TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ
CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Phân tích nội dung quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Từ đó rút ra ý nghĩa của
phương pháp luận.
Họ và tên: Vũ Cẩm Trang
Lớp: Quản trị kinh doanh quốc tế CLC 61A
Mã SV: 11195441
GVHD: TS. NGHIÊM CHÂU GIANG
HÀ NỘI, NĂM 2020
1
PHỤ LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU................................................................................
PHẦN II: NỘI DUNG..........................................................................
1. Cơ sở lý luận...................................................................................................
1.1 Các khái niệm..............................................................................................
1.1.1 Phương thức sản xuất..................................................................................
1.1.2 Lực lượng sản xuất......................................................................................
1.1.3 Quan hệ sản xuất........................................................................................
1.2 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.............................................................................................
1.2.1 Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định
và làm thay đổi lực lượng sản xuất...........................................................................
1.2.2 Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
sự phát triển của lực lượng sản xuất........................................................................
2. Ý nghĩa của phương pháp luận trong công cuộc đổi mới ở
Việt Nam..............................................................................................................
2.1 Những sai lầm về việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất thời kì trước đổi mới...................................................................
2.2 Sự vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay............................................................................
PHẦN III: KẾT LUẬN........................................................................
PHẦN IV: TƯ LIỆU THAM KHẢO..................................................
2
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển
của những phương thức sản xuất kế tiếp từ thấp đến cao. Mà lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng
tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện
chứng và tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự
vận động phát triển xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến, tác động trong tồn bộ tiến trình
lịch sử của nhân loại. C.Mác đã từng khẳng định: “Chỉ có đem những
quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những
quan hệ sản xuất vào trình độ của lực lượng sản xuất thì người ta
mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của
các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” i.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây chúng ta đã
khơng có được sự nhận thức đúng đắn về quy luật của sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Cơ chế quan liêu, bao cấp đã
bóp méo các yếu tố của quan hệ sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất.
Kết quả của sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất đã làm cho mâu thuẫn giữa chúng trở nên gay gắt. Điều đó khiến
cho nền kinh tế Việt Nam phải ở tình trạng khủng hoảng, trì trệ một thời
gian dài.
Vì vậy nghiên cứu “Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật
này ở Việt Nam" có vai trị quan trọng mang tính cấp thiết cao vì thời
đại ngày nay chính là sự phát triển của nền kinh tế thị trường hàng hoá
nhiều thành phần. Nghiên cứu vấn đề này chúng ta còn thấy được ý
nghĩa lý luận cũng như thực tiễn của nó hết sức sâu sắc.
3
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1 Các khái niệm
1.1.1 Phương thức sản xuất
Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách
thức nhất định, tức là nó có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng của
mình, đó là phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức
con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch
sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất là sự thống
nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản
xuất tương ứng. Phương thức sản xuất đóng vai trị nhất định đối với tất
cả mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội.
1.1.2 Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu
sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối
tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người
và xã hội.
Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt. Đó là
mặt kinh tế - xã hội (người lao động) và mặt kinh tế- kĩ thuật (tư liệu sản
xuất). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao động sống” và
“lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là tồn bộ những năng lực thực
tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kì nhất định.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh
phục giới tự nhiên của con người. Ngày nay, khi khoa học phát triển
mạnh mẽ và nó được vận dụng nhanh chóng, rộng rãi, trực tiếp vào
trong q trình sản xuất thì cùng với cơng nghệ hiện đại nó đã trở thành
4
một thành tố mới trong lực lượng sản xuất, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt
của lực lượng sản xuất của nhân loại và quy định nội dung mới của sức
sản xuất xã hội trong thời đại ngày nay. Chính vì lẽ đó mà Đảng ta quan
niệm “cùng với giáo dục, đào tạo khoa học công nghệ phải được coi là
quốc sách hàng đầu”.
1.1.3 Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa
người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây chính là một
quan hệ vật chất quan trọng nhất – quan hệ kinh tế, trong mối quan hệ
vật chất giữa người với người. Quá trình sản xuất vật chất chính là tổng
thể các yếu tố trong một quá trình thống nhất, gồm sản xuất, phân phối,
trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất.
