Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Cảm nghĩ về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – bài mẫu 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.86 KB, 3 trang )

Cảm nghĩ về nhân vật ông Hai trong tác phẩm
Làng của Kim Lân – bài mẫu 4
Tôi sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nghèo. Quê tôi có bao điều, bao cảnh sắc thiên nhiên đáng nhớ. Từ
những con đường làng đất đỏ đến những rặng tre chạy dọc bên bờ sông, tữ những đứa trẻ thơ lớn lên
trong vòng tay âu yếm của mẹ đến những hình dáng người bà trên triền đê thương nhớ. Có lẽ bởi từ đó tôi
càng thêm thấu hiểu những trang thơ của Đỗ Trung Quân:
‘’Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người’’
Qua đó tôi càng them yêu quý quê hương mình hơn, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi để giờ đây trưởng
thành, vẫn không phút nào tôi nguôi nỗi nhớ nhung, yêu mến quê tôi. Một lần nữa, tình cảm ấy lại giấy
lên trong long tôi những bồi hồi, lắng sâu khi đọc truyện ngắn Làng của Kim Lân. Nhưng có lẽ ấn tượng
để lại trong tôi nhiều rung cảm mạnh mẽ nhất đó chính là nhân vật Ông Hai với một tình yêu quê hương
da diết, mãnh liệt.
Bằng sự gắn bso và vốn am hiểu sâu sắc của mình về cuộc sống của người nông dân, nhà văn đã miêu tả
một cách chính xác và rất tinh tế diễn biến tâm lí của nhân vật, đồng thời như đưa ta về với hình ảnh của
làng quê xưa với những gì mọc mạc, chân thật và bình dị nhất về con người, về cuộc sống giản dị của một
thời.
Tình yêu quê hương là tình cảm truyền thống của con người Việt Nam. Với họ, quê hương đã trở thành
mảnh tâm hồn gắn bó, ăn sâu vào tiềm thức không thể quên. Người dân Việt đi xa vẫn hướng trái tim
mình về quê cha, đất mẹ. Nó đã là máu thịt, là linh hồn và ông Hai cũng không nằm ngoài trong số họ.
Tâm trí ông luôn ẩn hiện, ôm trọn hình bóng nơi làng quê., ngôi làng “Chợ Dầu” nhỏ bé mà tinh thần
hăng hái, đầy nhiệt huyết cách mạng.
Trước cách mạng, ông Hai khoe làng rất nhiệt tình và hào hứng. Ông luôn mang trong mình niềm tự hào
lớn về một ngôi làng giàu đẹp, cái gì cũng nhất vùng. Một ngôi làng như thế khiến ông rất say mê những
câu chuyện kể như lời mời gọi tất cả đến thăm, ở đó có “đường làng lát bằng đá xanh, trời mưa gió, đi từ
đầu làng đến cuối làng không sợ bùn dính gót chân”, là những nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh”. Bao
lời kể của ông như thấm vào tim ta những niềm hứng khởi, như muốn trở về với làng “Chợ Dầu” ngày
xưa ấy. Dường như hình ảnh ngôi làng luôn thường trực trong tâm trí của lão nông ấy để khi nói về nơi
nuôi dưỡng mình, chốn quê thân thuộc “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”.
Ông tự hào về làng mình, hãnh diện khi kể về cái “phòng thông tin” tuyên truyền sáng sủa, chiều chiều
loa gọi thì cả làng nghe thấy. Độc giả như bị cuốn hút, tò mò về làng ông. Ngôn ngữ vừa mộc mạc, bình


dị thể hiện rõ những nét tâm trạng của người nông dân, nhà văn đã cho ta thấy rõ những tình cảm yêu
làng da diết của ông Hai. Đặc biệt, khi ông khoe về cái sinh phần của cụ cố Thượng “vườn hoa,cây cảnh
nom như động”. Tính khoe làng của ông Hai trong những ngày trước cách mạng thật sôi nổi, háo hức. Nó
xuất phát từ niềm kiêu hãnh và lòng tự hào, gắn bó tha thiết về làng quê của ông Hai.
