Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

top 11 bai phan tich doan trich tuc nuoc vo bo 2022 hay nhat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.87 KB, 17 trang )

PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH TỨC NƯỚC VỠ BỜ
Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 1
Ngơ Tất Tố (1893 – 1954), quê ở làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc
Đông Anh, Hà Nội; là một nhà Nho sống ở nơng thơn, có vốn hiểu biết Hán học khá sâu rộng,
ông nổi tiếng trên lĩnh vực báo chí và văn chương trong giai đoạn đầu thế kỉ XX. Tắt đèn là tác
phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Ngô Tất Tố và trong trào lưu văn học hiện thực
trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Tác giả lấy đề tài từ một vụ thu thuế hàng năm ở một làng quê Bắc Bộ, qua đó phản ánh
số phận bi thảm của nông dân và bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị trong xã hội đương thời.
Có thể nói tác phẩm Tắt đèn là bức tranh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Trong tác phẩm Tắt đèn, bằng ngòi bút tả thực sắc sảo, nhà văn đã vẽ lên chân dung sinh
động của một loạt nhân vật. Từ vợ chồng lão Nghị Quế keo kiệt bất nhân đến bọn cường hào
tham lam hống hách. Từ một quan “phụ mẫu” oai vệ mà bỉ ổi đến bọn tay sai đầu trâu mặt ngựa.
Mỗi đứa một vẻ nhưng đều giống nhau ở bản chất tàn ác và tư cách đê tiện. Những nhân vật
phản diện này tiêu biểu cho tầng lớp phong kiến thống trị ở nông thôn lúc bấy giờ.
Đặc biệt, Ngô Tất Tố đã thành công xuất sắc trong việc xây dựng hình tượng điển hình
về người phụ nữ nơng dân qua nhân vật chị Dậu. Nhà văn miêu tả chân thực và cảm động về số
phận tủi cực của người nơng dân bị áp bức, bóc lột, bị dồn đến bước đường cùng. Nhà văn chân
thành ca ngợi phẩm chất đáng quý của họ trong hoàn cảnh sống tối tăm, ngột ngạt.
Thái độ yêu ghét của Ngô Tất Tố thể hiện rất rõ ràng qua từng trang viết. Tình cảm yêu
mến, trân trọng mà ông dành cho người nông dân khiến ông thật sự là tri âm, tri kỉ của họ. Ơng
cũng khơng giấu diếm sự khinh bỉ và căm ghét đối với bọn thống trị sâu mọt ở nông thôn. Về
nghệ thuật, Tắt đèn được coi là tiểu thuyết hiện thực xuất sắc mà thành công lớn nhất là tác giả
đã dựng nên một thế giới nhân vật sinh động, trong đó có những điển hình độc đáo.
Đoạn Tức nước vỡ bờ trích từ chương XVIII của tác phẩm, nội dung xoay quanh những
biến động ghê gớm xảy ra với gia đình chị Dậu trong mùa sưu thuế.
Vụ thuế đang trong thời điểm gay gắt nhất. Quan trên sắp về tận làng để đốc thuế. Bọn
tay sai hung hãn xông vào nhà những người chưa nộp thuế để đánh trói, bắt bớ và giải ra đình
tiếp tục cùm kẹp, tra khảo. Chị Dậu đã phải bán khoai, bán chó, bán cả đứa con gái lớn để nộp