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ
về phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra
nhưng sự hình thành và phát triển một cách khách quan khơng phụ thuộc
vào ý chí con người. Nếu như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự
nhiên của sản xuất thì quan hệ sản xuất lại là mặt xã hội của sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm có 3 mặt:
Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu những tư
liệu sản xuất chủ yếu (gọi tắt là quan hệ sở hữu).
Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức, quản lý xã hội
và trao đổi hoạt động cho nhau (gọi tắt là quan hệ tổ chức, quản
lý).
Quan hệ giữa người với người trong phân phối, lưu thông sản
phẩm làm ra (gọi tắt là quan hệ phân phối sản phẩm).
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu các tư liệu
sản xuất chủ yếu là quan hệ cơ bản và đặc trưng cho từng xã hội. Quan
5
hệ về sở hữu quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ
phân phối các sản phẩm làm ra. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào
chiếm hữu tư liệu sản xuất thì giai cấp đó là giai cấp thống trị; giai cấp
ấy đứng ra tổ chức, quản lý sản xuất và sẽ quyết định tính chất, hình
thức phân phối, cũng như quy mơ thu nhập. Ngược lại giai cấp nào
khơng có tư liệu sản xuất thì sẽ là giai cấp, tầng lớp bị thống trị, bị bóc
lột và bị buộc phải làm thuê, bị bóc lột dưới nhiều hình thức khác nhau.
1.2 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất
1.2.1 Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và
làm thay đổi lực lượng sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối
quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện
chứng với nhau bởi chúng là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản
xuất. Lực lượng sản xuất đóng vai trị nội dung vật chất của q trình
sản xuất, cịn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội. Thực tế chứng minh,
khơng một q trình sản xuất nào có thể thiếu đi một trong hai yếu tố
hình thức xã hội hay nội dung vật chất. Như vậy, lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với
nhau.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm
thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp. Khi một phương thức sản xuất
mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản
xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó
tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực
6
lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng
và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất. Do
đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định
làm cho mối quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp
với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở
thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất
phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất
yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới sao
cho phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, nhằm
thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản
xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời và thay thế.
Ví dụ: lực lượng sản xuất ở trình độ thủ cơng thì nó chỉ đòi hỏi
quan hệ sản xuất cá thể, tư hữu, tự cung tự cấp, tự quản lý theo sản xuất
nhỏ. Nhưng nếu lực lượng sản xuất ở trình độ cơ khí hóa, tính chất xã
hội hóa cao (do dây chuyền cơng nghệ khép kín, có sự chun mơn hóa
cao) thì nó địi hỏi tất nhiên phải có hình thức quan hệ sản xuất mang
tính xã hội hóa cao thì q trình sản xuất mới trơi chảy được.
1.2.2 Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
sự phát triển của lực lượng sản xuất
Sự hình thành, biến đổi, phát triển quan hệ sản xuất phụ thuộc
vào tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng quan hệ sản xuất
là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó mà phát triển, nó
tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Có thể thúc đẩy hoạc kìm
hãm lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quyết định mục đích, phương hướng của nền
sản xuất: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Quy
7
định tới tinh thần, thái độ của người lao động và từ đó gián tiếp tăng
cường hoặc hạn chế việc cải tiến cơng cụ và tích lũy kinh nghiệm làm
cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển và ngược lại.
Mặt khác, quan hê sản xuất thể hiện sự kết hợp giữa các yếu tố
của lực lượng sản xuất. Do vậy sự kết hợp ấy diễn ra như thế nào là điều
kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
Sự tác động diễn ra theo hai trường hợp:
Khi có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
thì quan hệ sản xuất sẽ là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất
và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợp
bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản
xuất; sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất;
sự kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự
phù hợp khơng có nghĩa là đồng nhất tuyệt đối mà chỉ là tương đối,
trong đó chứa đựng sự khác biệt.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quy
định mục đích, xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; hình thành
hệ thống động lực thúc đẩy sản xuất phát triển; đem lại năng suất, chất
lượng, hiệu quả của nền sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hơp với lực
lượng sản xuất thì nền sản xuất đi đúng hướng, quy mơ sản xuất được
mở rộng, những thành tựu công nghệ khoa học được áp dụng nhanh
chóng, người lao động nhiệt tình, hăng hái sản xuất, lợi ích người lao
động được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Sự không phù hợp thường xảy ra khi lực lượng sản xuất đã phát
triển còn quan hệ sản xuất vẫn lạc hậu, lỗi thời do tính ổn định của nó và
tính chất thường xuyên vận động của lực lượng sản xuất. Điều này
thường xảy ra trong lịch sử một cách tất yếu do sự vận động của xã hội.
