Phân tích đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”
của Nguyễn Huy Tưởng – bài mẫu 3
1. Hồi thứ năm, hồi cuối bi kịch lịch sử VŨ NHƯ TÔ xoay quanh một sự kiện chính: Sự kiện đốt phá
Cửu trùng đài, bắt, giết những người đã sáng tạo ra nó, chôn vùi họ trong tro tàn Cửu Trùng đài và trong
tro tàn của lịch sử một triều đại mục ruỗng của hôn quan bạo chúa. Bao trùm hồi kịch là một nỗi đau và
một niềm hoang mang lớn thấm đượm một ý vị triết mỹ sâu xa.
Hành động, sự kiện chính của hồi này có thể tóm tắt như sau:
Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn giữa nhân dân, thợ xây đài với Vũ Như Tô và bạo chúa Lê
Tương Dực, Trịnh Duy Sản cầm đầu một phe cánh đối nghịch trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi
kéo thợ thuyền làm phản. Biết tin có binh biến, bạo loạn trong phủ chúa, nguy hiểm đến tính mạng Vũ
Như Tô, Đan Thiềm hết lời khuyên và giục chàng đi trốn. Nhưng Vũ khăng khăng không nghe vì tự tin
mình “quang minh chính đại”, “không làm gì nên tội” và hi vọng ở chủ tướng An Hòa Hầu.
Tình hình càng lúc càng nguy kịch. Lê Tương Dực bị giết; đại thần, hoàng hậu, cung nữ của y cũng vạ
lây; Đan Thiềm bị bắt, .… Kinh thành điên đảo.
Khi quân khởi loạn đốt Cửu trùng đài thành tro, Vũ Như Tô mới tỉnh ngộ. Chàng trơ trọi, đau đớn vĩnh
việt cửu trùng đài rồi bình thản ra pháp trường.
Ở hồi này, mâu thuẫn, xung đột kịch đã được đẩy lên đến đỉnh điểm. Hai mâu thuẫn cơ bản của vở kịch
đã hòa vào nhau, “cô đặc các mâu thuẫn bên trong, phơi bày những xung đột sâu sắc của thực tại dưới
dạng bão hòa và căng thẳng đến cực độ mang ý nghĩa tượng trưng nghệ thuật”. Và, nếu như trong những
hồi đầu mâu thuẫn thứ hai chỉ tiềm ẩn, có vẻ mờ nhạt thấp thoáng đằng sau mâu thuẫn thứ nhất, thì giờ
đây, nó hầu như đã nhập hòa làm một với mâu thuẫn thứ nhất. Nó hầu như “không thể giải quyết” và, mọi
khắc phục mâu thuẫn đều dẫn đế “sự diệt vong những giá trị quan trọng”. Những giá trị quan trọng ấy là
Cửu Trùng Đài và những người đã dày công sáng tạo nên nó: Trớ trêu thay, gần cuối vở kịch, những
người dân nổi loạn (trong đó có những người thợ xây đài, vốn trước đây nặng ân nghĩa với Vũ Như Tô)
thậm chí, hầu như đã không mấy quan tâm đến việc trả thù bạo chúa Lê Tương Dực – việc này đã có phe
cánh Trịnh Duy Sản đảm nhiệm – mà chỉ mải mê đốt phá Cửu Trùng Đài và chăm chăm truy diệt Vũ Như
Tô, truy diệt người cung nữ “đồng bệnh” với ông là Đan Thiềm!