sưu cho chồng, nhưng bọn hào lí ngang ngược lại bắt anh Dậu phải nộp cả suất của người em đã
chết từ năm ngoái. Thành thử, anh Dậu vẫn cứ là người thiếu thuế, bọn chúng chắc chắn sẽ
không buông tha. Đã thế anh Dậu lại đang ốm rề rề sau trận đòn, tưởng chết đêm qua. Nếu bị
chúng đánh trói lần nữa thì mạng sống của anh khó mà giữ được. Vấn đề quan trọng nhất đối
với chị Dậu giờ đây là làm sao bảo vệ được chồng trong tình thế nguy ngập này. Đoạn trích tiếp
nối câu chuyện trên.
Qua đoạn trích, tác giả phơi bày và lên án bản chất tàn ác bất nhân của chế độ thực dân
phong kiến lúc bấy giờ và phản ánh tình cảnh đau thương của nơng dân cùng quy luật có áp bức
có đấu tranh. Nhà văn giúp chúng ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn và sức sống tiềm tàng của người
phụ nữ nơng dân nghèo khổ. Trong đoạn trích có hai nhân vật chính là chị Dậu và tên cai lệ.
Mở đầu là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa bị bọn hào lí trong làng
đánh đập dã man chỉ vì thiếu tiền nộp sưu. Chị Dậu đã cố gắng hết sức để cứu chồng nhưng
cuối cùng anh Dậu vẫn không tránh được sự bắt bớ, hành hạ. Có thấy được tình thương u
chồng con sâu sắc của chị Dậu, ta mới hình dung được sự dũng cảm quên mình của chị. Chị tất
tả chạy ngược chạy xi, vay được nắm gạo nấu nồi cháo lỗng. Cảm động thay là cảnh chị
Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ, sứt mẻ và quạt lia lịa cho cháo mau nguội rồi ân cần mời
mọc: “Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột”. Trong ánh mắt và giọng nói của người vợ
nghèo khổ ấy tốt lên một tình cảm tha thiết đến nao lịng.
Chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình đang quẫn bách khốn khổ vì sưu, vì thuế.
Chồng bị đánh đập, gông cùm. Một tay chị chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những gì có
thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lịng ngoan ngỗn, hiếu thảo mà chị thương đứt ruột để lấy
tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng tù tội. Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để anh Dậu được
trả tự do trong tình trạng tưởng như chỉ cịn là một cái xác không hồn. Giữa lúc anh Dậu vừa
bưng bát cháo kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập sấn vào với những roi
song, tay thước và dây thừng, hò hét bắt anh phải nộp tiền sưu. Quá khiếp đảm, anh Dậu đã lăn
đùng ra khơng nói được câu gì, chỉ cịn chị Dậu một mình đối phó với lũ ác nhân.
Chị Dậu đã đương đầu với bọn nha dịch tay sai để bảo vệ chổng như thế nào?
Ban đầu, khi bọn chúng ập vào định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi
bới, mỉa mai, đe doạ thì chị Dậu vẫn nhũn nhặn van xin tên cai lệ độc ác. Bọn đầu trâu mặt ngựa
hung hãn nhân danh phép nước, người nhà nước để ra tay, còn chồng chị là hạng cùng đinh

đang có tội cho nên chị phải van xin. Vả lại, kinh nghiệm lâu đời đã thành bản năng của người
nông dân thấp cổ bé họng là phải biết rõ thân phận mình. Thói quen nhẫn nhục khiến chị chỉ


dám năn nỉ, khơi gợi lòng nhân từ của tên cai lệ: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được
một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô ông, cháu của chị Dậu là cách xưng hô của kẻ dưới với
người trên, biểu hiện sự hạ mình. Bọn chúng chẳng thèm nghe mà sầm sập chạy đến chỗ anh
Dậu, định bắt trói anh một lần nữa thì chị Dậu đã giận xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay
tên cai lệ van nài: Cháu xin ơng! Mọi lời nói, hành động của chị Dậu đều khơng ngồi mục đích
để bảo vệ chồng.
Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách cứng cỏi của chị Dậu mới thật
sự bộc lộ. Lúc tên cai lệ đáp lại lời van xin của chị bằng những cú đấm thơ bạo rồi sấn đến trói
anh Dậu thì chị tức quá không thể chịu được nên đã liều mạng chống cự lại. Sự bùng nổ tính
cách này là kết quả tất yếu của quá trình chịu đựng lâu dài sự tàn ác, bất cơng. Điều đó đúng với
quy luật có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao
nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu.
Lúc đầu, chị cự lại tên cai lệ bằng lí lẽ: Chồng tơi đau ốm, ơng khơng được phép hành
hạ! Chị khơng cịn xưng cháu và gọi tên cai lệ bằng ông nữa mà xưng là tôi – ông, ngẩng cao
đầu nhìn thẳng vào mặt đối thủ.
Từ vị thế thấp hèn của kẻ dưới, chị Dậu vụt trở thành ngang hàng với những kẻ xưa nay
vẫn đè đầu cưỡi cổ mình. Câu nói của chị là lời cảnh cáo cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí.
Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi
anh Dậu đi. Lòng yêu thương chồng tha thiết đã thúc đẩy chị phải hành động chống trả quyết
liệt lũ tay sai tàn ác đang cố tình phá nát gia đình chị.
Chị khơng chấp nhận để chồng mình bị hành hạ thêm một lần nữa. Hành động chống trả
bọn tay sai diễn ra thật bất ngờ nhưng thực ra mầm mống phản kháng đã ẩn chứa từ lâu dưới vẻ
ngoài cam chịu nhẫn nhục thường ngày của chị. Sự chịu đựng kéo dài và sự áp bức lên đến tột
đỉnh khiến cho thái độ phản kháng bùng lên dữ dội.
Khi tên cai lệ dã thú ấy tát vào mặt chị một cái đánh bốp rồi cứ hung hăng sấn tới chỗ
anh Dậu, thì chị đã nghiến hai hàm răng thách thức: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày

