Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

khảo sát tình hình cung cấp và sử dụng thức ăn trong nuôi tôm càng xanh, cá tra và cá lóc ở đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 70 trang )

i

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN









LÊ VĂN LIÊM



KHẢO SÁT TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG THỨC ĂN
TRONG NUÔI TÔM CÀNG XANH, CÁ TRA VÀ CÁ LÓC Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG









LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN







2007
ii

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN






LÊ VĂN LIÊM




KHẢO SÁT TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG THỨC ĂN
TRONG NUÔI TÔM CÀNG XANH, CÁ TRA VÀ CÁ LÓC Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG







LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN




CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
TS LÊ XUÂN SINH




2007

iii


XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC

Luận văn kèm theo đây với tựa đề là: “Khảo sát tình hình cung cấp và sử dụng
thức ăn trong nuôi tôm càng xanh, cá Tra và cá Lóc ở Đồng bằng sông Cửu
Long” do Lê Văn Liêm, học viên lớp Cao học Nuôi trồng Thủy sản - khóa 11
thực hiện và báo cáo đã được Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp cao học
thông qua.

Ủy viên Ủy viên, thư ký



Ts. Lê Xuân Sinh Ts. Phạm Văn Khánh

Phản biện 1 Phản biện 2



Ts. Trần Thị Thanh Hiền Ts. Lê Thanh Hùng


Cần Thơ, ngày tháng năm 2007
Chủ tịch hội đồng



PGs.Ts. Nguyễn Anh Tuấn
iv

LỜI CẢM TẠ

Tác giả chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm Khoa Thủy sản và Phòng Quản lý
Đào tạo Sau đại học, Trường Đại học Cần Thơ đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi được học tập nâng cao kiến thức trong thời gian qua.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Lê Xuân Sinh đã tận tình giúp đỡ,
hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn tốt
nghiệp này.
Tác giả xin cảm ơn đến cô Trần Thị Thanh Hiền, người có nhiều góp ý xây
dựng đề cương luận văn.
Xin cảm ơn tập thể Quí Thầy Cô trong Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần
Thơ, các anh Nguyễn Huấn, Nguyễn Văn Tiến, Võ Minh Khôi và các bạn học
viên lớp Cao học Thủy sản khoá 10 và 11, cùng với các anh chị em Sở Thủy
sản, Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn thuộc 3 tỉnh Cần Thơ, An
Giang và Đồng Tháp đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu

làm đề tài trên địa bàn các tỉnh này.
Sau cùng là lời cảm ơn đến gia đình và những người thân, bạn bè đã giúp đỡ
tôi rất nhiều trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Lê Văn Liêm

v

KÍNH TẶNG
vi

TÓM TẮT
Nuôi cá nước ngọt có tiềm năng lớn góp phần quan trọng trong phát triển kinh
tế xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long, các mô hình nuôi thủy sản tăng nhanh
và đa dạng dẫn đến việc cung cấp và sử dụng thức ăn trong quá trình nuôi
trồng thủy sản cần được xem xét trên một số mô hình nuôi.
Nghiên cứu này được thực hiện thông qua khảo sát 33 cơ sở nuôi cá Tra
(Pangasius hypophthalmus) thâm canh, 45 hộ nuôi tôm càng xanh
(Macrobrachium rosenbergii), 46 hộ nuôi cá Lóc (Channa striata), 19 nhà
máy sản xuất và Đại lý kinh doanh thức ăn NTTS. Thời gian nghiên cứu được
tiến hành từ tháng 11 năm 2006 đến tháng 10 năm 2007 trên địa bàn 3 tỉnh An
Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tình hình cung
cấp và sử dụng thức ăn cho nuôi trồng thủy, sản góp phần cải thiện hiệu quả
kinh tế - kỹ thuật các mô hình nuôi.
Đại lý cung cấp và kinh doanh thức ăn cho NTTS hàng năm bán ra bình quân
1.656 tấn TACN. Giá TACN dao động trong khoảng 5.990 - 7.000đ/kg. Với
nhà máy chế biến thức ăn thủy sản sản xuất bình quân 44.000 tấn/năm. Giá
TACN bán ra từ nhà máy sản xuất cho Đại lý và người nuôi dao động từ 5.000
- 6.780 đ/kg.
Mô hình nuôi cá Tra sử dụng trung bình 409±268 tấn TACN và 152±543 tấn

TATC tấn/ha/vụ. Với mô hình nuôi TCX lượng thức ăn bình quân được sử
dụng 23.830 kg/ha/vụ, trong đó nhiều nhất là OBV 21.366 kg (89,7% tổng
lượng TA), kế đến là TACN 2.020 kg (8,5%), cá tạp nước ngọt 364 kg (1,5%)
và cá tạp biển 80 kg (0,3%). Mô hình nuôi cá Lóc, để nuôi 1m
2
cá Lóc trong
mùng lưới thì người nuôi phải sử dụng 166±120 kg phụ phẩm cá Tra, Basa/vụ,
115±159 kg cá tạp biển/vụ và 126±116 kg cá tạp nước ngọt/vụ.
Thời gian nuôi cá Tra từ 5 - 6 tháng thì có hiệu quả cao về kinh tế, thu hoạch
sớm hơn hay muộn hơn đều không đem lại hiệu quả cao về kinh tế.
Mô hình nuôi cá Tra sử dụng chủ yếu TACN có hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR)
thấp nhất (1,75±0,72), mô hình nuôi cá Lóc (100% TATS) có FCR là
(3,49±0,65) và mô hình TCX có FCR nhiều nhất là (12,53±11,10).
vii

ABSTRACT
Fresh water culture is one of the potential for social economic development of
the Mekong delta, Vietnam, intensification and diversity in aquaculture were
important issues, feed and feeding is considered factors directly effects.
The research was carried out by interviewing 33 households who are rearing
catfish (Pangasius hypohthalmus) in intensive system, 45 households who are
rearing prawn (Macrobrachium rosenbergii) and 46 households who were
rearing snakehead (Channa striatas), 19 factories and wholesalers where
provide pellets for aquaculture activities in the region. This research was
implemented from November 2006 to October 2007 in Can Tho, An Giang
and Dong Thap provinces.
Result of research showed that wholesalers provided 1.656 tones/ha/year,
price of commercial feeding was 5,990 - 7,000 VND/kg, each factory could
provide 44,000 tones/year, price of feeds at selling was 5,000 - 6,780 đ/kg.
Catfish culture used pellet and man-made were 409±268 tones/ha/crop and

152±543 tones/ha/crop respectively. In term of prawn culture, golden snail,
pellet and trash fish with rates 21,366kg /crop/ha (89.7%), 2,020 kg/ha/crop
(8.5%) and trash fish was 364 kg/ha/crop respectively. Snakehead culture used
166±120 by-product from frozen factories and 241±275 kg/ha/crop.
The best duration for catfish culture was 5 - 6 months, in term of early or late
in harvesting were less economic effectives.
FCR for catfish, snakehead, and prawn culture were 1.75±072, 3.49±0.65 and
12.53±11.10 respectively. Research also found that needs more studying to
enhance ratios of trash fish in prawn culture, pellet need to be managed strictly
to limits products with low quality on market, need to research more on using
pellet to reduce impacts on the environment planning in exploiting fresh water
resource are necessary.
Keywords: feeding, feed, snakehead, prawn, catfish

viii
LỜI CAM KẾT

Tôi xin cam đoan luận văn này được hoàn thành dựa trên kết quả nghiên cứu
của chính tôi với sự hướng dẫn và giúp đỡ của các thầy cô và các bạn học
viên Cao học khóa 10 và 11 trong Khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ,
các anh chị em thuộc sở NN&PTNT 3 tỉnh Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp.
Các kết quả của nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp
nào.



