Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Lý luận của chủ nghĩa mác về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thực tiễn từ 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.56 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐHSP NGHỆ THUẬT TW
KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG
--------

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

Tên đề tài : Lý luận của chủ nghĩa Mác về quy luật Quan Hệ Sản
Xuất phù hợp với trình độ phát triển của Lực Lượng Sản Xuất. Thực
tiễn vận dụng quy luật này ở VN từ 1975 đến nay.

Họ và tên: Vũ Ngọc Diệu Linh
Số điện thoại : 0375397941
Thời gian học: Buổi Chiều Thứ Hai
Mã mơn học: POL2009
Lớp tín chỉ số: 21.06

Hà Nội, 04/2022


MỤC LỤC

Trang

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài………………………………….………...……….………………1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu……………….….……...……………….………2
3. Phương pháp nghiên cứu……………………….….…...…………………………2

NỘI DUNG


CHƯƠNG I – LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ
SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT
1.1. Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất…………………………………..3
1.2. Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất…………………………………….7
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất…….9
1.3.1. Quan hệ sản xuất được hình thành, phát triển và biến đổi dưới ảnh
hưởng quyết định của lực lượng sản xuất……………………………………………9
1.3.2. Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
sự phát triển của lực lượng sản xuất………………………………………………...10
CHƯƠNG II – THỰC TIỄN VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT
PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở
VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY
2.1. Điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam sau 30/4/1975……………………….….12
2.2. Thực tiễn vận dụng quy luật ở Việt Nam từ 1975-1986………………………12
2.3. Thực tiễn vận dụng quy luật ở Việt Nam từ năm 1986-nay………………….15

KẾT LUẬN………………………………………………………...………….17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...…………………………………19


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Kinh tế chính trị Mác- Lênin có vai trị quan trọng trong việc phát triển đời
sống xã hội không chỉ với nước ta mà trên tồn thế giới. Trong cơng cuộc đổi mới
đất nước hiện nay, việc học tập và nghiên cứu kinh tế chính trị Mác- Lênin càng
được chú trọng nhằm khắc phục những lạc hậu trong tư duy về những lý luận kinh
tế, sự giáo điều tách rời lý luận với cuộc sống, góp phần hình thành nên tư duy
kinh tế mới cho người lao động.
Từ khi con người bắt đầu xuất hiện trên trái đất cho đến nay đã trải qua năm

phương thức sản xuất tồn tại trong 5 chế độ xã hội: công xã nguyên thuỷ, chiếm
hữu nô lệ, phong kiến tập quyền, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Theo thời
gian tư duy của con người ngày càng phát triển hồn thiện hơn. Chính sự thay đổi
về tư duy và nhận thức đã kéo theo những sự thay đổi về sự phát triển của lực
lượng sản xuất cũng như quan hệ sản xuất. Từ hái lượm săn bắt để duy trì cuộc
sống đến trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu và đến ngày nay trình độ khoa học đã
đạt tới mức tột đỉnh. Mà cốt lõi của nền sản xuất xã hội chính là sự thống nhất
biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, như Mác và Ăngen nói,
đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
được Mác và Ăng Ghen vươn lên đỉnh cao trí tuệ nhân loại không chỉ trên phương
diện triết học mà cả chinh trị, kinh tế học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Dưới
những hình thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức được hay khơng thì
nhận thức của hai ông về quy luật vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển. Biện chứng
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho chúng ta có được nhận
thức về sản xuất xã hội và kinh tế. Để thấy được vị trí cũng như ý nghĩa của nó, em
xin trình bày một vài phân tích và ý kiến bản thân về đề tài “Lý luận của chủ
nghĩa Mác về quy luật Quan Hệ Sản Xuất phù hợp với trình độ phát triển của
Lực Lượng Sản Xuất.”

1


2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là một trong những vấn đề của kinh
tế chính trị Mác-Lênin. Bên cạnh đó, nó cịn là một trong bốn bộ phận cấu thành
nên hình thái kinh tế xã hội. Hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất sẽ giúp cho việc phát triển của xã hội diễn ra một cách
nhanh chóng và dễ dàng hơn. Ở nước ta, Đảng đã và đang không ngừng nâng cao
nhận thức và lý luận để áp dụng linh hoạt vào việc phát triển nền kinh tế thị trường

theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hơn nữa bộ máy lãnh đạo của Đảng.
Mục tiêu hướng tới là đưa nước ta trở thành một nước có nền cơng nghiệp hiện
đại, khoa học kĩ thuật phát triển, năng xuất lao động tăng lên, đời sống người dân
được cải thiện.
Nghiên cứu về sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất để tạo điều kiện cho chúng ta có được một nhận thức về sản xuất xã
hội. Đồng thời giúp chúng ta mở mang được nhiều lĩnh vực về kinh tế, văn hóa, xã
hội.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lôgic và lịch sử
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp phân tích
Phương pháp biện chứng duy vật
Phương pháp so sánh
Phương pháp thống kê
Phương pháp thực nghiệm