Sau cách mạng, tình cảm ấy càng trở nên sâu đậm hơn. Khi kháng chiến thành công, làng quê cũng có
nhiều đổi mới và tình yêu làng của ông Hai cũng phần nào có sự đổi mới quan trọng.
Được sự giác ngộ trong chiến đấu, ông không còn đả động đến cái sinh phần của viên tổng đốc như ngày
trước nữa vì đó là cái lăng đã khiến cho nhiều an hem trong làng phải khổ sở phục dịch. Giờ đây, hình
ảnh ngôi làng trong tiềm thức của ông đã khác xưa. Ông khoe những điều giản dị mà đầy ý nghĩa. Không
khí trong những ngày làm kháng chiến cứ sôi động, thúc giục lòng ông. Phong trào xây dựng làng chiến
đấu rất náo nhiệt và sôi nổi. Ông lại nhớ về những ngày “tập quân sự”, những tiếng hô “Nghiêm ạ…”cứ
vang lên trong đầu ông, những buổi đào hào, đắp ụ cùng bao an hem đồng chí.
Quê hương, bản quán nơi gắn bó máu thịt của mình làm sao ta có thể quên? Có lẽ bởi thế, tinh thần lão
nông rất phấn trấn, kể chuyện về làng ông “ngồi vén quần lên tận bẹn”. Yêu làng, không đành ngồi nhìn
kẻ thù giày xéo, xâm lăng, ông đã ra nhập phong trào “từ hồi kì còn bóng tối”. ông tình nguyện, hăng hái
ở lại làng, ông hối hả công việc bận rộn tối mặt “công việc như lửa đốt dầu” không thể lên nơi tản cư
ngay được. Ông lão say sưa kể chuyện, khoe về những thành tích của làng và thậm chí còn say sưa hơn
nữa khi trong đó có cả công lao của mình. Tự hào về khí thế cách mạng sôi động của làng, ông Hai rất
hứng khởi, vui sướng, nhiệt tình tham gia và xung phong bảo vệ làng.
Khi bà Hai lên đón ông đến nơi tản cư, ông lão không đi và tự nghĩ “mình sinh sống nơi này từ tấm bé
đến giờ…công việc là công việc chung, chứ của riêng mình ai? Ông cho rằng, mình cần ở lại làng, giúp
làng làm kháng chiến” cái lúc hữu sự như thế này mình lại bỏ làng đi thì còn ra thế nào nữa”.
Nhưng vì hoàn cảnh, vì vợ con mình, ông đã phải dứt áo ra đi nơi tản cư mặc dù trong lòng vẫn còn nhiều
lưu luyến, day dứt, không muốn xa cái làng ấy.
Sống ở nơi xa quê, xa nhà nhưng tâm trí ông Hai, trái tim ông vẫn luôn hướng về quê hương, ngôi làng
chợ Dầu “tinh thần sôi nổi”.
Ông Hai suốt ngày chỉ buồn bực, hơi một tí là gắt vì chán cảnh “ăn nhờ ở đậu”. nhưng cũng đành vậy,
biết làm thế nào?. Hình ảnh ngôi làng luôn là điểm tựa tâm hồn cho tấm lòng ông. Khi đi làm về mệt,
buổi trưa nắng hè oi ả, tưởng chừng như ông vắt tay lên trán và sẽ ngủ tiếp đi nhưng không, ngôi làng
Dầu với bao hình ảnh đẹp lại sống dậy trong tâm trí ông. Nhớ về những ngày kháng chiến “đào hào đắp

ụ”, lòng ông lại náo nức, chân tay như múa cả lên. Để rồi ông phải bật ra tiếng lòng mình “Ồ! Sao mà độ
ấy vui thế?” ta cảm thấy thật đáng trân trọng tình cảm của lão nông tuy già, cao tuổi, nhưng tinh thần vẫn
sôi nổi, sục sôi phong trào yêu nước. ông muốn về làng quá, nỗi mong chờ, nhớ nhung luôn thường trực
khôn nguôi.
