Cảm nhận về mùa xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Không chỉ trong các tác phẩm văn chương nghệ thuật và những kiệt tác Người để lại, mà trong toàn bộ
cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thiên nhiên và mùa xuân đất nước luôn gắn bó
mật thiết, rất gần gũi, thân quen và là đối tượng khơi nguồn cảm hứng, góp phần tạo nên sự phong phú đa
dạng trong tư tưởng và tình cảm của Người.
Nói đến thơ Xuân của Bác, chúng ta nhớ tới một bài thơ được Bác viết khi Người ở chiến khu Việt Bắc –
bài Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng):
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(1948)
Chỉ với bốn câu thơ thất ngôn, Bác đã khơi gợi trước mắt người đọc vẻ đẹp thơ mộng, tràn đầy, viên
mãn của mùa Xuân. Xuân ở đây được soi tỏ trong không gian và thời gian hết sức đặc biệt: Một đêm rằm
trên sông nước bao la. Chọn thời điểm đêm Xuân vào ngày rằm của tháng mở đầu một năm mới, Bác đã
gợi lên trong sự liên tưởng của mọi người về vẻ đẹp của mùa Xuân. Nhưng khi đọc thơ Bác, người đọc
vẫn không khỏi bất ngờ bởi góc nhìn đầy tươi mới của thi nhân:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
(Bản dịch của Xuân Thuỷ)
Trong ánh trăng soi tỏ, cả trời mây sông nước ngập tràn sắc xuân: Xuân giang, Xuân thuỷ, Xuân thiên.
Mùa Xuân trải rộng cùng thiên nhiên: Vẫn dòng sông ấy, vẫn màu nước ấy, vẫn mây trời ấy – sang Xuân
lại mang một màu sắc mới: tươi sáng, trong lành và quyện hòa, chứa chan vào nhau. Bản dịch của Xuân
Thuỷ đã đánh mất một chữ so với nguyên tác (xuân thuỷ). Câu thơ của Bác đầy chất tạo hình: dòng sông,
mặt nước, bầu trời lung linh trong ánh trăng rằm. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ sức khơi gợi một không gian
vũ trụ bao la, rộng lớn.
Trong không gian đó thiên nhiên và con người như hoà nguyện vào nhau, tìm thấy vẻ đẹp trong nhau:
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Sau mười bốn tháng đằng đẵng trong tù, Người trở về làm việc tại chiến khu Việt Bắc. Đây là thời kì
Bác bận rộn lo việc quân, việc nước. Câu thơ vừa cổ kính (yên ba thâm xứ) vừa hiện đại (đàm quân sự),
vừa mang chất thơ vừa quyện chất đời. Con người mở rộng tâm hồn đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên song
không chìm đắm, lãng quên nhiệm vụ. Còn thiên nhiên, mà cụ thể ở đây là ánh trăng, dường như cũng
thấu hiểu công việc cao đẹp của con người nên toả rạng, chứa chan, ngập tràn lên không gian ấy (nguyệt
mãn thuyền). Con người và thiên nhiên hoà quyện, tôn thêm vẻ đẹp cho nhau. Cảnh mến người, người
yêu cảnh!
Phải có một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, một phong thái ung dung, tự tại của một thi nhân – chiến sĩ,
Bác mới có thể đem lại cho đời những vần thơ tươi đẹp như vậy!
Xuân trong thơ Bác không chỉ là mùa Xuân hiện hữu của đất trời mà còn là mùa Xuân của cuộc
sống, của lòng người.
Năm 1945, Chính phủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đi lên chiến khu Việt Bắc đã họp lần
đầu trong một cái miếu trên đường đi giữa hai huyện miền núi. Sau cuộc họp có một bữa cơm thân mật
với thịt lợn rừng vừa săn được và ngô nướng, rượu ngọt, chè tươi. Giữa chốn rừng xa lạ đầy gian khổ,
thiếu thốn, để động viên tinh thần lạc quan của mọi người, Bác đã làm tặng bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc:
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thường chén thịt rừng quay
Non xanh nước biếc tha hồ
Rượu ngot, chè tươi mặc sức say
Kháng chiến thành công ta trở lại
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.