Tính đa nghĩa, thâm trầm, giàu sắc thái triết mỹ của vở kịch liên quan nhiều đến các biểu tưởng mà tác
giả đã dụng công tạo ra, hướng độc giả ít nhiều các suy tư về Tự do, Quyền lực, Sắc, Tài, Tình, Nhân dân,
Cái Thiện, Cái Ac, Cái Đẹp,… Trong đó hình tượng đa nghĩa mang tính biểu tượng nghệ thuật cần phải
nói đến trước tiên là Cửu Trùng Đài. Một mặt, Cửu Trùng Đài – như cái tên của nó – là một công trình
kiến trúc mà tầm vóc không thể chỉ tính đếm bằng lượng gỗ cây, đá khối, cho dù đó là những con số nghe
qua cũng đã đủ kinh hoàng (“hai trăm vạn cây gỗ chất đống cao như núi, toàn những gỗ quý vô
ngần”,“hai mươi vạn phiến đá lớn, bốn mươi vạn phiến đá nhỏ, từ Chân Lạp tải ra”). Tầm vóc của nó,
phải hình dung bằng chính tầm vóc ý tưởng, khát vọng đầy ngạo nghễ của người sẽ tạo ra nó: một công
trình độc nhất vô nhị, vượt xa tất cả những kỳ quan ở Trung Quốc, An Độ, Chiêm Thành,… và những
công trình mà người đời từng biết đến, từng truyền tụng. Lại là một kỳ quan bền vững, bất diệt. Xây công
trình, tác giả của nó không thèm “tranh tinh xảo” với người, chỉ “tranh tinh xảo với Hóa công”! Đó là
hiện thân của cái Đẹp, không phải cái Đẹp nó chung mà là cái Đẹp “siêu đẳng”. Với những nhà kiến trúc
tài cao, đây là dịp thi thố tài năng, thực hiện “mộng lớn”, khẳng định thiên tài kỳ vĩ của mình.
Mặt khác, Đài Cửu Trùng còn là hiện thân cho cái Đẹp xa hoa. Xây nên kỳ quan ấy, tất nhiên cực kỳ tốn
kém, một sự tốn kém không chỉ tính bằng tiền của ngân khố quốc gia, mà còn phải tính bằng cả mồ hôi,
nước mắt và máu nữa. Đánh đổi bằng tất cả những thứ đó, Đài Cửu Trùng được xây lên với mục đích gì?
Chưa biết trong tương lai thế nào, còn trước mắt, nhất là nhìn từ lợi ích của hôn quân Lê Tương Dực, thì
“xây đài” chỉ là để “cho vua chơi”! Nhưng ví thử, không gặp một ông vua hưởng thụ xa hoa như Lê
Tương Dực, thì chưa chắc và cũng chưa biết đến bao giờ, Vũ Như Tô được thi thố tài năng? Cái oái oăm
là ở đó, và mầm mống bi kịch của Vũ Như Tô cũng là ở đó.
Theo đó, ý nghĩa biểu tưởng thâm trầm của Cửu Trùng Đài được xác lập trên nhiều mối quan hệ. Cho dù
đó không phải là một nhân vật bi kịch, song người đọc có thể từ hình tượng này gạch các dấu gạch nối về
nhiều phía, xác lập quan hệ với nhiều nhân vật trong vở kịch để tìm hiểu ý nghĩa phong phú của nó: Với
Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài hiện thân cho “mộng lớn”. Với Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài hiện thân cho
niềm kiêu hãnh nước nhà. Với Lê Tương Dực, Cửu Trùng Đài là quyền lực và ăn chơi. Với dân chúng,
Cửu Trùng Đài là món nợ mồ hôi, xương máu,…
Trước lúc vở kịch hạ màn, sau khi dân chúng làm cái việc họ tất phải làm (đốt phá Cửu Trùng Đài thành
tro bụi), Vũ Như Tô và Đan Thiềm tột cùng đau đớn, tiếc nuối “vĩnh biệt” Cửu Trùng Đài, và vĩnh biệt
nhau (ĐAN THIỀM – Đài lớn tan tành! Ông cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt!; VŨ NHƯ TÔ – Đan Thiềm,
xin cùng bà vĩnh biệt!), thì cái tên Cửu Trùng Đài, trong một sắc thái chua chát mỉa mai, còn toát ra một ý
nghĩa khác: Cửu Trùng Đài là “mộng lớn” là biểu tưởng cho sự bền vững trường tồn, nhưng, cái Đẹp và
sự tồn tại của nó hóa ra lại chỉ ngắn ngủi và mong manh như một giấc chiêm bao!
Đó hẳn cũng là lý do để Nguyễn Huy Tưởng chọn cái tác phẩm thiên tài của người nghệ sĩ trong vở bi
kịch này là một công trình kiến trúc kỳ vĩ (chứ không phải là một pho tượng, bức tranh, bản nhạc, cuốn
tiểu thuyết,…), và người nghệ sĩ tác giả của tác phẩm ấy, phải là một kiến trúc sư (chứ không phải một
nhà điêu khắc, họa sĩ, nhạc sĩ, hay một nhà văn). Sự lựa chọn của Nguyễn Huy Tưởng tất nhiên không
bao hàm một cái nhìn thứ bậc, một thái độ trọng khinh, mà chỉ đơn giản là vì sự lựa chọn này giúp ông
triển khai được nhiều mối quan hệ và tạo cho biểu tượng nghệ thuật trở nên lung linh, lấp lánh nhiều tầng
ý nghĩa.