Lê Văn Liêm
Ngày 05 tháng 12 năm 2007

ix

MỤC LỤC
Trang
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC i
LỜI CẢM TẠ iv
KÍNH TẶNG v
TÓM TẮT vi
ABSTRACT vii
LỜI CAM KẾT viii
MỤC LỤC ix
DANH SÁCH BẢNG xi
DANH SÁCH HÌNH xii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT xiii
CHƯƠNG I : GIỚI THIỆU 1
CHƯƠNG II: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1. Tình hình phát triển thủy sản trên thế giới 3
2.2. Tình hình phát triển thủy sản Việt nam 4
2.3. Nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL 6
2.4. Nuôi trồng thủy sản ở An Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ 14
2.5. Vai trò của thức ăn đối với nuôi trồng thuỷ sản 15
2.6 Tình hình cung cấp và sử dụng thức ăn cho NTTS ở ĐBSCL 16
CHƯƠNG III : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
3.1. Thời gian thực hiện và địa điểm nghiên cứu 20
3.2. Vật liệu và trang thiết bị 21
3.3. Phương pháp nghiên cứu 21
3.4. Danh mục các biến chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu 23
CHƯƠNG IV : KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 24
4.1. Tình hình sản xuất và cung cấp thức ăn cho NTTS ở ĐBSCL 24
4.1.1. Thông tin chung về các CSSX và cung cấp thức ăn cho NTTS 24
4.1.2. Tình hình sản xuất và cung cấp thức ăn 24
4.1.3. Thông tin kinh tế - xã hội của các cơ sở sản xuất và cung cấp TA 25

4.2. Thông tin từ các cơ sở nuôi trồng thủy sản 28
4.2.1. Thông tin chung về hộ nuôi trồng thủy sản 28
4.2.2. Thông tin về con giống 29
4.2.3. Thông tin kinh tế - kỹ thuật của các mô hình nuôi thủy sản 31
4.3. Thông tin về thức ăn trong nuôi trồng thuỷ sản 33
4.3.1. Các loại thức ăn được sử dụng phổ biến trong các mô hình nuôi 33
4.3.2. Lượng thức ăn sử dụng/ha/vụ hay /m
2
/vụ 35
4.3.3. Nguồn cung cấp của các loại thức ăn 37
4.4. Hiệu quả kinh tế kỹ thuật của các mô hình nuôi 40
4.5. Các y
ếu tố ảnh hưởng đến năng suất, lợi nhuận của các mô hình 41
4.5.1. Tương quan đa biến về NS và LN của mô hình nuôi TCX 41
x
4.5.2. T
ương quan đa biến về NS và LN của mô hình nuôi cá Tra 43
4.5.3. Tương quan đa biến về NS và LN của mô hình nuôi cá Lóc 45
4.5.4. Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến các mô hình nuôi 47
4.6. Ảnh hưởng của việc sử dụng các loại thức ăn đối với cạnh tranh thực phẩm, ô
nhiễm môi trường và sử dụng lao động 49
4.6.1. Cạnh tranh về thực phẩm cho cộng đồng khi sử dụng thức ăn TS 49
4.6.2. Khả năng gây ô nhiễm môi trường khi sử dụng thức ăn thuỷ sản 49
4.6.3. Tác động của các loại thức ăn đến việc sử dụng lao động 50
4.6.4. Một số đề xuất/giải pháp, hạn chế, tác động của thức ăn đến môi trường,
thực phẩm và sử dụng lao động 51
CHƯƠNG V : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 52
5.1. Kết luận 52
5.2. Đề xuất 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO 54

PHỤ LỤC 58
xi
DANH SÁCH BẢNG

Bảng 2.1: Tỉ lệ diện tích nuôi trồng Thủy Sản ở từng vùng trên cả nước 6
Bảng 2.2: Các chỉ tiêu tổng hợp tình hình nuôi cá Tra ở An Giang 10
Bảng 3.1 : Số mẫu phỏng vấn nông hộ theo mô hình nuôi 21
Bảng 3.2: Số mẫu phỏng vấn các cơ sở sản xuất kinh doanh thức ăn thuỷ sản 22
Bảng 4.1. Bảng thông tin chung về hộ NTTS 29
Bảng 4.2: Các yếu tố kỹ thuật của các mô hình nuôi 33
Bảng 4.3: Lượng các loại thức ăn sử dụng/ha/vụ hay /m
2
/vụ 36
Bảng 4.4 : Giá trung bình của các loại thức ăn trong các mô hình nuôi 37
Bảng 4.5: Hệ số tiêu tốn thức ăn trong các mô hình nuôi 40
Bảng 4.6: Cơ cấu chi phí của các mô hình nuôi thủy sản 40
Bảng 4.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất của mô hình nuôi TCX 41
Bảng 4.8: Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của mô hình nuôi TCX 42
Bảng 4.9: Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất của mô hình nuôi cá Tra 43
Bảng 4.10: Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của mô hình nuôi cá Tra 43
Bảng 4.11: Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất của cá Lóc 45
Bảng 4.12: Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của mô hình nuôi cá Lóc 466
Bảng 4.13 : Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng thức ăn của các mô hình nuôi 48
Bảng 4.14: Tác động của các loại thức ăn đến việc giảm thực phẩm 499
Bảng 4.15: Tác động của các loại thức ăn đến khả năng ô nhiễm môi trường 50
Bảng 4.16: Tác động của các loại thức ăn đến việc sử dụng lao động 50
Bảng 4.17: Các giải pháp giảm tác động xấu khi sử dụng thức ăn thuỷ sản 51