2


NỘI DUNG
Chương 1: Lý luận của Chủ Nghĩa Mác về quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất.
1.1. Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành
sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của
con người cũng như xã hội lồi người. Khi nói tới yếu tố vật chất trong lực lượng
sản xuất, nó bao gồm nhiều yếu tố khác nhau nhưng đặc biệt là vai trị của cơng cụ
sản xuất hay nói cách khác là cơng cụ lao động. Về yếu tố tinh thần, nó cũng có
nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, Mác và các nhà kinh điển Mác xít đặc biệt nhấn

mạnh tới vai trò của tri thức khoa học đối với sự phát triển của sản xuất vật chất.
Ngồi ra, cịn nhiều yếu tố khác như kĩ năng, thái độ, phẩm chất, tác phong, tính
tổ chức kỷ luật lao động của người lao động.
Khi nghiên cứu về vấn đề này, Mác đã từng dự báo rằng đến một lúc nào đó,
tri thức khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Và lời tiên đốn đó
cho đến ngày hơm nay đã trở thành sự thật. Khi nói khoa học hay tri thức khoa học
đóng vai trị là lực lượng sản xuất trực tiếp tức là Mác muốn nhấn mạnh rằng khoa
học hay tri thức khoa học chính là yếu tố xuất phát điểm và đóng vai trị quyết
định trong việc nâng cao năng suất lao động. Tri thức khoa học cịn đóng vai trị
quan trọng trong việc tạo ra những ngành nghề mới. Đặc biệt, trong điều kiện hiện
nay, tri thức khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp bởi vì sự tham gia của tri thức
khoa học kĩ thuật cơng nghệ vào q trình sản xuất ngày càng rộng rãi, nó được
thâm nhập vào mọi yếu tố của lực lượng sản xuất, thâm nhập vào công cụ lao
động thể hiện qua trình độ của cơng cụ lao động, thâm nhập vào người lao động
thể hiện ở trình độ, kĩ năng, năng lực, thái độ của người lao động. Ngoài khoa học
tự nhiên và khoa học kĩ thuật, khoa học xã hội và nhân văn cũng đóng vai trị rất
lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội, phát triển lực lượng sản xuất. Cụ thể, khoa
học xã hội nhân văn như kinh tế học, tâm lý học, các khoa học xã hội khác có thể
nghiên cứu được các yếu tố về môi trường tự nhiên, môi trường làm việc, các quan

3


hệ ứng xử giữa người với người, từ đó tác động đến người lao động và có ảnh
hưởng tới năng suất lao động. Năng suất lao động được nâng cao hay bị kìm hãm
cịn tùy thuộc vào sự phù hợp của các yếu tố đó. Tóm lại, trong điều kiện hiện nay,
tri thức khoa học thâm nhập vào mọi yếu tố của lực lượng sản xuất, vào mọi chu
trình của quá trình sản xuất và tái sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều này cho thấy tư tưởng của Mác đã vượt trước so với thời đại của ơng.
Về kết cấu, có hai yếu tố cơ bản tạo nên lực lượng sản xuất.

Yếu tố đầu tiên là tư liệu sản xuất, là những tư liệu được con người sử
dụng, khai thác trong quá trình tiến hành sản xuất, trong tư liệu sản xuất lại có tư
liệu lao động và đối tượng lao động. Trong tư liệu lao động tồn tại cơng cụ lao
động (cày, cuốc, máy móc, thiết bị,…) và các phương tiện lao động khác như cầu,
phà, đường, phương tiện để vận chuyển, bảo quản, chứa đựng công cụ lao động
và sản phẩm. Đối tượng lao động gồm những cái có sẵn trong tự nhiên (gia súc,
gia cầm, thịt, cá, khoáng sản) mà con người chỉ cần sơ chế qua là có thể sử dụng
và một bộ phận phải trải qua sự cải tạo của con người – còn gọi là nhân tạo (nhựa,
gỗ ép, xăng, dầu, điện, sắt, thép, xi măng, bông, len, sợi vải…) trên cơ sở những gì
có sẵn trong tự nhiên (bởi nhu cầu con người luôn đa dạng và không bao giờ hài
lịng với những gì tự nhiên ban tặng, những cái có sẵn ngày càng bị khai thác đến
“cạn kiệt”). Tùy thuộc vào các ngành nghề cụ thể để chúng ta xác định được đâu là
đối tượng lao động.
Yếu tố thứ hai là người lao động. Nói đến người lao động phải nói đến
phẩm chất (đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất chính trị), tác phong cơng nghiệp,
thái độ (quan hệ ứng xử đối với công việc, với tư liệu sản xuất, ứng xử giữa người
với người như thế nào), tinh thần tự chịu trách nhiệm, tinh thần trách nhiệm, ý thức
tổ chức đến kỷ luật, tri thức (trí lực, trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ),
kinh nghiệm, kỹ năng lao động, năng lực sáng tạo nhất định trong quá tình sản
xuất của xã hội. Nếu xem xét ở những lát cắt khác, những ngành khoa học khác
thì người lao động thể hiện ở thể lực, trong thể lực phải nói đến sức khỏe, chiều
cao, cân nặng, tuổi thọ…được gọi là hệ thống các yếu tố. Người lao động ngày nay
4