2. Trong hồi kịch này, Vũ Như Tô- Đan Thiềm, cũng là cặp hình tượng bi kịch mang tính biểu tượng
nghệ thuật cao.
Vũ Như Tô hiện lên như một tính cách bi kịch, vừa bướng bỉnh vừa mềm yếu vừa kiên định vừa dễ hoang
mang. Nhân vật bi kịch thường mang trong mình không chỉ những say mê khát vọng lớn lao mà còn
mang cả những lầm lạc trong hành động và tư duy của chính nó. Nhưng, không bao giờ khuất phục hoàn
cảnh, nhân vật bi kịch bướng bỉnh vùng lên chống lại và thách thức số phận.
Tính cách nổi bật nhất của Vũ Như Tô: là tính cách của người nghệ sĩ tài ba, hiện thân cho niềm khát
khao và đam mê sáng tạo Cái Đẹp. Nhưng trong một hoàn cảnh cụ thể cái đẹp ấy thành ra phù phiếm, nó
sang trọng, siêu đẳng, thậm chí, “cao cả và đẫm máu” như một “bông hoa ác”. Vì thế, đi tận cùng niềm
đam mê khao khát ấy Vũ Như Tô tất phải đối mặt với bi kịch đau đớn của đời mình. Chàng trở thành kẻ
thù của dân chúng, thợ thuyền mà không hay biết.
Cái tài ba được nói đến chủ yếu ở các hồi, lớp trước thông qua hành động của anh và nhất là lời của các
nhân vật khác nói về anh: thiên tài “ngàn năm chưa dễ có một”. Nghệ sĩ ấy có thể “sai khiến gạch đá như
viên tướng cầm quân, có thể xây những lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch
nhỏ”. Anh “chỉ vẩy bút là chim hoa đã hiện trên mảnh lụa thần tình biến hóa như cảnh hóa công”. Nhưng
chính vì quá đam mê khao khát đắm chìm trong sáng tạo mà Vũ càng dễ xa rời thực tế đời sống; càng
sáng suốt trong sáng tạo nghệ thuật thì càng mê muội trong những toan tính âu lo đời thường. Hồi thứ V
không nói nhiều đến tài năng của nhân vật (chỉ duy nhất có Đan Thiềm nhắc đến), mà đặt Vũ vào việc tìm
kiếm một câu trả lời: xây Đài Cửu Trùng là đúng hay sai? có công hay có tội? Nhưng Vũ không trả lời
được thỏa đáng câu hỏi đó bởi chàng chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập
trường của nhân dân, trên lập trường cái Đẹp mà không đứng trên lập trường cái Thiện. Hành động của
chàng không hướng đến sự hòa giải mà thách thức và chấp nhận sự hủy diệt. Vũ đã từng tranh tinh xảo
với hóa công, giờ lại bướng bỉnh tranh phải- trái với số phận và với cuộc đời. Hành động kịch hướng vào
cuộc đua tranh này thể hiện qua diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô.
Nếu Vũ Như Tô là người đam mê Cái Đẹp và khát khao sáng tạo Cái Đẹp thì tính cách của Đan Thiềm là
tính cách của người đam mê Cái Tài, cụ thể là tài sáng tạo nên cái đẹp. “Bệnh Đan Thiềm”, như chữ của
Nguyễn Huy Tưởng, là bệnh mê đắm người tài hoa, hay như chữ của Nguyễn Tuân bệnh của kẻ “biệt
nhỡn liên tài”. Nhưng cái tài ở đây không phải cái tài nói chung mà là cái tài siêu việt, siêu đẳng. Đan
Thiềm có thể quên mình để khích lệ, bảo vệ cái tài ấy, nhưng nàng luôn tỉnh táo, sáng suốt trong mọi
trường hợp vì nàng hiểu người hiểu đời hơn, thức thời, mềm mại và dễ thích ứng với hoàn cảnh hơn Vũ
Như Tô. Hai lần nàng khuyên nhủ Vũ Như Tô đều hết sức sáng suốt, nhưng lần thứ nhất lời khuyên có
hiệu lực, lần thứ hai thì không, bi kịch của Đan Thiềm chủ yếu gắn với thất bại này. Tất nhiên nàng chỉ
đau xót và tiếc thay cho Vũ Như Tô chứ không oán trách chàng. Giữa nàng với người đồng bệnh Vũ Như
Tô vẫn có một khoảng cách không thể vượt qua. Tâm lí của Đan Thiềm ở hồi thứ V tập trung diễn biến
theo sự thành bại của lời – cũng là hành động – khuyên can này.