xii
DANH SÁCH HÌNH



Hình 2.1: Sản lượng nuôi trồng và khai thác ở Việt Nam 4
Hình 2.2: Sản lượng nuôi trồng và diện tích nuôi ở Việt Nam 5
Hình 2.4: Mô hình nuôi cá Tra trong ao ở ĐBSCL 9
Hình 2.5: Mô hình nuôi tôm càng xanh trong ao, ruộng ở ĐBSCL 11
Hình 2.6: Mô hình nuôi cá Lóc và thị trường nội địa ở ĐBSCL 13
Hình 2.7: Nuôi trồng thủy sản và sử dụng thức ăn ở ĐBSCL 15
Hình 2.8: Nguyên liệu cá tạp từ các vựa phân phối cho các vùng NTTS 17
Hình:2.9: Nguyên liệu cá tạp từ các tàu khai thác phân phối cho các vùng NTTS 17
Hình1.10: Nguyên liệu cá tạp được nông hộ tự chế thức ăn cho NTTS 18
Hình 3.1: Bản đồ Đồng bằng sông Cửu Long 1
Hình 4.1: Sơ đồ phân phối thức ăn cho NTTS nước ngọt 25
Hình 4.2: Tháng cá tạp được bán nhiều trong năm (al) 26
Hình 4.3: Tỉ lệ các loại thức ăn được các Đại lý bán trên thị trường 27
Hình 4.4 : Các loại thức ăn được sử dụng trong nuôi cá Tra 33
Hình 4.5 : Các loại thức ăn được sử dụng trong nuôi TCX 34
Hình 4.6: Tỷ lệ các hộ sử dụng các loại thức ăn trong nuôi TCX 34
Hình 4.7: Tỷ lệ các hộ sử dụng các loại thức ăn trong nuôi cá Lóc 35
Hình 4.8: Tỷ lệ % lượng các loại thức ăn trong nuôi TCX 36
Hình 4.9: Lượng các loại thức ăn sử dụng/m
2
/vụ trong nuôi cá Lóc 37
Hình 4.10: Tỷ lệ nguồn cung cấp của TACN trong nuôi TCX (a) và cá Tra (b) 38
Hình 4.11: Tỷ lệ nguồn cung cấp OBV 38
Hình 4.12: Tỷ lệ nguồn cung cấp cá tạp biển (a) và cá tạp nước ngọt (b) 39
Hình 4.14 : Tổng Chi phí của mô hình nuôi cá Tra (a), TCX (b) và cá Lóc (c) 41
Hình 4.15a;b: Ảnh hưởng của Mật độ, % lượng TATS lên NS và LN của TCX 43
Hình 4.16a;b: Kích cỡ giống và mật độ thả nuôi ảnh hưởng đến NS và LN mô hình
cá Tra 44

Hình 4.17a;b: Ảnh hưởng của Lượng TACN, thời gian thu hoạch đến NS và LN mô
hình cá Tra 45
Hình 4.18a;b: Tần suất, tỷ lệ thay nước ảnh hưởng đến NS và LN của mô hình nuôi
cá Lóc 46
Hình 4.19a;b: Lượng TATS, kích cỡ thu hoạch ảnh hưởng đến NS và LN của mô
hình nuôi cá Lóc 47



xiii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CSSX Cơ sở sản xuất
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
ĐL Đại lý
ĐVT Đơn vị tính
EAA Acid amin thiết yếu
KT-XH Kinh tế xã hội
LN Lợi nhuận
NLTS Nguồn lợi thủy sản
NMCB Nhà máy chế biến
NN & PTNT Nông nghiêp và phát triển nông thôn
NS Năng suất
NTTS Nuôi trồng thủy sản
OBV Ốc bươu vàng
P Post
SXKD Sản xuất kinh doanh
TA Thức ăn
TACB Thức ăn chế biến

TACN Thức ăn công nghiệp
TATS Thức ăn tươi sống
TC Total Costs (Tổng chi phí)
TCX Tôm càng xanh
TFC Total Fixed Costs (Chi phí cố định)
TP Thành phố
TR Total Revernue (Tổng thu nhập)
TVC Total Variable Costs (Chi phí biến đổi)

1

CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU
Đất nước Việt Nam với mạng lưới sông ngòi chằng chịt kéo dài từ Lạng Sơn
đến mũi Cà Mau, có tiềm năng lớn cho phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS),
với 1.692.878 ha diện tích mặt nước, trong đó 911.740 ha diện tích mặt nước
ngọt và 761.138 ha diện tích mặt nước mặn lợ (Bộ Thủy sản, 2003). Diện tích
NTTS năm 2002 là 955.101 ha, sản lượng 976.100 tấn, trong đó NTTS nước
mặn, lợ là 530.000 ha, nước ngọt là 425.000 ha với nhiều đối tượng và mô
hình nuôi khác nhau (Bộ Thủy sản, 2003). Năm 2004 cả nước có 110.832
trang trại và năm 2005 tăng lên 119.586 trang trại. Bên cạnh đó, diện tích
NTTS cũng tăng lên qua các năm, năm 2004 cả nước có 920.100 ha diện tích
mặt nước dùng cho NTTS, năm 2005 tăng lên 959.900 ha (Niên giám thống
kê, 2005).
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), có nhiều dạng hình thủy vực rất thuận
lợi cho (NTTS), diện tích đất tự nhiên của ĐBSCL là 3,96 triệu ha. Năm 1995,
diện tích mặt nước NTTS của ĐBSCL là 189.400 ha, đến năm 2003 đã là
614.600 ha và theo định hướng quy hoạch đến năm 2010 sẽ là 649.430 ha (Bộ
Thủy sản, 2005).
Trong những năm gần đây, nghề nuôi thủy sản ở ĐBSCL đã có bước phát

triển vượt bậc, sản lượng nuôi thủy sản nước ngọt của toàn vùng đạt 363.359
tấn, chiếm 61,7% sản lượng thủy sản nước ngọt của cả nước (Bộ Thủy sản,
2005). Khi nói đến sự gia tăng sản lượng nuôi thủy sản nước ngọt phải kể đến
sự gia tăng nhanh chóng không chỉ về diện tích, mức độ thâm canh đáng chú ý
là sản lượng cá da trơn (tra và Basa),cá Lóc và tôm càng xanh. Sản lượng hai
loài này đạt 200.000 tấn năm 2002 (Bộ Thủy sản, 2003), tăng lên rất nhanh
gần 1.000.000 tấn năm 2006. Cá Lóc là loài nuôi quan trọng sau cá Tra và
Basa. Theo báo cáo của Sở NN & PTNT An Giang (2004) thì sản lượng cá
Lóc nói chung khoảng 5.294 tấn. Sản lượng nuôi trồng 181.952 tấn so với
cùng kỳ tăng 0,63% (180.809 tấn) trong đó: cá Tra, Basa 145.421 tấn (80,3%),
các loại khác 35.698 tấn (19,7%) và tôm 815 tấn, tăng 115 tấn so với cùng kỳ
(Sở Thủy sản An Giang, 2006). Theo thống kê từ các tỉnh, năm 1999 ở
ĐBSCL có trên 6.000 ha nuôi TCX, đạt sản lượng 2.500 tấn (Bộ Thủy sản,
2000) đến năm 2002 TCX cả nước đạt 10.000 tấn nhưng chủ yếu là từ các tỉnh
ĐBSCL (Bộ Thủy sản, 2003). Diện tích nuôi thủy sản của thành phố Cần Thơ
năm 2006 là 14.427,7 ha, tăng hơn 15% so kế hoạch năm 2006 (12.500 ha) và
tăng gần 12% so với năm 2005 (12.880 ha). Trong đó cá ao 3.031 ha, cá Tra
2