xem! Khơng cịn ơng – cháu, tơi – ơng gì nữa, chị chuyển phắt sang xưng bà và gọi tên cai lệ là
mày. Điều đó thể hiện thái độ căm giận, khinh bỉ đến cao độ, đồng thời khẳng định tư thế của
chị là sẵn sàng đè bẹp đối phương. Chị Dậu là một lò lửa đang bùng cháy dữ dội. Chị khơng
thèm đấu lí với tên cai lệ bất lương mà thẳng tay trừng trị hắn.
Tiếp sau lời cảnh cáo đanh thép là hành động phản kháng mạnh mẽ. Rồi chị túm lấy cổ
hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người


đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất… Cịn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết
cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
Đoạn văn miêu tả cuộc đối đầu giữa chị Dậu và lũ người độc ác được tác giả miêu tả
thật sinh động và thú vị. Trong xã hội mà tội ác hồnh hành, cịn gì hả hê hơn khi mọi người
được chứng kiến cái ác bị trừng trị đích đáng!
Do đâu mà chị Dậu có sức mạnh lạ lùng một lúc quật ngã hai tên tay sai hung hãn như
vậy? Đó là sức mạnh của lịng căm hờn mà cái gốc của lòng căm hờn ấy lại chính là tình u
thượng và ý thức bảo vệ chồng con của người đàn bà nghèo khổ. Khi rón rén bưng cháo cho
chồng và theo dõi xem chồng ăn có ngon miệng khơng, khi hạ mình van xin kẻ ác và khi nghiến
răng quật ngã chúng, trước sau, lúc nào chị Dậu cũng vì người chồng đang đau ốm. Tình yêu
chồng, thương con cộng với tinh thần phản kháng âm ỉ bấy lâu đã thổi bùng ngọn lửa phản
kháng trong lòng chị. Nỗi sợ cố hữu của kẻ bị áp bức phút chốc tiêu tan, chỉ còn lại nhân cách
cứng cỏi của một con người chân chính. Hành động chống đối bộc phát đó chính là biểu hiện cụ
thể của tình yêu thương mãnh liệt trong trái tim người phụ nữ dường như sinh ra để suốt đời
nhường nhịn, hi sinh.

Tuy vậy, sự phản kháng của chị Dậu mới chỉ là hành động tức nước vỡ bờ của một cá
nhân chứ chưa phải là hành động vùng lên phá vỡ áp bức bất cơng để tự giải phóng của một giai
cấp, một dân tộc. Thế nhưng nó cũng chứng minh cho quy luật có áp bức, có đấu tranh. Áp bức
càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt.
Chứng kiến cảnh xơ xát giữa vợ mình với tên cai lệ và người nhà lí trưởng, anh Dậu sợ
quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt lắm, ngồi lên lại nằm xuống, vừa run lại vừa kêu: – u nó