Ở hồi cuối cả Vũ Như Tô và Đan Thiềm đều lâm vào trạng thái khủng hoảng với một nỗi đau chung: sự
“vỡ mộng” thê thảm. Nhưng diễn biến tâm trạng của họ có chiều hướng vận động và biểu hiện khác nhau.
Đan Thiềm cũng đau đớn nhận ra thất bại của giấc “mộng lớn” xây Cửu Trùng Đài, nhưng nhạy bén, sớm
sủa, kịp thời hơn Vũ Như Tô. Tâm trí của nàng giờ đây không còn hướng vào thành bại của việc xây Cửu
Trùng Đài mà hướng vào sự sống còn của Vũ Như Tô, người nghệ sĩ “tài trời” nghìn năm có một. Nàng
khẩn khoản khuyên Vũ đi trốn, và thấy lời khuyên của mình vô hiệu thì hốt hoảng đau đớn tột cùng.
Trong mấy lớp liên tiếp của hồi V, Đan Thiềm đã năm lần bảy lượt khuyên Vũ Như Tô “trốn đi” (15 lần
khuyên trốn, điệp khúc trốn đi, lánh đi, chạy đi vang lên đến 14 lần; 4 lần nàng van lạy phe nổi loạn “tha
cho ông cả”). Điệu bộ nàng “hớt hơ hớt hải” “mặt cắt không còn một giọt máu”. Giọng nàng “thở hổn
hển”, đứt đoạn trong âm vang kinh hoàng điên đảo của bạo loạn chốn cung đình, trong khi mà chính nàng
bị sỉ vả bắt bớ rất bất công, oan nghiệt. Lời nói của nàng khẩn khoản như đẫm máu và nước mắt (ĐAN
THIỀM: – Tướng quân nghe tôi. Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Nhưng xin tướng quân tha cho ông Cả.
Ông ấy là một người tài…). Đến lúc nhận ra đến cả việc đổi mạng sống của mình để cứu Vũ Như Tô
cũng không được nữa thì Đan Thiềm đành buông lời vĩnh biệt tất cả. (Nàng nói: “Đài lớn tan tành! Ong
Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt!”, mà không nói: “Vĩnh biệt ông Cả!”). Đó cũng là lời vĩnh biệt mãi mãi
Cửu trùng đài, vĩnh biệt một “giấc mộng lớn” trong máu và nước mắt.
Vũ Như Tô, trái lại, vẫn không thể thoát ra khỏi trạng thái mơ màng, ảo vọng của chính mình. Chàng
không thể tin rằng cái việc cao cả mình làm lại có thể bị xem là tội ác, cũng như không thể tin sự quang
minh chính đại của mình lại bị rẻ rúng, nghi ngờ. Sự “vỡ mộng” của Vũ vì thế đau đớn, kinh hoàng gấp
bội so với Đan Thiềm. Nỗi đau ấy bộc lộ thành tiếng kêu bi thiết mà âm điệu não nùng, khắc khoải của nó
thành âm hưởng chủ đạo bao trùm đọan kết đã đành mà còn thành một thứ chủ âm dội ngược lên toàn bộ
những phần trước của vở bi kịch. “Ôi mộng lớn! Oi Đan Thiềm! Oi Cửu Trùng Đài!”. Đó cũng là những
tiếng kêu cuối cùng của Vũ Như Tô khi ngọn lửa oan nghiệt đang bùng bùng thiêu trụi Cửu Trùng Đài,
trước khi tác giả của nó bị dẫn ra pháp trường. Trong tiếng kêu ấy “mộng lớn”, “Đan Thiềm”, “Cửu
Trùng Đài” đã được Vũ đặt liên kế với nhau, nỗi đau mất mát như nhập hòa làm một, thành một nỗi đau
bi tráng tột cùng.
Như vậy điễn biến tâm trạng của hai nhân vật ở hồi cuối này góp phần thể hiện tính cách bi kịch ở mỗi
người cũng như những gì được xem là “đồng bệnh”, “tri âm” (hay đồng điệu) ở họ, đồng thời qua đó, góp
phần khơi sâu hơn chủ đề của tác phẩm.