Vì vậy, hang ngày ông thường sang bên gian nhà bác Thứ khoe về làng mình để phần nào vơi đi nỗi nhớ
ấy và cugnx là cho sướng cái tai, cho đỡ nhớ. Và như thế, khoe làng đã trở thành một thói quen,một món
ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của lão nông thuần phác ấy. nhưng ta có thể nhận
thấy rằng, đằng sau cái thói quen tưởng chừng như ngớ ngẩn ấy lại là cả một tấm lòng chân thực của ông
đối với làng, là cả tình yêu thiêng liêng cao quý và niềm tự hào chân chính của ông Hai.
Với ông Hai cũng như mọi người dân Việt Nam, yêu làng gắn liền với yêu nước, gắn bó với kháng chiến
với cụ Hồ. Nơi tản cư xa quê, không được tham gia cách mạng nhưng ông Hai vẫn thường xuyên vào
phòng thông tin nghe tình hình, tin tức kháng chiến. Bước vào gian phòng ấy hôm nay, ruột gan ông lão
như múa cả lên vì nghe được nhiều tin hay, nóng bỏng. Nào là “em bé trong đội tình nguyện xung phong
bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm cờ”, “đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người bán hang đã bắt được tên
quan hai bốt Thao ngay giữa chợ”…rất nhiều tin kháng chiến đáng mừng, đáng khâm phục! người dân
Việt trong mưa bom bão đạn đã dũng cảm vượt lên khó khăn.
Khi nghe tin của đám người tản cư mới lên là làng Chợ Dầu theo giặc, ông Hai đã vô cùng sửng sốt, thất
vọng. Ông như không còn tin vào chính mình nữa vậy. Từ đó, đã ba, bốn ngày ông không dám bước chân
ra khỏi nhà, chỉ dám lẳng lặng nghe ngóng binh tình lên ngoài ra sao? Hẳn phải là một con người giàu
lòng tự trọng, ông Hai mới có những biểu hiện như vậy. Mặc dù không ai biết rằng ông là người làng chợ
Dầu lên ngoài mấy người sống cạnh nhà ông nhưng ông lão vẫn rất hỏ thẹn, vì yêu làng nên khi được tin
dữ ấy,ông Hai đã trằn trọc không ngủ yên. Cái tin ấy đã trở thành nỗi ám ảnh day dứt lớn. Nhìn lũ trẻ con
mà ông thấy thương “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Nước mắt ông lão cứ trào ra rồi ông
rít lên trong nỗi đau khổ, uất ức vì nhục “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái
giống Việt gian bán nước nhục nhã thế này?
Ông hai đã từng nhớ làng chợ Dầu đến da diết, từng ao ước trở về làng mãnh liệt nhưng bây giwof, ông
thực sự thất vọng về ngôi làng ấy. ông đã xác định được, về làng tức là chịu quay đầu làm nô lệ cho Tây,
về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hộ. Ông nói “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”.
Như vậy, tình yêu làng đã thống nhất, bao trùm lên tình yêu đất nước. Lúc này, yêu làng nhất là phải bỏ
làng, ông chỉ yêu làng khi làng làm kháng chiến theo cụ Hồ.

Dù đã xác định như vậy nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ cái tình đối với ngôi lang, trong cái bế tắc và sự
than khổ tủi nhục, ông chỉ còn biết giãi bày tâm sự với thằng Húc con ông để chứng minh cho tấm lòng
trong sạch của mình.
Ông hỏi đứa con ngây thơ của mình “thế nhà con ở đâu? Con có thích về làng không?” Lời nói cất lên mà
nghẹn ngào, nhuốm vị đắng cay, tủi hổ. Mặc dù ngôi làng theo tây rồi nhưng ông vẫn muốn nhắc con phải
nhớ về cội nguồn, quê cha đất tổ của mình: “…nhà ta ở làng Chợ Dầu”.