797,8 ha, tôm càng xanh 376,2 ha. An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp và một số
tỉnh khác có tiềm năng rất lớn để phát triển NTTS.
Cùng với nghề nuôi thủy sản của các tỉnh khu vực ĐBSCL đã và đang phát
triển rất mạnh, việc cung cấp và sử dụng thức ăn cho các đối tượng nuôi với số
lượng lớn thức ăn đáng kể nhằm tăng năng suất nuôi và tăng hiệu quả kinh tế
của các mô hình nuôi thủy sản. Do đó việc nghiên cứu về tình hình cung cấp
và sử dụng thức ăn trong các mô hình nuôi thủy sản là rất quan trọng và cần
thiết. Đó là lý do đề tài:
"Khảo sát tình hình cung cấp và sử dụng thức ăn trong
nuôi tôm càng xanh, cá Tra và cá Lóc ở Đồng bằng sông Cửu Long”
được thực

hiện.
Mục tiêu của đề tài
Đề tài này nhằm phân tích và đánh giá tình hình cung cấp và sử dụng thức ăn
để góp phần cải thiện hiệu quả kinh tế - kỹ thuật trong các mô hình nuôi thủy
sản Tôm càng xanh, cá Tra và cá Lóc tại vùng nước ngọt của ĐBSCL.
Nội dung nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với các nội dung sau:
- Phân tích và đánh giá tình hình cung cấp thức ăn cho NTTS ở địa bàn nghiên
cứu.
- Khảo sát thu thập thông tin về các mô hình nuôi tôm càng xanh (ao, ruộng),
cá Tra và cá Lóc ở ĐBSCL (An Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ).
- Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng thức ăn trong các mô hình nuôi được
nghiên cứu.
- Tìm hiểu khả năng cạnh tranh về thực phẩm cho cộng đồng, sử dụng lao
động và khả năng gây ô nhiễm.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế -
kỹ thuật của các mô hình nuôi qua cải tiến khâu cung cấp và sử dụng thức ăn.
3

CHƯƠNG II
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1. Tình hình phát triển thủy sản trên thế giới
Nguồn lợi và sản phẩm thủy sản mang lại từ các hoạt động nuôi trồng thủy
sản, bảo vệ và khai thác hợp lý từ con người đã đóng góp tích cực vào sự an
toàn thực phẩm cho con người trên khắp các châu lục. Tổng sản phẩm thủy
sản thế giới năm 2001 ước đạt 128,8 triệu tấn trong đó nuôi trồng là 37,5 triệu
tấn. Năm 2002 tổng sản lượng thủy sản thế giới là 133 triệu tấn trong đó sản
lượng nuôi trồng là 51,4 triệu tấn (Lowther, 2004).
Các thuộc địa cũ của Pháp như Tahiti, Martineque, Guadeloup, Guyana,
nuôi tôm càng xanh theo 2 phương pháp là nuôi gián đoạn và nuôi liên tục

(đánh tỉa thả bù sau 2 - 3 năm mới xả cạn), năng suất đạt 2 - 4 tấn/năm
(Nguyễn Việt Thắng và ctv., 1995). Ở Hawaii năm 1981 nuôi tôm càng xanh
đạt 4.000 - 5.000 tấn/năm (New, 1988). Tại Mỹ năng suất trung bình từ 1.200
- 1.800 kg/ha trong thời gian 160 - 220 ngày (New, 1988).
Châu Á là nơi có sản lượng TCX nhiều nhất thế giới, chiếm 94% tổng sản
lượng tôm thế giới. Một số nước có phong trào nuôi tôm càng xanh mạnh như
Thái Lan năm 1982 có 677 trại với tổng diện tích nuôi 1734 ha, năng suất
trung bình 750 - 1.500 kg/ha; Ở Đài Loan năm 1969 bắt đầu thử nghiệm nuôi
tôm càng xanh, đến 1979 đạt 65 tấn/năm, đến năm 1986 đạt 3.500 tấn/năm
(New, 1988). Năm 2003, chỉ riêng Trung Quốc sản xuất 300.000 tấn (FAO,
2004).
Họ Pangasiidae có hơn 20 loài có giá trị kinh tế, trong đó 2 loài phân bố ở
sông Mekong được đặc biệt quan tâm là Pangasius bocourti Sauvage, 1880 và
Pangasius hypophthalmus Sauvage, 1887 (Robert, 2001 trích bởi Nguyễn
Bạch Loan, 2001). Cá Tra có nguồn gốc từ lưu vực sông Mekong và sông
Chao Phraya, Thái lan (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thanh Hương, 1993).
Ở Việt nam, cá Tra phân bố rộng, phần lớn ở vùng thượng nguồn sông Tiền,
sông Hậu – vùng tiếp giáp biên giới Việt Nam - Campuchia. Sản lượng cá da
trơn ở Việt Nam năm 2000 là 100.000 tấn (Lê Như Xuân và ctv., 2000). Sản
lượng cá da trơn ở Mỹ bắt đầu phát triển từ những năm của thập kỉ 70, cá da
trơn được xem là đặc sản, tuy nhiên sản lượng còn hạn chế khoảng 2.580 tấn
và tăng lên khoảng 280.000 tấn năm 2000 (Dương Thúy Yên và ctv., 2003).
Cá Lóc (Channa striata Bloch, 1793) là loài có phân bố rộng trong tự nhiên và
thường thấy ở các thủy vực nước ngọt Đông Nam Á như ở Sri Lanka,
Indonesia, Phi-lip-pin, Trung quốc và Campuchia (Pillay, 1990; Rainboth,
4

1996; Trần Ngọc Hải và ctv., 2000). Hiện nay, cá Lóc là đối tượng nuôi chính
trong các mô hình nuôi thâm canh ở ao đất, bè, giai, mương vườn và ruộng
lúa ở các nước Đông Nam Á, vùng miền Đông Nam Bộ và ĐBSCL, Việt

Nam (Dương Nhựt Long và ctv., 2000; Nguyễn Văn Bá và ctv., 2003).
Theo FAO (trích bởi Lê Xuân Sinh, 2005) đã tổng hợp thông tin cho thấy phát
triển ngành thủy sản vào những năm cuối của thập niên 90, tỷ lệ sản lượng
thủy sản đã nâng lên 30% trong tổng sản lượng của các ngành chăn nuôi khác.
Trong các thập niên qua cho thấy xu thế tăng trưởng của sản phẩm nuôi trồng
thủy sản trong tổng sản lượng thủy sản của cả thế giới là rất đáng kể, đặc biệt
là năm 2000 - 2001 và dự đoán tổng sản lượng thủy sản thế giới tới năm 2010
có thể theo 2 hướng bi quan và lạc quan và sản lượng thủy sản nằm trong
khoảng 107 - 144 triệu tấn. Tuy nhiên, sản lượng thủy sản trong những năm
qua có chiều hướng tăng do phát triển mạnh việc nuôi trồng thủy sản hoàn
toàn tin tưởng vào khả năng lạc quan 144 triệu tấn là hoàn toàn có thể thực
hiện được.
2.2. Tình hình phát triển thủy sản Việt Nam
Ở Việt Nam trong thập niên 90 cũng như ba năm đầu thế kỷ 21, sản lượng
thủy sản nuôi trồng tương tự có tốc độ tăng trưởng rất cao, vượt xa tốc độ tăng
trưởng của khai thác. Từ năm 1990 - 2000, Việt Nam đã trở thành một trong
10 nước có sản lượng cá nuôi lớn nhất thế giới, sau Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonesia, Nhật Bản, Thái Lan, Bangladesh (Bộ Thủy Sản, 2006).
Sản lượng (1000 tấn)
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2010
Sản lượng khai thác Sản lượng nuôi trồng Tổng sản lượng