khơng thể chỉ có lao động truyền thống như lao động cơ bắp, lao động chân tay,
khi đã chuyển và bắt đầu hình thành nền kinh tế tri thức mà nổi bật là cuộc cách
mạng cơng nghệ 4.0 thì yếu tố người lao động phải thay đổi, phải có năng lực sáng
tạo nhất định. Nhưng nếu muốn có được năng lực sáng tạo thì lại phụ thuộc vào hệ
thống các yếu tố. Ví dụ giáo dục như thế nào, mơi trường tổ chức quản lí ra sao,

tạo ra động lực (trước hết là động lực về vật chất như thu nhập, tiền thưởng, cơ hội
phát triển...) như thế nào thì người ta mới có được năng lực ấy.
Yếu tố thường xuyên biến đổi (hay còn gọi là yếu tố động, yếu tố cách mạng)
đó là cơng cụ lao động. Bởi nhu cầu con người không đứng yên một chỗ mà luôn
luôn thay đổi cùng với sự thay đổi và phát triển của xã hội. Mà sự thay đổi của
nhu cầu này theo chiều hướng tăng lên (tốt hơn, rẻ hơn, ngon hơn). Để thỏa mãn
những nhu cầu mới, con người phải cải tiến hay nói cách khác là cách mạng về
cơng cụ lao động. Có thể nói rằng cơng cụ lao động là yếu tố thể hiện rõ nhất trình
độ chinh phục thế giới của con người và nó càng hiện đại bao nhiêu thì phạm vi
mà con người tác động vào thế giới càng lớn đồng thời đóng góp vào việc giải
phóng sức lao động cho con người.
Yếu tố quyết định nhất, quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất đó là yếu tố
Người lao động. Họ là yếu tố chủ thể của quá trình sản xuất, là yếu tố có thể gắn
kết các yếu tố cịn lại trong lực lượng sản xuất với nhau. Người lao động là những
người sáng tạo, sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động tạo ra
của cải vật chất, làm giàu cho xã hội. Do đó, một quốc gia muốn phát triển bền
vững thì con người nhất định phải trở thành nguồn lực nhưng khơng phải cứ có
con người là sẽ có nguồn lực ln mà phải được trải qua đào tạo. Để một quốc gia
phát triển và phát triển bền vững không phải dựa vào nguồn tài nguyên khoáng sản
dồi dào, một số quốc gia châu Á như Singapore, Nhật Bản đã làm được điều này,
không giàu có về tài ngun khống sản nhưng lại là một trong những quốc gia rất
phát triển của thế giới bởi người lao động ở đây đã thực sự trở thành nguồn lực,
nhân tố đóng vai trị quan trọng quyết định trong việc phát triển, nâng cao lực
lượng sản xuất của quốc gia đó.

5


Ở Việt Nam, người lao động của chúng ta hiện nay về thể lực cịn tương đối
yếu, về trí lực cịn khá kém đặc biệt là về trình độ chun môn nghiệp vụ. Cho đến

