trưởng kinh tế, đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên,
nước ta vẫn là một trong nước nghèo trên thế giới.Tỷ lệ nghèo đói tuy có
giảm nhưng chưa được đánh giá là vững chắc, nguy cơ tái nghèo cao. Vẫn
còn một bộ phận dân cư sống trong cảnh nghèo đói, đặc biệt là dân cư nông

thôn, miền núi.
Nghèo đói luôn có sự tác động mạnh mẽ đến sự phát triển về kinh tế.
Nghèo đói đi liền với lạc hậu, chậm phát triển luôn là trở ngại lớn đối với
những nước đang phát triển. Do đó, xóa đói giảm nghèo là tiền đề của phát
triển. Ngược lại, sự phát triển kinh tế vững chắc gắn tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội là nhân tố đảm bảo thành công xóa đói giảm nghèo. Nghèo
đói diễn ra không chỉ ở những nước nghèo, lạc hậu mà ngay cả những nước
giàu có hoặc đạt tới trình độ phát triển cao vẫn còn một bộ phận dân cư sống
dưới mức nghèo khổ. Tuy nhiên, tỷ lệ và mức độ nghèo đói ở mỗi quốc gia và
khu vực có sự khác nhau. Điều đó thể hiện sự khác nhau về trình độ phát triển
đặc biệt là sự phát triển về kinh tế. Nghèo đói thể hiện sự phát triển chậm của
lực lượng sản xuất, sự lạc hậu kỹ thuật, trình độ thấp kém của việc thỏa mãn
nhu cầu phát triển chất lượng của con người.
Nghèo đói càng gay gắt thì phát triển càng bị kìm hãm. Trình độ phát
triển càng chậm chạp thì càng thiếu điều kiện và khả năng từ bên trong để
khắc phục nghèo đói. Chỉ có thể thoát khỏi cảnh bế tắc đó một cách căn bản
nếu tìm được cách phát triển sản xuất, với sự hỗ trợ vật chất của nhà nước và
21
toàn thể xã hội đối với người nghèo. Ở nước ta, lợi thế về đất đai, nguồn lực
lao động cũng như nguồn tài nguyên phong phú là điều kiện thuận lợi để đưa
ra những cách thức, biện pháp nhằm tăng trưởng từ đó vượt đói nghèo. Hợp
tác quốc tế và đầu tư phát triển cùng với những khả năng huy động vốn ở dân
để tạo một khối lượng lớn và quan trọng cho quỹ XĐGN. Sự đầu tư trong
nước về ngân sách và một hệ thống các chính sách, biện pháp khác thúc đẩy
XĐGN một cách thiết thực.
Tính tất yếu và bức xúc giải quyết vấn đề giảm nghèo (xóa đói) ở nước
ta còn ở chỗ trong thời đại mở cửa vấn đề hòa nhập và sự bất lợi của nước
nghèo, nước chậm phát triển trong quan hệ kinh tế với các nước khác là rất
lớn. Nước nghèo luôn thua thiệt trong cạnh tranh kinh tế với sản phẩm làm ra
với chất lượng thấp, giá thành cao hoặc hàng hóa xuất khẩu chủ yếu dưới

dạng sản xuất thô, chưa qua tinh chế nên thu được lợi nhuận rất thấp.
Đối với nước nghèo, tăng trưởng kinh tế với tốc độ chậm sẽ không có
vị thế khi đàm phán, ký kết với các nhà đầu tư nước ngoài và sẽ không đủ khả
năng tiến hành những hoạt động mang lại lợi nhuận cao như buôn bán và dịch
vụ ngân hàng. Bên cạnh tăng trưởng về kinh tế với tốc độ nhanh còn đòi hỏi
phát triển con người. Như vậy sẽ tạo ra một lực lượng sản xuất có trình độ về
văn hóa, chuyên môn và giàu kinh nghiệm để đáp ứng cũng như theo kịp sự
phát triển nhanh chóng về kinh tế. Nhưng để có được đội ngũ những người
lao động và quản lý giỏi, mà các nhà kinh tế cho rằng đó là động lực để đạt
được sự tăng trưởng cao, thì phải có sự đầu tư cao trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo và phải qua một thời gian dài. Điều này sẽ rất khó khăn đối với người
nghèo bởi lẽ khi đã đói nghèo thì việc tiếp cận với các dịch vụ như giáo dục, y
tế… bị hạn chế. Kết quả là người nghèo thường là thất học, trình độ văn hóa
bị hạn chế, sức khỏe không đảm bảo. Mặt khác khi đã đói nghèo thì thường đi
đôi với năng suất lao động thấp do lao động thường là giản đơn, ít có điều
22
kiện để trau dồi kỹ năng, kỹ sảo trong hoạt động sản xuất. Đây cũng là hạn
chế lớn của đói nghèo đối với tăng trưởng kinh tế.
2.2. Tác động của đói nghèo đến sự phát triển xã hội.
2.2.1. Về văn hóa
Từ nghèo đói về kinh tế dẫn tới nghèo đói về văn hóa. Nguy cơ này rất
tiềm tàng và thực sự là một chướng ngại vật đối với phát triển không chỉ ở
từng người, từng hộ gia đình mà còn ở cả cộng đồng, kìm hãm sự phát triển
xã hội.
Ở một trình độ phát triển thấp, nghèo đói về kinh tế luôn là sự nổi trội
gay gắt nhất. Do đó mục tiêu phấn đấu là đạt tới sự giàu có. Nhưng sự giàu có
chỉ thuần về vật chất, kinh tế mà vắng bong sự phát triển văn hóa, tinh thần,
sự định hướng giá trị sẽ kích thích tính thiển cận, chủ nghĩa thực dụng, sự
thiếu hụt hoặc lệch chuẩn về mặt nhân văn, nhân cách con người…Đi vào lối
sống, sự sùng bái giàu có vật chất là nguy cơ phát triển cái xấu, cái ác, làm