Nước mắt ông lão giàn ra chảy ròng ròng trên 2 má, ông nói thủ thỉ: “thế con ủng hộ ai?”…Ủng hộ cụ Hồ
con nhỉ? Ông nhắc con phải noi gương cụ Hồ Chí Minh thể hiện tấm lòng thủy chung với kháng chiến,
với cách mạng, Ông lão nói nhue để ngỏ lòng mình, minh oan cho mình “cụ Hồ trên đầu trên cổ soi cho
bố con ông”/
Những lời tâm sự với đứa con thực chất là lời tự nhủ với lòng mình, tự giãi bày nỗi lòng mình. Qua đó
cho thấy tình yêu sâu nặng của ông đối với ngôi làng, thật sâu xa bền vững và đáng trân trọng biết bao!
Ngay khi nghe tin làng cải chính, cả ngôi làng chợ Dầu ấy không theo Việt gian mà đã tham gia chiến đấu
rất anh dũng thì với một người yêu làng như ông Hai hẳn là không khỏi vui sướng vô hạn “cái mặt ông
bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên, mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy” và ông còn chia
quà cho các con. Dường như lúc này, tính khoe làng lại bừng cháy trong lòng ông, vẫn cái dáng điệu quen
thuộc ngày nào, ông lật đật đi thẳng sang bên gian bác Thứ, chưa đến bậc cửa ông đã vội báo ngay “Tây
nó đốt nhà tôi rồi bác ạ- Đốt nhẵn”, rồi lại đi tiếp khoe với ông chủ nhà, mọi người tin đó.
Có thể nói nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi xây dựng được tình huống đi ngược với tâm lí người
thường. nhưng đặt nhân vật vòa trường hợp ấy, nhà văn có dụng ý muốn thể hiện tình cảm yêu làng đến
mãnh liệt của người nông dân thuần phác như ông Hai.
Nhà ông bị đốt nhẵn nhưng ta không thấy điều gì lưỡng lự trong lời nói ấy mà ông cứ múa cả chân tay lên
mà khoe với mọi người. cái tin ấy như có phép hồi sinh khiên ông vui sướng hả hê. Bởi đó là một bằng
chứng hùng hồn chứng minh rằng ông không phải là dân làng Việt gian, làng Dầu vẫn là làng kháng
chiến. Cái tin ấy đã giúp ông rũ bỏ mọi bế tắc tủi nhục. Ngôi nhà ruộng vườn là tài sản quý giá tích cóp từ
bao đời mới tạo dựng lên được nay bị đốt sạch mà ông vẫn thấy vui bởi lẽ, nhà ông không còn nhưng thay
vào đó là danh dự của làng được bảo toàn, trong sự cháy rụi của nhà ông, làng ông lại là một sự hồi sinh
của làng Dầu khác, là cái làng ông đã từng yêu, cái làng đã từng anh dũng, kiên cường theo cách mạng rất
đáng tự hào. Niềm vui ấy thể hiện tấm lòng yêu nước sẵn sang hi sinh tất cả cho kháng chiến. Quả là niềm
vui của ông Hai chất phác, vô tư và ngời sáng lòng yêu nước cao cả.

Và như thế trang truyện khép lại nhưng vẫn luôn để lại trong ta những dư âm sâu sắc về một tình yêu làng
da diết như ông Hai. Tình yêu làng thắm thiết ấy đã thống nhất với tình yêu nước, yêu kháng chiến. Với
nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật và cách xây dựng tình huống độc đáo, Kim Lân đã khắc họa
thành công hình ảnh ông Hai là biểu tượng của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Họ
đã có những nhận thức đúng đắn hơn khi được ánh sáng cách mạng soi đường. Họ là những người đem
xương máu đánh giặc “giữ làng giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” và luôn sẵn sàng hi sinh
những gì quý giá nhất cho cuộc đời, cho cách mạng, cho kháng chiến.

×