thời điểm này, khả quan nhất mới có khoảng 30% lao động ở nước ta đã qua đào
tạo. Tuy nhiên, gần 80% lực lượng lao động ở Việt Nam sản xuất kinh doanh chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm. Nói về người lao động ở nơng thơn còn đáng buồn hơn
nữa. Đây là một trong những rào cản rất lớn để tăng năng suất lao động, để thu hút
nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Các nhà đầu tư nước
ngoài đều đánh giá người lao động Việt Nam rất cần cù, chăm chỉ và đặc biệt là
tiếp thu khoa học công nghệ mới khá nhanh nhưng cái rất hạn chế đó là trình độ
thấp, tác phong cơng nghiệp cịn nhiều hạn chế, tính tổ chức kỷ luật chưa cao.
Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước thu
hút đầu tư nước ngồi lớn vì chúng ta có một số điều kiện thuận lợi: tài nguyên
thiên nhiên tương đối phong phú đa dạng; nguồn lao động dồi dào, giá lao
động rẻ; có thể chế chính trị ổn định. Thế nhưng, chúng ta thấy rằng nguồn lao
động dồi dào giá rẻ đó chỉ có ý nghĩa khi thế giới chưa chuyển sang nền kinh tế tri
thức. Còn khi nền kinh tế tri thức bắt đầu lan rộng, một quốc gia dồi dào về lao
động giá rẻ nhưng trình độ, tác phong cơng nghiệp thấp kém thì bộ phận lao động
đó khơng đáp ứng được u cầu của nền sản xuất hiện đại. Họ sẽ bị đảo thải ra
khỏi guồng quay của sản xuất, hay còn gọi là thất nghiệp. Từ đó, thậm chí kéo
theo những vấn đề về xã hội và đặc biệt là xuất hiện thêm nhiều tệ nạn xã hội mới.
Từ vấn đề này, đối với sinh viên, học viên, chúng em biết nguồn lao động
của nước ta còn nhiều hạn chế và hạn chế những gì thì phải chuẩn bị cho những
điều kiện đó, phải khắc phục những hạn chế, phát huy hết những điểm tích cực để
chúng em có thể làm chủ được cơng nghệ khoa học trong tương lai. Chúng em
thấy rằng, đối với sinh viên hiện nay, ngoài việc chuẩn bị kiến thức (kiến thức
chuyên ngành, kiến thức cơ bản, kiến thức cơ sở ngành) còn phải thuần thục các kĩ
năng cần thiết (kĩ năng cơ bản, kĩ năng chung, kĩ năng thuyết trình, giao tiếp, kĩ
năng ứng xử, kĩ năng làm việc nhóm). Bên cạnh đó, cần phải sử dụng rất tốt các
công cụ như tin học và đặc biệt là ngoại ngữ trong điều kiện chúng ta ngày càng
hội nhập sâu với thế giới. Một điều quan trọng nữa là sinh viên Việt Nam cần
6



chuẩn bị cho mình về mặt thái độ, năng lực sáng tạo, khả năng tư duy, về tinh thần
trách nhiệm, ý thức tự giác trong lao động hay trong bất kì cơng việc nào. Điều
này phụ thuộc vào q trình tu dưỡng và rèn luyện của mỗi người khi còn ngồi trên
ghế nhà trường.
1.2. Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa người với người nảy sinh
trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội. Gồm có ba mặt: quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất;
quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một cách
khách quan trong qua trình sản xuất, khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, tùy
tiện của lực lượng sản xuất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. C.Mác viết: “Trong
sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên, người ta không thể sản
xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung
và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những
mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên là
quan hệ sản xuất”.
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò
quyết định các quan hệ khác. Tập đoàn nào, giai cấp nào nắm giữ những tư liệu
sản xuất chủ yếu của xã hội thì nó sẽ chi phối tất cả các lĩnh vực khác. Trong lịch
sử phát triển của xã hội loài người đã từng tồn tại hai loại hình sở hữu cơ bản đối
với tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân (tư hữu) và sở hữu công cộng (công hữu).
Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào
trong tay một số ít người, cịn đại đa số khơng có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất.
Do đó quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị
bóc lột. Sở hữu cơng cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc
về mọi thành viên của cộng đồng, nảy sinh quan hệ bình đẳng giữa người với
người. Các hình thức sở hữu đó quy định các mối quan hệ về tổ chức quản lý và
phân phối sản phẩm, quy định những nét đặc thù của quan hệ kinh tế.