8
Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ
kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm
đó chỉ diễn ra trong những giới hạn, với những điều kiện nhất định.
Tóm lại khi quan hệ sản xuất lỗi thời khơng cịn phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với
lực lượng sản xuất, C.Mác khẳng định: “Tới một giai đoạn phát triển
nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu
thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có…trong đó từ trước tới nay
các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là các hình thức phát
triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng
xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách
mạng xã hội” ii.
2. Ý nghĩa của phương pháp luận trong công cuộc đổi mới
ở Việt Nam
2.1 Những sai lầm về việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất thời kì trước đổi mới
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng lao động có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực
tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản
xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và cơng cụ lao động.
Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập mối quan hệ sản xuất
mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không
phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên ban
xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh
tế, chống tùy tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí.
Vận dụng quy luật này ở Việt Nam trước hết cần đánh giá những
sai lầm, khuyết điểm trong thời kì trước đổi mới. Trong tiến trình lãnh
đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta suốt mấy chục năm
9
qua, thực tiễn cho thấy những mặt được cũng như những mặt chưa được
và hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế và
quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất vào thực tiễn.
Xét đặc điểm của nước ta trong thời kì trước đổi mới là Nước
nơng nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, “con trâu
đi trước cái cày đi sau”, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản xuất nhỏ
tự cấp, tự túc là chủ yếu. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong
kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao
vây cấm vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế. Do vậy lực lượng sản xuất
chưa có điều kiện phát triển. Sau khi giành được chính quyền, trước yêu
cầu xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế kém phát
triển, Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chính trị tư tưởng để xóa bỏ nhanh
chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ cơng hữu với hai hình thức tồn dân
và tập thể, lúc đó được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất,
trình độ xã hội hố sản xuất cũng như sự thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Song trong thực tế cách làm này đã không mang lại kết quả
như mong muốn. Vì nó trái quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cụ thể, Nhà nước ta đã chủ quan duy ý chí, bất chấp quy luật
khách quan bằng cách đốt cháy giai đoạn, thực hiện sự bỏ qua giai đoạn
Tư bản chủ nghĩa một cách giản đơn, máy móc. Tách rời một cách siêu
hình quan hệ sản xuất ra khỏi lực lượng sản xuất, chủ động đẩy nhanh
quá trình, cải tạo và xây dựng quá trình sản xuất vượt quá xa so với trình
độ của lực lượng lao động. Do đó mà kìm hãm sự phát triển của lực
lượng lao động. Đồng nhất, đơn giản hóa quan hệ sản xuất chỉ cịn là
quan hệ sở hữu và trong sở hữu chỉ nhấn mạnh đến hình thức sở hữu
cơng cộng, tập thể. Do đó đã để lại một số hậu quả nặng nề:
Về mặt quản lí: Sai lầm khi hợp tác hóa, hành chính hóa bộ máy
Nhà nước, thực hiện cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp cồng kềnh kém
hiệu quả.
10
Về mặt phân phối: Phương thức bình quân chủ nghĩa, cào bằng
công sức làm triệt tiêu động lực về sự phát triển lợi ích của người lao
động.
Về lực lượng sản xuất: Tập trung ưu tiên cho việc phát triển
công nghiệp nặng và nhận thức cơng nghiệp hóa chỉ đơn giản xây dựng
một số nhà máy công nghiệp nặng mà thôi. Khơng chú ý, ít chú ý đến
hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng…Chậm trễ trong việc áp dụng khoa học
kĩ thuật vào trong sản xuất, đặc biệt là đối với lĩnh vực nơng nghiệp.
Chưa chú trọng đến việc nâng cao trình độ, đào tạo tay nghề cho người
lao động. Chưa nhận thức được người lao động là yếu tố quyết định lực
lượng sản xuất.