khơng được thế! Người ta đánh mình khơng sao, mình đánh người ta là phải tù, phải tội. Anh
Dậu cố nhắc cho vợ nhớ cái sự thật phổ biến trong xã hội lúc bấy giờ, nhưng chị Dậu khơng
chấp nhận điều vơ lí đó. Chị phẫn uất hét lên: Thà ngồi tù, để chúng nó làm tình làm tội mãi thế
tơi chịu khơng được… Câu nói này khẳng định chị Dậu khơng muốn cúi đầu cam chịu mãi cảnh
áp bức, bất công.
Ý nghĩa của câu tục ngữ tức nước vỡ bờ qua ngòi bút hiện thực của Ngô Tất Tố đã được
thể hiện thật sống động và đầy thuyết phục. Tuy tác giả khi đó chưa giác ngộ cách mạng và tác
phẩm kết thúc bằng cảnh ngộ bế tắc của chị Dậu nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét rằng
Ngô Tất Tố, với Tắt đèn đã “xui người nông dân đấu tranh cách mạng…”.


Bằng cảm quan hiện thực mạnh mẽ, Ngô Tất Tố đã cảm nhận được xu thế “tức nước vỡ
bờ” và sức mạnh to lớn khơn lường của nó. Có thể nói đoạn trích này đã dự báo cơn bão táp của
quần chúng nông dân nổi dậy dưới sự tập hợp, lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ sẽ hất phăng chế
độ thực dân phong kiến tham tàn, mục nát.
Nhân vật cai lệ trong đoạn trích tiêu biểu cho lũ tay sai chuyên nghiệp, là công cụ đàn áp
đắc lực của giai cấp thống trị. Để khẳng định vai trò của mình trong vụ thuế, hắn đánh người,
trói người vơ tội vạ. Trong bộ máy thống trị ở nông thôn, tên cai lệ này chỉ là một gã tay sai mạt
hạng. Hắn hung dữ, sẵn sàng gây tội ác mà không chùn tay vì khơng hề bị ai ngăn chặn. Hắn
vênh váo tự cho mình là đại diện cho nhà nước. Hắn nhân danh phép nước để làm những điều
tàn ác đối với người nghèo. Vì vậy, có thể nói, tên cai lệ vơ danh đó là hiện thân đầy đủ nhất của
cái guồng máy “nhà nước” bất nhân lúc bấy giờ. Tuy chỉ xuất hiện trong một đoạn văn ngắn
nhưng nhân vật cai lệ được ngòi bút tả thực của tác giả khắc họa nổi bật, có giá trị khái quát
cao.
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một đoạn văn hay, tiêu biểu cho bút pháp tả thực tài tình
của Ngô Tất Tố. Ngôn ngữ kể chuyện, miêu tả và đối thoại của nhân vật rất đặc sắc. Đó là lời ăn
tiếng nói bình dị, tự nhiên của đời sống hằng ngày. Mỗi nhân vật đều có ngơn ngữ riêng. Ngơn
từ của tên cai lệ thì thơ lỗ, đểu cáng. Lời lẽ của chị Dậu khi thì thiết tha mềm mỏng, khi đanh
thép quyết liệt. Lời lẽ của bà cụ hàng xóm thì thật thà, hiền hậu… Lời ăn tiếng nói của nơng dân
được tác giả sử dụng nhuần nhuyễn, rất hợp cảnh, hợp tình.

Nhà văn Ngơ Tất Tố đã dành cho nhân vật chính là chị Dậu tình cảm u thương, thơng
cảm và trân trọng. Những tình tiết sinh động và đầy kịch tính trong đoạn trích đã góp phần hồn
thiện tính cách của người phụ nữ nơng dân đẹp người, đẹp nết.
Chị Dậu mộc mạc, hiền dịu, vị tha, sống khiêm nhường, biết nhẫn nhục chịu đựng…
nhưng hoàn tồn khơng yếu đuối, trái lại vẫn có một sức sống mạnh mẽ, một tỉnh thần phản
kháng tiềm tàng. Khi bị đẩy tới bước đường cùng, chị đã vùng dậy chống trả quyết liệt. Đó là
thái độ cứng cịi, bất khuất, dám đối đầu với cái ác trong xã hội.