7


Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản
xuất, đến việc tổ chức, điều khiển q trình sản xuất. Nó có khả năng thúc đẩy
hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ
sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên, có trường
hợp quan hệ tổ chức và quản lý khơng thích hợp với quan hệ sở hữu, dẫn đến biến
dạng quan hệ sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội. Ví dụ,
khi xét đơn giản trong các mối quan hệ cơng việc tại Tập đồn kinh doanh bán lẻ
Amazon, thì quan hệ giữa Andy Jassy – Giám đốc điều hành với Jeff Bezos – Chủ
tịch, hoặc quan hệ giữa Andy Jassy với các Giám đốc bộ phận là những quan hệ
trong tổ chức và quản lý sản xuất. Rõ ràng, nếu những quan hệ này được tổ chức
khoa học thì doanh thu của Amazon sẽ phát triển. Ngược lại, nếu những quan hệ
này có vấn đề, hoạt động kinh doanh của tập đoàn này sẽ gặp rắc rối.
Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra có khả năng kích thích trực tiếp
vào lợi ích của người lao động. Do đó, nó tác động đến thái độ của họ trong lao
động sản xuất nên nó cũng có cũng thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
Chúng ta thấy, người lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất hay quá trình
phát triển kinh tế xã hội, cái họ đặc biệt quan tâm chính là yếu tố lợi ích khi đã
đóng góp sức lao động của mình cho xã hội, đó có thể là lương, thu nhập, các chế
độ phúc lợi, các cơ hội học tập, thăng tiến, nâng cao trình độ chun mơn để họ có
điều kiện phát triển. Đó chính là yếu tố tác động tới người lao động, nó có thể thúc
đẩy người lao động đóng góp sức lực, trí tuệ của mình vào nền sản xuất thì đương
nhiên sản xuất sẽ phát triển và ngược lại. Ví dụ, quan hệ giữa ơng chủ – người trả
lương và công nhân – người nhận lương là quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Nếu mức lương hợp lý sẽ kích thích người lao động tăng năng suất, góp phần tăng
hiệu quả kinh doanh. Ngược lại, nếu mức lương q thấp, cơng nhân có xu hướng
đình cơng, thiếu tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo trong lao động dẫn tới sự trì
trệ sản xuất.

Như vậy, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối góp phần củng cổ
phát triển nhưng cũng có thể kìm hãm quan hệ sở hữu. Do đó, khơng thể coi nhẹ
vai trò và tác dụng của hai quan hệ nêu trên trong chỉnh thể quan hệ sản xuất.
8


1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện
chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã
hội. Quy luật đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
1.3.1. Quan hệ sản xuất được hình thành, phát triển và biến đổi dưới ảnh
hưởng quyết định của lực lượng sản xuất.
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực
lượng sản xuất đóng vai trị quyết định đối với quan hệ sản xuất. Bởi lực lượng sản
xuất là nội dung, vật chất của q trình sản xuất và có tính năng động, cách mạng,
thường xuyên phát triển còn quan hệ sản xuất là hình thức biểu hiện của nó. Vậy,
nó quyết định như thế nào? Lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất sẽ
như thế đó và khi nội dung thay đổi thì hình thức cũng phải thay đổi theo.
Nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự vận động, biến đổi của các chế độ xã hội,
hình thái kinh tế xã hội cuối cùng vẫn là do sự biến đổi của lực lượng sản xuất.
Vậy, nội dung đó được thể hiện như thế nào?
Thứ nhất, trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử
đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở: trình độ của cơng cụ lao động; trình
độ, kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người; trình độ tổ chức và phân cơng
lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Trình độ phân cơng lao
động biểu hiện trình độ của lực lượng sản xuất ở một giai đoạn nhất định của lịch
sử sản xuất vật chất.

Thứ hai, gắn liền với một trình độ của lực lượng sản xuất là một tính chất
của lực lượng sản xuất. Đây là khái niệm thể hiện đặc điểm, quy mô đặc trưng
của lực lượng sản xuất ở một phương thức sản xuất nhất định. Khi cịn sản xuất
với những cơng cụ thủ cơng, lực lượng sản xuất mang tính chất cá nhân, thể hiện

9


chất của tư liệu sản xuất là sử dụng công cụ thủ cơng và tính chất của lao động là
riêng rẽ, tách rời nhau. Khi sản xuất bằng máy ra đời, lực lượng sản xuất mang
tính chất xã hội hóa, thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng máy móc
và tính chất của lao động là do nhiều người sử dụng tư liệu sản xuất ấy theo kiểu
phân công mỗi người một bộ phận, sản phẩm làm ra là kết quả hợp tác của nhiều
người. Chỉ đến nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất mới đạt tới tính
chất xã hội hóa.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đi từ phù hợp –
không phù hợp – phù hợp – không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Sở dĩ như vậy bởi khi tới một giai đoạn nào đó, lực lượng sản xuất sẽ phát
triển lên một trình độ mới với tính chất xã hội hóa cao hơn. Lúc này, quan hệ sản
xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất
phát triển. Bởi lực lượng sản xuất có yếu tố động hay cịn gọi yếu tố cách mạng
chính là cơng cụ sản xuất. Như em đã nói ở phần tư liệu lao động, nhu cầu con
người không đứng n, người ta ln ln phải cách mạng nó và cách mạng kéo
theo một hệ thống các yếu tố của quá trình sản xuất. Vậy thì lực lượng sản xuất
ln ln vận động biến đổi như vậy, nó địi quan hệ sản xuất, địi hình thức phải
phù hợp. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là
phương thức sản xuất cũ mất đi và phương thức sản xuất mới ra đời.
1.3.2. Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích xã hội của sản xuất, khuynh hướng