Hình 2.1: Sản lượng nuôi trồng và khai thác ở Việt Nam
(Nguồn: Bộ Thủy Sản, 2006)
Theo Bộ Thủy Sản (2006) theo kế hoạch năm 2010 sản lượng nuôi đạt tương
đương với khai thác (2 triệu tấn) để tổng sản lượng đạt 4 triệu tấn và ước đạt
kim ngạch xuất khẩu 4,5 tỷ USD; Năm 2001 được sự đầu tư đội thuyền đánh
5

bắt xa bờ nên sản lượng khai thác tăng lên đáng kể (34%), tiếp đến từ năm
2002 sản lượng đánh bắt tăng lên không đáng kể. Nếu lấy mốc năm 2000 sản
lượng khai thác đạt 1.280 ngàn tấn thì năm 2001 sản lượng nhảy vọt lên 1.724
ngàn tấn điều này cho thấy việc đầu tư đánh bắt xa bờ có hiệu quả, đưa sản
lượng khai thác tăng lên đáng kể, nhưng từ năm 2002 sản lượng khai thác tăng
lên 1.802,6 ngàn tấn (tăng 4,6%), năm 2003 là 1.856,1 ngàn tấn (tăng 2,9%),
năm 2004 là 1.923,5 ngàn tấn (tăng 3,7%), năm 2005 là 1.940 ngàn tấn (tăng
0,8%), năm 2006 là 2.000 tấn (tăng 3,1%) và ước lượng vào năm 2010 là 2
triệu tấn, tính trung bình giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2006 sản lượng hàng
năm tăng 3%. Qua đây có nhận định rằng sản lượng khai thác đã đạt đến mức
bảo hòa và sau năm 2010 sản lượng khai thác có thể sụt giảm nếu không có
giải pháp quản lý ngành khai thác và phát triển NTTS một cách hợp lý ở (Hình
2.1).
Nuôi trồng thủy sản năm 2001 khi nghề nuôi cá Tra phát triển thì sản lượng
hàng năm tăng lên đáng kể nhưng từ năm 2002 sản lượng khai thác tăng lên
1.802,6 ngàn tấn (tăng 2%), năm 2003 là 1.856,1 ngàn tấn (tăng 2,9%), năm
2004 là 1.923,5 ngàn tấn (tăng 3,7%), năm 2005 là 1.940 ngàn tấn (tăng
0,8%), năm 2006 là 2 triệu tấn (tăng 3,1%) và ước lượng vào năm 2010 vẫn là
2 triệu tấn, tính trung bình giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2006 sản lượng
hàng năm tăng 3% và sản lượng nuôi ước đạt vào năm 2010 là 2 triệu tấn
tương đương với sản lượng khai thác (Bộ Thủy sản, 2006). Điều này cho thấy
việc khai thác đã đạt đến đỉnh điểm, sản lượng không tăng được nữa, và có thể

sản lượng thấp hơn sản lượng nuôi từ sau năm 2010, qua đây cũng cho thấy
sản lượng sau này sẽ phụ thuộc vảo sản lượng nuôi là chính.
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
1800
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Sản lượng (1.000 tấn) Diện tích (1.000 ha)

Hình 2.2: Sản lượng nuôi trồng và diện tích nuôi ở Việt Nam
(Ngu
ồn: Bộ Thủy Sản, 2006)
6

Sản lượng nuôi tăng nhanh đồng nghĩa với việc tăng diện tích nuôi, năm 2001
diện tích nuôi 755 ngàn ha, năm 2002 tăng lên 797,7 ngàn ha, năm 2003 tăng
lên 867,6 ngàn ha, năm 2004 tăng lên 920 ngàn ha, năm 2005 là 959,9 ngàn
ha, năm 2006 là gần 1 triệu ha (975,5 ngàn ha). Từ năm 2003 năng suất nuôi
trung bình trên 1 tấn/ha. Điều này cho thấy mức độ thâm canh hóa ngày càng
cao.
Theo Trần Minh Phú & Nguyễn Thanh Phương (2007) cho rằng sản lượng cá
Tra trong những năm gần đây tăng lên đáng kể, từ năm 2004 sản lượng cá Tra
là 315 ngàn tấn, năm 2006 là 800 ngàn tấn tăng lên hơn 485 ngàn tấn (tăng
154%). Nhận thấy sản lượng năm 2006 tăng gấp 2,54 lần sản lượng năm 2004.

Nếu nhìn nhận từ góc độ diện tích thi năm 2004 là 1.202,5 ngàn ha thì năm
2005 là 1.437,3 ngàn ha tăng lên 234,8 ngàn ha (tăng 19,5%) và năm 2006 là
1.617 ha tăng lên 179,9 ngàn ha (tăng 12,5%). Như vậy sau hai năm diện tích
nuôi cá Tra tăng lên 34,5% (414,5 ngàn ha) tăng gấp 1,35 lần, trong khi đó sản
lượng cá Tra tăng gấp 2,54 lần (Bộ Thủy sản, 2006). Điều này có thể nhận
định rằng năng suất cá Tra nuôi được nâng cao hay thâm canh hóa nhanh hơn
so với mở rộng diện tích.
2.3. Nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL
Sản lượng nuôi trồng ở Việt Nam cho thấy được phần lớn tập trung ở ĐBSCL
chiếm 67,1%, Đồng Bằng Sông Hồng chiếm 15,6%, cho thấy sản lượng còn
lại không đáng kể phân bố rải rác ở Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên
Hải (Bộ Thủy Sản, 2005).
Bảng 2.1: Tỉ lệ diện tích nuôi trồng Thủy Sản ở từng vùng trên cả nước
Diện tích vùng nuôi trồng thủy sản Tỷ lệ (%)
Bắc Bộ
Đông Bắc Bộ
Tây Bắc Bộ
Duyên Hải
Tây Nguyên
ĐBSH (Đồng Bằng Sông Hồng)
Đông Nam Bộ
ĐBSCL (Đồng Bằng Sông Cửu Long)
4,40
3,30
0,40
1,90
0,80
15,6
6,50
67,1

(Nguồn: Bộ Thủy Sản, 2005)
Diện tích nuôi thủy sản của ĐBSCL năm 2003 cả vùng có 610.773 ha diện
tích nuôi trồng thủy sản (chiếm 67,8 % cả nước), trong đó diện tích nuôi thủy
sản nước ngọt là 123.276 ha đạt sản lượng 363.359 tấn (Bộ Thủy sản, 2004).
7