Chứng “đồng bệnh” ở Đan Thiềm và Vũ Như Tô được chính hai người nói ra, cả khi tự nói về mình –
“đôi mắt thâm quầng này do những lúc thức khi người ngủ, khóc khi người cười, thương khi người
ghét”¬ – lẫn khi nói về Vũ Như Tô– “Tài làm lụy ông, cũng như nhan sắc người phụ nữ… tài bao nhiêu,
lụy bấy nhiêu”. Chứng “đồng bệnh” ấy, thực chất là sự đồng điệu trong mộng ước, đồng điệu trong nỗi
đau… xuất phát từ sự tự ý thức sâu xa về bi kịch của Tài và Sắc (hay là sự bạc bẽo của thân phận nghệ sĩ
và giai nhân, được thâu tóm cô đúc trong chữ Lụy).
3. Bằng một ngôn ngữ kịch có tính tổng hợp rất cao, nhất là trong hồi cuối Vũ Như Tô, nhà văn đã đồng
thời khắc họa tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt hành động, xung đột kịch rất thành công, tạo nên một
bức tranh đời sống bi kịch rất hoành tráng trong nhịp điệu bão tố của nó.
Nhịp điệu được tạo ra thông qua nhịp điệu của lời nói – hành động (nhất là qua khẩu khí, nhịp điệu, sắc
thái lời nói – hành động của Đan Thiềm ¬– Vũ Như Tô đối đáp với nhau và với phe đối nghịch; qua lời
nói¬ ¬– hành động của những người khác trong vai trò đưa tin, nhịp điệu “ra”, “vào” của các nhân vật
đầu và cuối mỗi lớp – các lớp đều ngắn, có những lớp rất ngắn: chỉ dăm ba lượt thoại nhỏ; những tiếng
reo, tiếng thét, tiếng động dội từ hậu trường phản ánh cục diện, tình hình nguy cập, điên đảo trong các lời
chú thích nghệ thuật hàm súc của tác giả).
Với một ngôn ngữ có tính tổng hợp (kể, miêu tả, bộc lộ…) và tính hành động rất cao như vậy, người ta dễ
dàng hình dung cả một không gian bạo lực kinh hooàng trong một nhịp điệu chóng mặt: Lê Tương Dực bị
Ngô Hạch giết chết, Hoàng hậu nhảy vào lửa tự vẫn (qua lời kể của Lê Trung Mại); Nguyễn Vũ tự tử
bằng dao (ngay trên sân khấu), Đan Thiềm suýt bị bọn nội giám thắt cổ ngay tại chỗ; Vũ Như Tô ra pháp
trường. Rồi tiếng nhiếc móc, chửi rủa, la ó, than khóc, máu, nước mắt… tất cả hừng hực như trên một cái
chảo dầu sôi lửa bỏng khổng lồ.
Nhưng đây lại là một bi kịch lịch sử. Viết một vở kịch lịch sử, Vũ Như Tô tất nhiên dựa trên các sử liệu:
sự kiện, nhân vật lịch sử, bối cảnh lịch sử. Điều quan trọng là khai thác vận dụng các sử liệu ấy như thế
nào, sao cho phù hợp với yêu cầu của bi kịch. Và lịch sử có lô gic và qui luật của nó, tàn khốc, lạnh lùng.
Cái lõi lịch sử được nhà văn khai thác ở đây là câu chuyện Vũ Như Tô xây Cửu trùng đài cho Lê Tương
Dực (theo như sách Đại Việt sử kí và Việt sử thông giám cương mục ghi lại). Đài xây dang dở, người thợ
tài hoa Vũ Như Tô đã phải chịu cái chết oan khốc. Ở đây, để góp phần làm nên cái khung cảnh và không
khí bi tráng của lịch sử, tác giả đã đặt hành động kịch vào trong “một cung cấm”, nhiều nhân vật kịch là
những nhân vật lịch sử. Nhiều tên đất tên người gắn với triều Lê… Đúng như lời chú thích sân khấu của
tác giả: Sự việc trong vở kịch xảy ra ở Thăng Long trong khoảng thời gian từ năm 1516 đến năm 1517,
dưới triều Lê Tương Dực.