phát triển của quan hệ lợi ích, ảnh hưởng đến thái độ lao động của công nhân,
nông dân, việc hợp tác và phân công lao động, kích thích hoặc hạn chế hoạt động
cải tiến công cụ, ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất. Vì vậy, quan hệ sản
xuất có nhiều ảnh hưởng lên lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất là yêu cầu khách quan của nền sản xuất. Nếu được vận
dụng một cách khoa học, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
thì quan hệ sản xuất sẽ mở đường, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển hết khả
10


năng của nó (ví dụ năng suất lao động tăng cao). Nếu quan hệ sản xuất đã lỗi thời,
khơng cịn phù hợp với lực lượng sản xuất (xây dựng quan hệ sản xuất thiếu đồng
bộ, dùng ý chí chủ quan, mong muốn nhu cầu nguyện vọng của mình để đưa quan
hệ sản xuất lên quá cao trong khi trình độ của lực lượng sản xuất thấp kém) thì nó
sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất (lạc hậu hơn). Kéo theo đó là hiệu
năng sản xuất của nền kinh tế sẽ suy giảm, xuất hiện ngày càng nhiều các hiện
tượng bất công trong xã hội.
Khi mâu thuẫn khách quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã
bộc lộ gay gắt và đòi hỏi con người phải giải quyết nhưng con người không phát
hiện ra hoặc phát hiện mà không thể giải quyết mâu thuẫn, hoặc do những sai
lầm chủ quan trong quá trình giải quyết mâu thuẫn thì tác dụng kìm hãm của
quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất. Tất
nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
khơng hề đơn giản. Nó phải thơng qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của
con người. Trong xã hội có giai cấp thì phải thơng qua đấu tránh giai cấp, thơng
qua cách mạng xã hội.
Chính vì thế, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong tồn bộ tiến trình lịch sử
nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên
thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và

đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống quy luật xã hội, trong
đó, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật cơ bản và quan trọng nhất.

11


Chương 2: Thực tiễn vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam từ 1975 đến nay.
2.1. Điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam sau 30/4/1975
Thời kỳ 1975-1985: Thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội là Kế
hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985).
Với phương châm lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến
tranh; Khôi phục phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở
miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá.
Tuy nhiên, thời kỳ này, cơ chế nền kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu, bao cấp, quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Vì thế, nó kìm hãm sự
phát triển của nền sản xuất vật chất, tạo cho con người thói quen ỷ lại. Do đó, nền
kinh tế nước ta lúc bấy giờ là nền kinh tế lạc hậu, trì trệ và kém phát triển.
Ngồi khó khăn chính trị, Việt Nam đã áp dụng chủ nghĩa xã hội chặt chẽ
trong địa hạt kinh tế qua hệ thống chính sách "bao cấp", tập trung kiểm sốt các
phương tiện sản xuất và phân phối. Nền kinh tế bị hoàn tồn tê liệt và dân chúng bị
đói kém khó khăn đồng thời triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động.
Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung),
đồng thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những
nguyên nhân dẫn đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985
chỉ số giá bán lẻ tăng 39,53%/năm.
2.2. Thực tiễn vận dụng quy luật ở Việt Nam từ 1975-1986

Lực lượng sản xuất có trình độ sản xuất thấp kém, cơng cụ lao động, khoa
học công nghệ hết sức lạc hậu. Người lao động với kĩ năng lao động hạn chế, tinh
thần tự giác, tính trách nhiệm trong lao động cịn ở mức độ rất thấp. Quan hệ sản
xuất được đẩy lên quá cao dẫn tới quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