Với cách nhìn của Bác, cuộc sống ở núi rừng Việt Bắc hiện lên đầy thi vị. Đó không còn là chốn núi
rừng vắng vẻ, u tịch mà luôn ngập tràn rộn rã bởi những âm thanh: Vượn hót, chim kêu sốt cả ngày. Đó
cũng không còn là nơi gian khổ, thiếu thốn mọi bề mà là chốn thảnh thơi, phong lưu, dư dả. Thực đơn
mời khách có thể rất dân dã như ngô nướng, chè tươi song cũng không thiếu thốn những món ăn, thức
uống cao sang: rượu ngọt, thịt rừng quay. Không chỉ thính giác, vị giác được thoả thê, mà thị giác cũng
được thoả lấp: này non xanh, này nước biếc, có nơi nào mời gọi bước chân thưởng ngoạn của du khách
hơn chốn nước non tươi đẹp, hùng vĩ này.
Trước khung cảnh thiên nhiên giàu đẹp, phong phú như thế, Nhà thơ không khỏi thốt lên câu cảm
thán: Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay. Chỉ với chữ hay này Bác đã làm nổi bật được sự yêu thích và cảm
giác thú vị của mình khi được sống và làm việc trên mảnh đất căn cứ địa kháng chiến thần thánh của dân
tộc. Với cảm nhận đó, cuộc sống nơi đây thực sự luôn làm mùa Xuân, tràn đầy sức Xuân trong trái tim
bình dị và rất đỗi lớn lao, cao cả của Người:
Kháng chiến thành công ta trở lại
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.
Xuân trong thơ Bác còn là nguồn cảm hứng để người bày tỏ một cái nhìn lạc quan, biện chứng về xu
thế vận động, phát triển của lịch sử, của dân tộc. Trong bài Tự khuyên mình Người viết:
Nếu không có cảnh đông tàn
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ mình trong bước gian truân
Gian nan rèn luyện tinh thần thêm hăng.
Mùa Xuân ở đây được khơi gọi trong mối tương quan đối lập với mùa Đông. Đông về, giá lạnh, khắc
nghiệt. Xuân tới, ấm áp và sắc tươi. Bốn mùa luân chuyển: hết Đông tất tới Xuân. Cuộc sống con người
cũng vậy. Để có được mùa Xuân rạng rỡ, huy hoàng, đừng ngại gian truân, vất vả. Khó khăn trong thực
tại là cơ hội tốt nhất để con người trải nghiệm, trưởng thành. Nắm được quy luật tất yếu của lịch sử, của
xã hội, Bác luôn nhìn cuộc sống, nhìn cách mạng với một lòng tin tưởng sâu sắc, một tinh thần lạc quan
vô bờ bến.
Thơ viết về mùa Xuân chiếm một vị trí đặc biệt trong thơ Hồ Chí Minh.
Xuân gửi người chiến sĩ:
Áo rét gửi mau cho chiến sĩ
Trời loe, nắng ấm báo Xuân sang.
(Tư chiến sĩ)
Xuân suy tư trăn trở cùng cuộc sống của người dân:
Nghe nói Xuân nay trời đại hạn
Mười phần thu hoạch chỉ vài phân.
(Đồng chính)
Xuân sum vầy, lạc an trong ngày sinh nhật của Người:
Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán
So với ông Bành vẫn thiếu niên.
Sau mỗi độ Tết đến Xuân về, mỗi người dân Việt Nam đều nhớ tới Bác, nhớ tới những vần thơ chúc
Tết hàng năm của Bác. Những lời thơ chân thành, giản dị mà xiết bao xúc động lòng người!