2.2 Sự vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa quan trọng trong
quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học
để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn
quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức và vận dụng đúng đắn sáng tạo
quy luật này, đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt, là sự
vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Từ Đại hội VI, Đảng ta đã có những quan điểm đổi mới. Coi
trọng phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Từ sự đánh giá quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các
thành phần kinh tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định
11
phải giải phóng sức sản xuất, đồng thời đưa ra chủ trương điều chỉnh lớn
cơ cấu sản xuất, bố trí lại cơ cấu đầu tư; xây dựng và hoàn thiện một
bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất; cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc bảo đảm phát
triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao
động.
Đến Đại hội VII, cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng quan hệ
xã hội mới tiếp tục được khẳng định: “ Phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng của các hình thức sở hữu. Phát
triển kinh tế hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của kinh tế
quốc dân…” Đồng thời xác định: Mục tiêu của cơng nghiệp hố, hiện
đại hố là xây dựng nước ta thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật
chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh.
Có thể thấy chủ trương của Đảng là đúng. Bởi đường lối đó xuất
phát từ trình độ và tính chất của lực lượng lao động nước ta vừa thấp,
vừa khơng đồng đều nên khơng thể nóng vội, nhất loạt xây dựng quan
hệ sản xuất một thành phần dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất như trước.
Từ Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định “ Mục tiêu của Cơng
nghiệp hóa – Hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước cơng
nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại; có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đến năm 2020,
12
ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp.
Lực lượng sản xuất lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn
lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện
khí hóa cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng suất lao động và
hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay”.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được
phát triển thêm trong Đại biểu toàn quốc lần thử IX: “ Đẩy mạnh Cơng
nghiệp hóa - Hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả ba mặt
sở hữu, quản lý và phân phối theo định hướng xã hội chủ nghĩa…”.
Tóm lại cơng cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta,
đặc biệt là sự nghiệp Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa đang đặt ra một
vấn đề hết sức cơ bản và cấp bách là kết hợp chặt chẽ sự phát triển của
các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Cần phải đặt lên hàng đầu
sự phát triển của lực lượng sản xuất nhưng không bao giờ sao nhãng sự
phát triển quan hệ sản xuất. Cần phải khơng ngừng đổi mới các chính
sách kinh tế sao cho quan hệ sản xuất luôn luôn phát triển, đóng vai trị
tích cực thúc đẩy lực lượng sản xuất, hạn chế triệt tiêu các tác động kìm
hãm, làm cho toàn bộ nền kinh tế của đất nước luôn giữ đúng quỹ đạo
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
13
PHẦN III: KẾT LUẬN
Qua đề tài tiểu luận này chúng ta thấy được sự cần thiết phải
hiểu và vận dụng một cách tốt nhất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên thực tế
bất cứ ở đâu và lúc nào cũng khơng thể có được sự phù hợp tuyệt đối
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Nhưng phải tùy theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù
hợp. Sự vận dụng đúng đắn của Đảng và Nhà nước sẽ đem lại thành tựu
vô cùng to lớn cho nền kinh tế – xã hội nước ta, hoàn thành tốt mục tiêu
Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước. Tuy vậy, hạn chế, yếu kém
vẫn còn rất nhiều, địi hỏi cần có sự nỗ lực hết sức, phát huy mọi tiềm
năng vốn có để khắc phục.
Chỉ tính từ đổi mới đến nay, đất nước ta đã có những bước
chuyển mình lớn lao trong đời sống kinh tế xã hội. Đó là nhờ sự nhận
thức và vận dụng kịp thời quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất mở ra con đường đầy hứa hẹn cho sự phát triển của
đất nước. Trong tương lai, chúng ta sẽ là những người gánh vác nhiệm
vụ xây dựng và phát triển đất nước, vì vậy ngay từ lúc này cần nhận
thức rõ ràng và đúng đắn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
14
PHẦN IV: TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Công
v sản ViêtvNam, Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ X, XI,
XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội;
2. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
15
i V.I.Lênin Toàn tập,Nxb Tiến bộ, Macxcova, 1978, t1, tr.16
ii C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t.13, Sđd.tr.15