Năm 2003, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả vùng đạt trên 1,28 tỷ
USD, chiếm trên 57% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nuôi trồng thủy sản
ở ĐBSCL chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa quy mô lớn, từng bước trở
thành một nghề sản xuất quan trọng (Bộ Thủy Sản, 2003). Nuôi trồng thủy sản
ở ĐBSCL đóng vai trò quan trọng cho phát triển nền kinh tế - xã hội. Trong xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng cao đòi hỏi hàng hóa sản phẩm phải có
chất lượng cao, sản lượng lớn, ổn định để đáp ứng cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Môi trường trong nuôi trồng thủy sản là một vấn đề có tầm quan trọng cần
phải được quan tâm trong xu hướng phát triển nuôi trồng thủy sản công nghiệp
hóa và bền vững thân thiện với môi trường (Sở NN&PTNT An Giang, 2004).
Theo thống kê từ các tỉnh, năm 1999 ở ĐBSCL có trên 6.000 ha nuôi TCX,
đạt sản lượng 2.500 tấn (Bộ Thủy sản, 2000) đến năm 2002 TCX cả nước đạt
10.000 tấn nhưng chủ yếu là từ các tỉnh ĐBSCL (Bộ Thủy sản, 2003). Diện
tích nuôi thủy sản của thành phố Cần Thơ năm 2006 là 14.427,7 ha, tăng hơn
15% so kế hoạch năm 2006 (12.500 ha) và tăng gần 12% so với năm 2005
(12.880 ha). Trong đó cá nuôi ở ao 3.031 ha, cá Tra 797,8 ha, tôm càng xanh
376,2 ha. Sản lượng thu hoạch 154.778,1 tấn. An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp
và một số tỉnh khác có tiềm năng rất lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản.
TCX là đối tượng có giá trị kinh tế cao và được tập trung phát triển vào những
năm gần đây, năng suất đạt trung bình là 592 kg/ha/vụ (Nguyễn Anh Tuấn,
2006). Nuôi TCX với nhiều hình thức khác nhau như: nuôi tôm kết hợp với
lúa đạt năng suất bình quân 184 kg/ha/vụ; nuôi luân canh với lúa đạt 686
kg/ha/vụ; nuôi ao đạt 1,2 tấn/ha/vụ và nuôi tôm đăng quầng trên sông đạt bình
quân 5,22 tấn/ha/vụ (Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2004). TCX được nuôi

kết hợp với lúa đạt năng suất bình quân 184 kg/ha/vụ; nuôi tôm luân canh với
lúa đạt 686 kg/ha/vụ; nuôi trong ao đạt 1,2 tấn/ha/vụ và nuôi đăng quầng trên
sông đạt bình quân 4,12 tấn/ha/vụ (Nguyễn Thanh Phương, 2004). TCX được
nuôi ở hầu hết các tỉnh, phổ biến là ở An Giang, Cần Thơ và Đồng Tháp.
Sản lượng cá nuôi nước ngọt của vùng ĐBSCL năm 2004 đạt gần 350.000 tấn,
gồm nhiều đối tượng nuôi thủy sản tương đối đa dạng gồm các loài cá bản địa
(Rô đồng, Lóc, Bống tượng, Tra, Basa,…) và cá nhập nội như Rô phi, nhóm
cá Chép. Trong các loài nuôi mạnh nhất thuộc nhóm cá da trơn, đặc biệt cá
Basa (Pangasius bocourti) và cá Tra (Pangasius hypophthalmus) là được thả
nuôi nhiều nhất.
Trong những năm gần đây, nghề nuôi thủy sản ở ĐBSCL đã có bước phát
triển vượt bậc, sản lượng nuôi thủy sản nước ngọt của toàn vùng đạt 363.359
tấn, chiếm 61,7% sản lượng thủy sản nước ngọt của cả nước (Bộ Thủy sản,
8

2003). Khi nói đến sự gia tăng sản lượng nuôi thủy sản nước ngọt phải kể đến
sự gia tăng nhanh chóng không chỉ về diện tích, mức độ thâm canh đáng chú ý
là sản lượng cá da trơn (tra và Basa). Sản lượng hai loài này đạt 200.000 tấn
năm 2002 (Bộ Thủy sản, 2003). Riêng tổng sản lượng thủy sản của tỉnh Đồng
Tháp là 339.400 tấn, trong đó cá Tra 289.900 tấn, cá khác 42.500 tấn, tôm
7.000 tấn (Sở NN&PTNN Đồng Tháp, 2006). Cá là nghề nuôi truyền thống
của vùng ĐBSCL, trong đó các đối tượng nuôi chính là cá Basa, cá Tra, cá
Lóc (Nguyễn Thanh Phương, 1998).
Cá Lóc là loài nuôi quan trọng sau cá Tra và Basa, theo báo cáo của Sở NN &
PTNT(2004) An Giang (2004) thì sản lượng cá Lóc nói chung (cá Lóc)
khoảng 5.294 tấn. Sản lượng nuôi trồng 181.952 tấn so với cùng kỳ tăng
0,63% (180.809 tấn) trong đó: cá Tra, Basa 145.421 tấn chiếm 80,3%, các loại
khác 35.698 tấn chiếm 19,7% và tôm 815 tấn, tăng 115 tấn so với cùng kỳ (Sở
Thủy sản An Giang, 2006).
Năm 1985 khi kỹ thuật sinh sản nhân tạo hai loài cá Basa và tra thành công,

đặc biệt là kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá Tra nhanh chóng được hoàn thiện thì
đến đầu năm 2000 nghề nuôi cá Tra phát triển ở diện rộng trong bè trên sông,
trong ao và đăng quầng, sản lượng cá Tra và Basa của ĐBSCL năm 2003 được
ước tính là 200.000 tấn. Năm 2004 thì ĐBSCL có thể sản xuất đến 430.000
tấn cá da trơn (Bộ Thủy sản, 2005). Như vậy tiềm năng sản xuất cá da trơn ở
ĐBSCL hiện rất lớn và có có thể tiếp tục tăng trong những năm tới.
Thành phố Cần Thơ là một trong những vùng nuôi cá Tra ao trọng điểm của
ĐBSCL mặc dù xuất phát chậm hơn các tỉnh khác như An Giang và Đồng
Tháp. Theo Sở NN &PTNT Cần thơ (2004) thì tính đến ngày 15/08/2004 toàn
tỉnh có 630 ha nuôi với sản lượng hơn 63.000 tấn. Các ao nuôi tập trung ở
Thốt Nốt, Ô Môn và Quận Ninh Kiều.
Đặc biệt là cá Tra đã có bước nhảy vọt đáng kể, năng suất nuôi tăng vọt và có
thể đạt sản lượng khoảng 166 kg/m
3
(nuôi bè), 345 tấn/ha (nuôi đăng quầng)
(Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2004) và 212 tấn/ha (nuôi ao) (Dương Nhựt
Long và ct.,. 2004). Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv., (2004) thì hệ số tiêu
tốn thức ăn tự chế (FCR) trong nuôi cá Tra dao động từ 3,2 - 3,6 và điều này
cho thấy cứ 1 tấn cá được sản xuất ra thì dùng đến 3,2 - 3,6 tấn thức ăn được
sử dụng và thức ăn dư thừa thải ra môi trường là khá lớn và đáng quan tâm.
Hiện tại, việc mở rộng quá nhanh diện tích nuôi cá da trơn ở các tỉnh nước
ngọt ĐBSCL đang đặt ra một vấn đề lớn là quản lý môi trường ao nuôi và
vùng nuôi để đảm bảo sự phát triển bền vững. Đặc biệt ở các vùng nuôi tập
trung thì vấn đề ô nhiễm môi trường do chất thải từ các hệ thống nuôi cá da
9

trơn ngày càng trở nên nghiêm trọng và tiềm ẩn nhiều rũi ro cho sự phát triển
bền vững.
Cá Tra có những đặc điểm rất có lợi cho nghề nuôi như kích thước lớn, tăng
trưởng nhanh, sử dụng được nhiều loại thức ăn. Không những có những đặc