12


Sự không phù hợp:
Mùa xuân năm 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nước ta đã hồn
tồn giải phóng. Đảng ta chủ trương đưa cả nước theo con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Ngay sau khi đánh thắng đế quốc Mĩ
xâm lược, đất nước thống nhất, lúc bấy giờ, với khơng khí hào hùng, chúng ta
nghĩ rằng, việc đánh Mĩ – một cường quốc trên thế giới, Việt Nam cịn làm được
thì việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội là một điều hết sức đơn giản. Vì vậy, về bản
chất, trước năm 1986, chúng ta vì muốn có ngay Chủ nghĩa xã hội nên đã mắc sai
lầm là đưa quan hệ sản xuất lên quá cao, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp. Trong quan hệ sở hữu, chúng ta lại chỉ chủ trương phát triển hình
thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thế, chỉ chủ trương phát triển nền
kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã với cơ chế “xin cho, cấp phát”. Chúng ta
không quan tâm tới sở hữu tư nhân, khơng tìm cách để phát triển kinh tế tư
nhân vì chúng ta nhận thức rằng việc tồn tại hình thức sở hữu tư nhân và phát triển
kinh tế tư nhân sẽ làm Việt Nam chệch theo con đường Tư bản chủ nghĩa.
Về mặt tổ chức quản lý: thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp (thụ động, ỷ lại, cái gì cũng trơng chờ ở Nhà nước). Sản xuất và kinh
doanh của chúng ta lúc bấy giờ không phải xuất phát từ tín hiệu của thị trường,
khơng tn theo quy luật thị trường, không căn cứ vào nhu cầu thực sự của thị
trường là gì mà do những mệnh lệnh hành chính của cơ quan Nhà nước can thiệp
trực tiếp và chỉ đạo cho các đơn vị sản xuất kinh doanh (vi phạm quy luật thị

trường). Về mặt phân phối: thực hiện các nguyên tắc phân phối bình quân (phân
phối cào bằng), khơng kích thích được tính chủ động sáng tạo của người lao động.
Hậu quả là: Kinh tế Việt Nam rơi vào trì trệ, khủng hoảng trầm trọng về KTXH. Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1977-1985
tăng 4,65%, trong đó: nơng, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng
5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, sở hữu quốc
doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng
0,71%. Nông, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP trong
13


giai đoạn này), nhưng chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp
được dồn lực đầu tư nên có mức tăng khá hơn nơng nghiệp, nhưng tỷ trọng trong
tồn nền kinh tế cịn thấp (chiếm 39,74% GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng.
Tháng 3/1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đề ra
nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm: “Để chuyển biến cơ bản thực
trạng kinh tế phải tạo cho được một lực lượng sản xuất mới, năng suất xã hội cao
hơn ngay cả khi chưa có nền cơng nghiệp tương đối phát triển. Đồng thời phải
đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất”.
Đại hội đã có những bước tìm tịi trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội,
trước hết là về mặt kinh tế. Song, lại chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền
kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kì quá độ, chưa xác định được những
quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, công tác quản lý lưu thông,
phân phối vẫn một chiều do kế hoạch nhà nước quyết định, chưa có những chính
sách, giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất trong
nông nghiệp. Đi kèm với hàng loạt sai lầm trên là những quan điểm chủ quan,
nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong việc thực hiện các kế hoạch 5 năm và các cuộc
cải cách. Đặc biệt là sai lầm trong cuộc cải cách giá, tiền lương được tiến hành lần
2 vào ngày 14/9/1985 dẫn đến tình trạng lạm phát “phi mã” trong 3 năm 19861988. Đặc điểm của nền kinh tế nước ta lúc này là trì trệ, kém phát triển. Lực
lượng sản xuất với trình độ chun mơn thấp, cơng cụ lao động thơ sơ chưa đạt

đến độ tinh xảo. Tổ chức quản lí không chặt chẽ, quy mô phân tán nhỏ hẹp. Phân
phối sản phẩm còn theo cơ chế bao cấp tràn lan. Hậu quả là tách rời người lao
động với tư liệu sản xuất, công cụ lao động bị phá hoại một cách nghiêm trọng,
đời sống nhân dân đói kém, vất vả.
Từ thực tế trên cho thấy tầm quan trọng của việc xác định đúng đắn mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quy luật chi phối lẫn nhau
của chúng. Qua đó vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo vào công cuộc đổi
mới ở đất nước ta trong thời kì tiến lên chủ nghĩa xã hội.
14


2.3. Thực tiễn vận dụng quy luật ở Việt Nam từ năm 1986-nay
Đứng trước bối cảnh sau năm 1975, Đảng và Nhà nước ta nhận thức lại là
cần phải đổi mới. Trước hết là đổi mới về tư duy, đổi mới tồn diện, trong đó, phải
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm để từng bước đổi mới về chính trị xã hội. Cụ thể:
Về lực lượng sản xuất: Đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, mà
muốn đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất thì khơng có con đường nào
khác là phải đẩy mạnh Cơng nghiệp hóa (CNH) – Hiện đại hóa (HĐH) đất
nước để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho Chủ nghĩa xã hội. Đảng đã
khẳng định: “về thực chất CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản và
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội. Chuyển từ lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến,
hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ,
tạo ra năng xuất lao động cao”.
Về quan hệ sản xuất: Quan tâm cải tạo quan hệ sản xuất. Về quan hệ
sở hữu, thực hiện nhiều hình thức sở hữu (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể,
sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp). Về kinh tế, chủ trương phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói ngắn