Những bài thơ chúc Tết của Bác là món quà đầu Xuân được bọc trong giấy hồng đơn, là tấm lòng của
Người gửi tới nhân dân trên khắp mọi miền:
Mấy lời thành thật nôm na
Vừa là kêu gọi, vừa là mừng Xuân
Bính Tuất 1946 là mùa Xuân đầu tiên nước nhà được độc lập. Mùa Xuân còn hừng hực khí thế cách
mạng của những sự kiện lịch sử vừa qua: Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà ra đời, tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước ta. Nhân dân vui mừng, phấn khởi trước
thắng lợi to lớn của đất nước sau bao nhiêu năm chìm đắm trong đêm trường nô lệ.
Trong cái Tết đặc biệt 60 năm về trước này Bác Hồ đã có đến ba bài thơ Xuân chúc Tết đồng bào và
chiến sĩ cả nước: Chúc Tết Bính Tuất – 1946, Mừng báo Quốc gia, Gửi chị em phụ nữ Xuân Bính
Tuất. Chưa có năm nào Bác có nhiều thơ chúc Tết như vậy.
Đối với Bác, với nhân dân ta, mùa Xuân 1946 này mới thực sự là mùa Xuân Dân chủ Cộng hoà, Tết
này mới thực sự là Tết độc lập, tự do:
Tết này mới thực Tết dân ta
Mấy chữ chào mừng báo Quốc gia
Độc lập đầy vơi ba chén rượu
Tự do vàng đỏ một rừng hoa
Mọi nhà vui đón Xuân Dân chủ
Cả nước hoan nghênh Phúc Cộng hoà.
Không chỉ chúc Tết, Bác còn kêu gọi mọi người cùng nhau phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng để phục vụ
cho cuộc kháng chiến và dựng xây đất nước:
Phải gắng làm sao
Xây đời sống mới.
Và Người động viên, hẹn cùng các chiến sĩ phương xa:
Bao giờ kháng chiến thành công
Chúng ta cùng uống một chum rượu đào
Tết này ta tạm xa nhau
Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy.
Con đường phía trước còn nhiều gian khổ, song Người vẫn mang trong mình một niềm tin trọn vẹn
vào thắng lợi tất yếu của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến trường kì Người vẫn luôn dõi theo từng buớc đi
của dân tộc để động viên khích lệ tinh thần nhân dân cả nước.
Xuân 1949, Bác nhắn nhủ:
Kháng chiến lại thêm một năm mới
Thi đua yêu nước thêm tiến tới
Động viên lực lượng và tinh thần
Kháng chiến càng thêm mau thắng lợi.
Xuân 1952, Bác khẳng định:
Xuân này, Xuân năm Thìn
Kháng chiến vừa sáu năm
Trường kỳ và gian khổ
Chắc thắng trăm phần trăm.
Xuân 1967, Bác kêu gọi:
Xuân về xin có một bài ca
Gửi chúc đồng bào cả nước ta
Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi
Tin mừng thắng trận nở như hoa.
Xuân 1968, Bác mừng vui:
Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà
Nam Bắc thi đua dánh giặc Mỹ
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta.
Xuân 1969, mùa Xuân cuối cùng nhân dân được đón nhận thơ chúc Tết của Người. Những vần
thơ đầy tin tưởng của Bác đã trở thành phương châm hành động và tiên tri chính xác cho thắng lợi vĩ đại
của dân tộc ta bảy năm sau:
Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào
Bắc Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!
Và đúng như dự báo của Người, với chiến thắng lịch sử 30/4/1975, một mùa Xuân mới bắt đầu trên
đất nước Việt Nam, mùa Xuân độc lập, hoà bình, thống nhất. Niềm tin vững chắc của Bác đã thành hiện
thực. Chỉ tiếc rằng, Người đã không còn trên cõi đời này để được tận mắt chứng kiến niềm hạnh phúc lớn
lao không sao kể xiết của triệu triệu người Việt Nam trên Tổ quốc thống nhất.
Mỗi chúng ta, khi nhớ về Người, lòng lại nghẹn ngào trước mong ước khôn nguôi suốt cuộc đời của
Bác:
Bắc Nam sum họp, Xuân nào vui hơn.
Mùa Xuân của nhân dân, của đất nước mãi là mùa Xuân tươi đẹp nhất trong trái tim thiêng
liêng, ngời sáng của Hồ Chí Minh.