điểm này mà cá Tra còn có khả năng chống chịu tốt với điều kiện môi trường
oxy thấp, nước dơ bẩn, mật độ nuôi cao…Với nững ưu điểm này cá Tra được
xem là một trong những đối tượng có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu, được nuôi
phổ biến ở ĐBSCL.

Hình 2.4: Mô hình nuôi cá Tra trong ao ở ĐBSCL
Ở khu vực miền Tây Nam Bộ hệ thống nuôi cá da trơn đặc trưng là nuôi bè,
nuôi ao, hồ ở vùng sông Hậu tỉnh An Giang, Cần Thơ và Ðồng Tháp. Ðiều
kiện tự nhiên ở vùng ÐBSCL là yếu tố quan trọng nhất mang tính quyết định
đến hiệu quả của nghề nuôi, cá Tra và cá ba sa trung bình từ 120 - 150kg cá
trên một mét vuông mặt nước, vì vậy trung bình một bè cá nhỏ sẽ cho 30
tấn/vụ nuôi. Trong khi đó bè cá lớn đạt 50 - 60 tấn/vụ nuôi. Thời tiết ấm vùng
đồng bằng châu thổ này thích hợp cho sự phát triển của cá, một vụ nuôi có thể
kéo dài từ 6 - 12 tháng. Một vụ nuôi 6 - 8 tháng cá Tra đạt được trung bình từ
0,75 - 1kg/con và có thể đạt đến 1 - 1,3kg/con và cá Basa đạt 1,3 - 1,5kg/con.
Hàng năm, sản lượng ước khoảng 20.000 tấn (Cacot, 1998) và theo Nguyễn
Thanh Phương (1998) sản lượng cá Tra nuôi ao ở An Giang là cao nhất, tiếp
đến là Cần thơ và Đồng tháp. Theo Hiệp hội nghề cá tỉnh An Giang tính đến
năm 2002 có khoảng 3.400 bè và 1.430 ao nuôi cá được chính thức ký kết với
các Công ty sản xuất thực phẩm và đi vào hoạt động. Diện tích nuôi tùy thuộc
vào mỗi nông hộ và vấn đề thị trường cá da trơn năm 2003 đã ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống của ngư dân vùng này.
Tình hình nuôi cá Tra ở An Giang theo (Trần Văn Nhì, 2005), trong những
năm gần đây tình hình nuôi trồng thủy sản phát triển rất mạnh, do việc chủ
động được nguồn cá giống từ sinh sản nhân tạo, cùng với sự phát triển của
công nghệ chế biến và thị trường xuất khẩu các sản phẩm từ cá Tra phi lê được
mở rộng. An Giang là tỉnh có sản lượng thủy sản nuôi và kim ngạch xuất khẩu
10

sản phẩm cá nước ngọt lớn nhất cả nước. Tỉnh An Giang đã khẳng định thủy

sản là ngành kinh tế mũi nhọn, kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2004 đạt
128,7 triệu USD chiếm 49,5% giá trị tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, sản
phẩm xuất khẩu chủ yếu là cá Tra phi lê. Sản lượng thủy sản nuôi đạt 152.800
tấn (Sở NN&PTNT An Giang, 2004), trong đó cá Tra nuôi chiếm chủ yếu
trong tổng sản lượng thủy sản nuôi của tỉnh.
Kết quả điều tra thủy sản của Trần Văn Nhì (2005) cho thấy, sản lượng cá Tra
chiếm 85,6% tổng sản lượng thủy sản nuôi, trong đó sản lượng cá Tra nuôi
trong ao và đăng quầng chiếm 48% và sản lượng cá Tra nuôi bè chiếm 37,6%.
Diện tích ao nuôi phổ biến từ 1.000 - 3.000 m
2
chiếm 53,3%, ao có diện tích
lớn hơn 3.000 m
2
chiếm 30% và ao nhỏ có diện tích từ 350 - 1.000 m
2
chiếm
16,7% (Trần Văn Nhì, 2005).
Bảng 2.2: Các chỉ tiêu tổng hợp tình hình nuôi cá Tra ở An Giang
Chỉ tiêu Đơn vị tính Kết quả
Tổng diện tích nuôi cá Tra ha 947,6
Ao nuôi cá Tra ha 916,9
Đăng quầng nuôi cá Tra ha 30,7
Sản lượng cá Tra nuôi ao, quầng tấn 42.630
Tổng sản lượng cá Tra nuôi tấn 75.925
(
Nguồn: Sở NN&PTNT An Giang, 2005
)
Tôm càng xanh được nuôi tập trung ở các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Đồng
Tháp, Vĩnh Long, Bến Tre, Long An và Tiền Giang. Nghề nuôi tôm càng xanh
phổ biến với các hình thức nuôi như nuôi tôm trong ruộng lúa, nuôi trong

mương vườn, nuôi ao, nuôi đăng quầng đặc biệt là nuôi luân canh trên ruộng
trồng lúa. Nuôi tôm càng xanh luân canh trên ruộng lúa được thực hiện với
nhiều phương thức khác nhau như phương thức canh tác 1 vụ lúa đông xuân
và nuôi 1 vụ tôm càng xanh hay phương thức trồng 2 vụ lúa (lúa Đông - Xuân
và Hè - Thu) và nuôi 1 vụ tôm càng xanh (Dương Nhựt Long, 2003). Nguồn
giống tôm chủ yếu sinh sản nhân tạo chưa đáp ứng đủ nhu cầu nuôi trong vùng
(Lê Xuân Sinh và ctv., 2006).
Các nghiên cứu nuôi tôm càng xanh trong mương vườn, ao và ruộng lúa đã bắt
đầu từ những năm 1990. Trường Đại học Cần Thơ, Viện Nghiên cứu Thủy sản
2 và một số địa phương như An Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp và Cần Thơ đã
thực hiện một số mô hình nuôi thực nghiệm trong mươn vườn, trong ao và
ruộng lúa. Các nghiên cứu cho thấy năng suất nuôi có sự khác nhau khá lớn
theo mô hình nuôi và vùng nuôi, năng suất nuôi tôm đơn có thể đạt 600 -
1.000 kg/ha/vụ và nuôi trong ruộng lúa có thể đạt 280 - 300 kg/ha/vụ (Nguyễn
11

Thanh Phương và ctv., 2004). Năng suất tôm nuôi đạt từ 100 - 300 kg/ha/vụ
đối với nuôi luân canh trên ruộng lúa, 500 - 1.200 kg/ha/vụ đối với nuôi ao và
1.200 - 5000 kg/ha/vụ đối với nuôi đăng quầng (Trần Thị Thanh Hiền và ctv.,
1998). Theo Dương Nhựt Long (2003) thực nghiệm xây dựng mô hình nuôi
tôm càng xanh thâm canh trong ao đất tại huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An đạt
năng suất 3,2 tấn/ha.