4. Thực tại được phản ánh trong bi kịch theo lối cô đặc các mâu thuẫn bên trong, phơi bày những xung
đột sâu sắc của thực tại dưới dạng bão hòa và căng thẳng đến cực độ mang ý nghĩa tượng trưng nghệ
thuật. Tác phẩm thường đặt độc giả trước những câu hỏi phức tạp, hóc búa, nhức nhối của cuộc sống.
Trong lời Đề tựa viết một năm sau khi viết xong vở kịch, chính Nguyễn Huy Tưởng đã công khai bày tỏ
nỗi băn khoăn của mình: “Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc? Chẳng biết Vũ Như Tô
phải hay những kẻ giết Như Tô phải […]. Than ôi, Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta
chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với đan Thiềm”.
Cho đến khi bi kịch hạ màn, người xem vẫn chưa thấy đâu câu trả lời dứt khoát của tác giả. Nói đúng hơn
ông nhường câu trả lời cho người đọc người xem. Mâu thuẫn và tính không dứt khoát trong cách giải
quyết mâu thuẫn này được thể hiện tập trung trong hồi cuối của vở kịch. Cửu Trùng Đài sụp đổ và bị đốt
cháy, nhân dân trước sau vẫn không hiểu gì việc sáng tạo của nghệ sĩ, không hiểu nổi Đan Thiềm, Vũ
Như Tô cũng như “mộng lớn” của hai nhân vật hiện thân cho tài sắc này. Về phía khác, Đan Thiềm không
cứu được Vũ Như Tô và Họ Vũ vẫn không thể, không bao giờ hiểu được việc làm của quần chúng và của
phe cánh nổi loạn.
Mâu thuẫn mà vở bi kịch nêu lên thuộc loại mâu thuẫn không bao giờ và không ai giải quyết cho thật dứt
khoát, ổn thỏa được, nhất là trong thời đại Vũ Như Tô. Mâu thuẫn này may ra có thể giải quyết được phần
nào thỏa đáng khi mà đời sống vật chất của nhân dân thật bình ổn, đời sống tinh thần nhu cầu về cái đẹp
trong xã hội được nâng cao lên rõ rệt. Mặc dầu vậy, chủ đề và định hướng tư tưởng của vở kịch vẫn được
phát triển tương đối sáng tỏ.
Một mặt, trên quan điểm nhân dân, vở kịch lên án bạo chúa tham quan, đồng tình với việc dân chúng nổi
dậy trừ diệt chúng; nhưng mặt khác, trên tinh thần nhân văn, vở kịch đã ca ngợi những nhân cách nghệ sĩ
chân chính và tài hoa như Vũ Như Tô, những tấm lòng yêu quý nghệ thuật đến mức quên mình như Đan
Thiềm.
Đây là chủ đề được thể hiện chủ yếu qua mâu thuẫn thứ hai của vở kịch: mâu thuẫn giữa niềm khát khao
hiến dâng tất cả cho nghệ thuật của người nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng với lợi ich trực tiếp và thiết
thực của đời sống nhân dân.
Các từ khóa trọng tâm " cần nhớ " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên:
• đọc đoạn trích vĩnh biệt cửu trùng đài
• Cai dep trong chu nguoi tu tu va vinh biet cuu trung dai
• Phan tich hai mau thuan trong doan trich vinh biet cuu trung dai
• ten nhan vat trong truyen vu nhu to cua huy tuong
• Suy nghi cua em ve so phan bi kich cua nhan vat vu nhu to trong doan trich vinh biet cuu trung dai
• Soạn bài vĩnh biệt cửu đầu
• soan bai cuu trung dai
• quan điểm nghệ thuật của tác giả nguyễn huy tưởng trong vở bi kịch vĩnh biệt cửu trùng đài là gì?
qua hai nhân vật vũ như tô và đan thiềm hãy làm sáng tỏ hệ thống trên
• Phân tích lời đề tựa kịch vũ như tô
• Phân tich đoan trich vinh vinh biet cuu trung đai
• phan tich tam trang vu nhu to va dan thiem trong doan trich vinh biet cuu trung dai
• phân tích tâm trạng của vũ như tô và đan thiềm trong đoạn trích vĩnh biệt cửu trùng đài
• phan tich so phan bi kich cua nham vat vu nhu to qua doan trich vinh biet cuu trung dai
• phan tich nhyng mau thuan xung dot chong vo kich vu nhu to
• phan tich nhung mau thuan trong tac pham vinh biet cuu trung dai ,