gọn hơn là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong đó, có thành phần kinh tế (TPKT) Nhà nước, TPKT tập thể, TPKT tư
nhân, TPKT có vốn đầu tư nước ngồi. Bên cạnh đó là tiếp tục phát triển
khoa học - cơng nghệ, góp phần đưa trình độ của lực lượng sản xuất tiến
thêm một bước cao hơn.
Xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ
chế thị trường. Sản xuất, kinh doanh đều tuân theo tín hiệu của thị trường và do
thị trường điều tiết và phải tuân theo các quy luật thị trường chứ không thể lấy ý
muốn chủ quan để thay cho các quy luật thị trường. Về mặt phân phối, thực hiện
nhiều hình thức trong đó lấy phân phối theo lao động là cơ bản.
15


KẾT LUẬN
Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên khơng phải bất cứ
lúc nào cũng có sự phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt tốt quy chúng ta có thể áp
dụng vào từng trường hợp cụ thể. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất còn là quy luật phổ biến trong tồn bộ tiến trình lịch sử nhân
loại. Sự thay thế phát triển đi lên của lịch sử loài người từ chế độ công xã nguyên
thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và
đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội,
trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại quan hệ sản
xuất lại thường có tính ổn định song sự ổn định đó chỉ là tạm thời và cũng cần có
sự thay đổi cho phù hợp. Nếu quan hệ sản xuất khơng có những sự thay đổi cho
phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Như vậy, trong việc xác lập
hoàn thiện, thay đổi quan hệ sản xuất cần phải căn cứ vào thực trạng của các lực
lượng sản xuất hiện có về mặt tính chất và trình độ của chúng (đây là cơ sở lý luận

trực tiếp của việc xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay của
quá trình cải cách của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay).
Muốn cải tạo xã hội chủ nghĩa thì phải ln ln thấu suốt đặc điểm của q
trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất luôn ln gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Phải
coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô
nhỏ lên quy mô lớn. Trên mỗi bước đi phải đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên
hình thức, quy mơ thích hợp để cho lực lượng sản xuất phát triển.
Tại Đại hội IX Đảng ta khẳng định: "Cần phải" nhân rộng mơ hình hợp tác,
liên kết cơng nghiệp và nơng nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông
thôn, phát triển các loại hình trang trại với quy mơ phù hợp trên từng địa bàn
16


những hình thức kinh tế hộ nơng dân ngày càng được mở rộng, các hình thái kinh
tế hợp tác ở nông thôn, kinh tế trang trại, mở mang nhanh công nghiệp chế biến
nơng sản theo nhiều trình độ quy mơ cơng nghệ.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhìn tổng thể 30 năm qua đất nước
ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Trong đó, có thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước
ta. Hơn nữa, trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, việc nhanh chóng
phát triển lực lượng sản xuất đi đơi với từng bước hồn thiện quan hệ sản xuất để
phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đang càng là
một yêu cầu cấp thiết.
Để thực hiện điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ phải tiếp tục
thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đồng thời bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; có sự

quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Xác lập nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Việt nam “có quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”; thị trường
đóng vai trị chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực phát triển,
là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân
bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước
đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính sách
và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
trong phát triển kinh tế xã hội.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin, bộ GD&ĐT, NXB Chính trị quốc gia
Hà Nội, 2000.
2. Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Hà Nội, 1999.
3. C.Mac và Angghen tồn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1994.
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1976.
5. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1986.
6. Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ VI, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1991.

7. Văn kiện hội nghị lần 2 Ban Chấp Hành trung ương Đảng khóa VII.
8. Về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, NXB Chính trị
quốc gia sự thật, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, 2020.
9. Giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn (Sách chuyên khảo), PGS.TS. Phạm Văn Linh,
NXB Chính trị quốc gia sự thật, 11/2021.
10. Ngồi ra bài viết cịn tham khảo một số tài liệu từ các trang
gso.gov.vn
dangcongsan.vn
truongchinhtrithanhhoa.gov.vn

18


NHẬN XÉT TIỂU LUẬN
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………

Điểm bằng số

Điểm bằng chữ


Cán bộ chấm thi thứ nhất

Cán bộ chấm thi thứ hai

19



×