Hình 2.5: Mô hình nuôi tôm càng xanh trong ao, ruộng ở ĐBSCL
Theo Dương Tấn Lộc (2001) thì trong nuôi đăng quầng tôm được thả với cỡ
giống 150 - 250 con/kg và mật độ 10 - 20 con/m
2
, thức ăn chủ yếu là thức ăn
tươi sống có bổ sung thức ăn công nghiệp, chế độ nước lên xuống theo triều.
Năm 1999 thì nuôi tôm trong đăng quầng với mật độ 10 - 30 con/m

2
đạt năng
suất dao động từ 1,2 - 5 tấn/ha. Mô hình nuôi tôm càng xanh đăng quầng tập
trung nhiều nhất ở tỉnh Đồng Tháp. Tuy vậy, năng suất và hiệu quả của mô
hình này không ổn định vì tuỳ thuộc vào nước lũ hằng năm.
Năng suất bình quân của mô hình nuôi tôm xen canh với trồng lúa ở ba tỉnh
Cần Thơ, Trà Vinh và Vĩnh Long đạt 154 kg/ha/vụ (Nguyễn Việt Thắng,
1995). Theo Nguyễn Thị Dung (2000) thì nếu không làm lúa hè thu mà nuôi
tôm thì năng suất có thể đạt 752 kg/ha/vụ.
Nuôi tôm trên ruộng lúa bằng giống tự nhiên (5 - 10 g/con), mật độ 0,5 - 2
con/m
2
đạt năng suất 100 - 200 kg/ha ở Phụng Hiệp và 268 kg/ha ở Thốt Nốt
(Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 1998).
Năm 2004 diện tích nuôi là 500 ha, mật độ nuôi 5 - 10 con/m
2
, thời gian nuôi
6 - 7 tháng và đạt năng suất từ 800 - 1.500 kg/ha (Sở NN&PTNT An Giang,
2004). Theo Trần Tấn Huy và ctv., (2004) thì nuôi tôm luân canh trên ruộng
lúa mật độ 5 - 7 tôm bột/m
2
thì sau 6 tháng nuôi đạt năng suất 1.253 - 1.573
kg/ha.
12

Ở tỉnh Vĩnh Long nuôi tôm luân canh trên ruộng lúa bằng nguồn giống nhân
tạo, cỡ giống 0,01 g/con mật độ thả 5 con/m
2
sau 6 tháng nuôi đạt khôi lượng
trung bình 18,2 - 30,2 g/con, năng suất 222 - 566 kg/ha (Trần Ngọc Hải và

ctv., 2001). Nuôi tôm lúa luân canh với mật độ 4 con/m
2
(2 - 3 cm/con), năng
suất đạt 892 kg/ha và tỷ lệ sống bình quân 66,6% (Lý Văn Khánh, 2005). Thí
nghiệm nuôi tôm trong ao nuôi với mật độ là 8 con/m
2
và 12 con/m
2
, năng suất
đạt tương ứng là 858 kg/ha/vụ và 1.052 kg/ha/vụ (Lê Quốc Việt, 2005).
Ở Trà Vinh nuôi tôm luân canh trên ruộng lúa bằng giống nhân tạo mật độ thả
2,5 - 4 con/m
2
thì sau 6 tháng nuôi khối lượng trung bình là 43,7 g/con năng
suất đạt 90 - 236 kg/ha/vụ và tỷ lệ sống đạt 8 - 25 % (Nguyễn Thanh Phương
và ctv., 2004).
Ở tỉnh Tiền Giang, nuôi tôm càng xanh trong ao với mật độ 3 - 6 con/m
2
, năng
suất đạt 15 - 350 kg/ha và nuôi trong hệ thống tôm lúa kết hợp với mật độ thả
thấp và có bổ sung thức ăn, năng suất đạt 200 - 300 kg/ha (Sở Thủy sản Tiền
Giang, 2006). Ở tỉnh Long An, 6 ruộng nuôi với diện tích từ 0,4 - 1,0 ha, mật
độ thả là 10 con/m
2
, sau 6 tháng nuôi và mức nước trong ruộng là 1,2 - 1,4 m,
năng suất đạt 80 - 545 kg/ha và tỷ lệ sống 6,0 - 31,8% (vụ 1); năng suất đạt
208-818 kg/ha và tỷ lệ sống từ 10,9 - 32,3 % (vụ 2) Nguyễn Thanh Phương và
ctv., (2004)
Riêng tại Cần Thơ từ năm 1991 thì mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa
thả giống ít và không đầu tư thức ăn. Từ năm 1992 - 1998 mức độ đầu tư tăng

dần, mật độ thả từ 1 - 3 con/m
2
. Sản lượng tôm càng xanh qua các năm phụ
thuộc vào mức nước lũ, năm 1997 có lũ lớn nên năng suất cao nhưng sang
năm 1998 mặc dù lượng giống thả gấp đôi năm 1997 nhưng không có có lũ
nên sản lượng giảm (Phạm Trường Yên & Trần Ngọc Nguyên, 2000). Nghiên
cứu nuôi tôm càng xanh trong ao với mật độ 13 con/m
2
, cỡ giống 3 - 4 g/con,
năng suất đạt 1,7 tấn/ha trong 160 ngày (Phạm Trường Yên & Trần Ngọc
Nguyên, 2000). Nguyễn Thanh Phương và ctv., (2002), nghiên cứu 28 hộ nuôi
tôm lúa luân canh, năng suất tôm biến động theo mật độ và kích cỡ giống thả
nuôi từ 42 - 566 kg/ha và kết quả điều tra 55 hộ nuôi tôm lúa luân canh năm
2002 - 2003 ở An Giang và Cần Thơ, năng suất trung bình khi canh tác hai vụ
lúa và một vụ tôm là 100 - 620 kg/ha, canh tác một vụ lúa và một vụ tôm,
năng suất đạt 500 - 1.500 kg/ha. Năm 2004 thành phố Cần Thơ có diện tích
nuôi tôm càng xanh luân canh trên ruộng lúa là 322 ha, năng suất nuôi dao
động từ 500 - 1.500 kg/ha/vụ với nguồn giống là nguồn nhân tạo PL
15-25
(60 -
80 con/g) (Sở NN&PTNT Cần Thơ, 2004). Theo Nguyễn Thanh Phương và
ctv., (2004), nuôi tôm trên ruộng lúa, mật độ 2 con/m
2
, sử dụng thức ăn công
nghiệp, sau 6 tháng nuôi đạt năng suất 180 - 200 kg/ha/vụ. Nguyễn Minh

×