nghèo nàn biến dạng cái thiện, cái chân, cái mỹ. Nếu tình trạng đó xảy ra ở
lớp trẻ sẽ càng làm nguy hại, đẩy tới sự nghèo nàn, cằn cỗi về văn hóa và
nhân cách. Nó kìm hãm sự phát triển không kém gì lực cản đói nghèo về kinh
tế, thậm chí còn tệ hại hơn.
Do đó, trong khi tập trung mọi nỗ lực chống đói nghèo về kinh tế, cần
sớm cảnh báo xã hội những nguy cơ và tác hại của đói nghèo văn hóa để tránh
khỏi những đáng tiếc do sự thiếu hụt về văn hóa.
2.2.2. Về chính trị.
Nghèo đói về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các mặt xã hội và chính trị. Các
tệ nạn xã hội phát sinh như trộm cắp, cướp giật, ma túy, mại dâm…đạo đức bị
suy đồi, an ninh xã hội không được đảm bảo đến một mức nhất định có thể
23
dẫn đến rối loạn xã hội. Nếu nghèo đói không được chú ý giải quyết, tỷ lệ và
cấp độ của nghèo đói vượt quá giới hạn an toàn sẽ dẫn đến hậu quả về mặt
chính trị như mất ổn định chính trị, ở mức cao hơn là khủng hoảng chính trị.
Nếu giải quyết không thành công vấn đề giảm nghèo (trước hết là xóa
đói) sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói
chung. Như thế mục tiêu phát triển và phát triển bền vững của đất nước cũng
không thể thực hiện được. Đối với nước ta trong giai đoạn bước ngoặt của sự
phát triển hiện nay nếu không tập trung vào xóa đói giảm nghèo thì sẽ không
tạo được tiền đề để khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm đưa đất nước thoát khỏi
tình trạng nghèo, kém phát triển và nguy cơ bị tụt hậu.
Nghèo về kinh tế luôn dẫn đến căng thẳng về xã hội và chính trị. Nghèo
đói của dân cư đang là lực cản kinh tế - xã hội lớn nhất đối với các nước
nghèo hiện nay trong quá trình phát triển. Do vậy, nghèo đói và lạc hậu luôn
đi liền với nhau, luôn là một vấn đề bức xúc nhất hiện nay mà mỗi quốc gia,
dân tộc và cộng đồng quốc tế phải cùng hợp sức giải quyết.
2.2.3. Về nguồn lực con người
Nguồn lực con người luôn là một trong những nguồn lực quan trọng

nhất của mỗi quốc gia. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của con người trong sự
phát triển. Con người vừa là động lực vừa là mục tiêu mà thiếu một trong hai
điều kiện đó sẽ không có sự phát triển. Tuy nhiên, nguồn nhân lực phát huy
được vai trò của nó không phải ở ưu thế về số lượng mà ở chất lượng. Nguồn
nhân lực mà có quy mô lớn nhưng lại có chất lượng thấp sẽ trở thành nhân tố
kìm hãm sự phát triển.
Đói nghèo đã ảnh hưởng rất lớn tới đời sống vật chất và tinh thần của
con người. Khẩu phần ăn của người nghèo luôn ở mức thiếu hụt năng lượng
24
so với năng lượng khẩu phần ăn hợp lý. Do bữa ăn thiếu và mất cân đối kéo
dài đã ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng chung. Kết quả là thể trạng của
người nghèo, nước nghèo thường có chỉ số kém hơn so với nước giàu, những
người có khẩu phần ăn đầy đủ chất dinh dưỡng.
Đói nghèo còn ảnh hưởng tới vấn đề sức khỏe con người, đi liền với nó
là bệnh tật, tuổi thọ bình quân giảm, điều kiện vệ sinh, chăm sóc y tế… Bên
cạnh đó, mối tương quan giữa nghèo đói và tình trạng mù chữ cũng khá chặt
chẽ. Càng nghèo thì tỷ lệ mù chữ càng cao và ngược lại. Số năm đi học bình
quân ở các nước kém phát triển luôn thấp hơn so với những nước phát triển,
và có sự khác biệt khá lớn.
Nhìn chung, nghèo đói đang là một trở ngại lớn với sự phát triển trí lực.
Người nghèo thường không có khả năng và điều kiện để tiếp xúc với những
tiến bộ khoa học kỹ thuật, gây hạn chế lớn trong nhìn nhận và hiểu biết về
những vấn đề kinh tế xã hội.
Tóm lại, nghèo đói không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới thể trạng sức
khỏe mà còn ảnh hưởng tới trình độ tri thức của con người, qua đó làm ảnh
hưởng tới nguồn nhân lực con người - động lực quan trọng để phát triển.
2.2.4. Địa vị kinh tế - xã hội của người nghèo trong cộng đồng.
Nhận thấy, trong mọi lĩnh vực, địa vị chính trị xã hội của người nghèo
đều thấp hơn một cách đáng kể so với mức trung bình (về lượng) và những vị
trí vừa phải và thấp trong chính quyền đoàn thể (về chất). Có 3 lý do cơ bản

dẫn đến tình trạng trên. Thứ nhất đó là vì người nghèo ít có khả năng và điều
kiện tham gia vào công tác xã hội, phần lớn thời gian của họ là lao động nuôi
sống gia đình mình. Thứ hai, là do học vấn của người nghèo thường thấp hơn,
ít có điều kiện học hỏi nên trình độ hiểu biết hạn hẹp, không thể tham gia vào
các công tác chính trị - xã hội được. Thứ ba là bản thân người nghèo không
25

×