Sơ đồ tư duy


Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích Tức nước vỡ bờ.
II. Thân bài
* Hồn cảnh gia đình chị Dậu


- Nghèo “nhất nhì trong hạng cùng đinh”
- Phải nộp sưu thuế nặng nề và nộp luôn cho cả phần người em trai anh Dậu đã mất.
- Phải bán cái Tí - đứa con đầu lịng mới bảy tuổi để có tiền nộp sưu thuế nhưng vẫn khơng đủ.
→ Hồn cảnh khó khăn, bần hàn đến tận cùng vì bị giai cấp thống trị áp bức bóc lột.
* Nhân vật chị Dậu
- Là người vợ hế mực yêu thương chồng:
+ Khi khơng đủ tiền đóng sưu thuế khiến chồng bị bắt đi đánh thì một mình chạy vạy khắp
nơi để kiếm đủ tiền nộp cho chồng.
+ Khi chồng bị đánh thì vơ cùng đau xót, gào khóc giữa đình làng, lo lắng sợ chồng không
tỉnh lại.
+ Dịu dàng đỡ chồng dậy để ăn bát cháo cho lại sức.
+ Đau khổ bán đứa con gái đầu lịng để có tiền nộp sưu để chồng không bị đánh.

+ Khi bọn cai lệ đến nhà bắt chồng đi thì chị năn nỉ, thương xót sợ chồng bị đánh nên xuống
nước van xin bọn chúng tha cho chồng.
- Hành động của chị Dậu với bọn cai lệ:
+ Ban đầu gọi “ông” xưng “cháu”, ra sức van xin, mềm mỏng để mong bọn chúng nhẹ tay
với chồng.
+ Khi bọn chúng làm tới chị Dậu gằn giọng khơng cho chúng động vào chồng mình.
+ Những uất ức của chị bị đẩy lên đến đỉnh điểm khi bọn cai lệ đánh vào ngực chị. Lúc này,
bao nhiêu dồn nén bấy lâu nay của chị bộc phát thành hành động rõ ràng. Chị đứng lên đánh trả
tên cai lệ một cách quật cường dù biết hậu quả vô cùng khôn lường.
→ Người phụ nữ dũng cảm, dám đứng lên chống lại áp bức của cường quyền.
III. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.


Các bài văn mẫu khác:
Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 2
Tức nước vỡ bờ là chương XVIII của tiểu thuyết Tắt đèn. Nếu đặt vào mạch chung của
cuốn tiểu thuyết thì đây là chương truyện có kịch tính rất cao. Mười bảy chương truyện trước đó
đã thuật lại không biết bao nhiêu là cảnh cùng cực, khốn đốn của vợ chồng chị Dậu trong những
ngày sưu thuế.
Nhà đã nghèo "lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh", đến vụ thuế, anh Dậu
lại ốm liệt giường. Cho nên, vì suất sưu của anh Dậu mà chị Dậu phải bán chó, bán con, phải
chịu đựng những lời rủa sả cay độc của vợ chồng Nghị Quế và cũng từng phải "nếm" cả những
"quả phật thủ”* của bọn lính tráng và người nhà lí trường. Cũng vì suất sưu ấy mà anh Dậu bị
đánh, bị trói giữa lúc ốm đau. Chế độ thực dân, phong kiến chẳng những đánh thuế vào người
sống, mà còn dựng cả người chết dậy mà đánh thuế. Cho nên, nộp xong suất sưu của anh Dậu,
chị Dậu những tưởng đã trả được "món nợ nhà nước", nào ngờ, bọn hào lí cho biết chị còn phải
nộp suất sưu của "chú Hợi" đã chết từ năm ngoái. Thế là chị Dậu bị đẩy tới chỗ cùng đường.
Anh Dậu lại tiếp tục bị đánh, bị trói cho đến ngất xỉu đi như chết. Nửa đêm, người ta đem anh
Dậu rũ rượi như một cái xác trả về cho chị Dậu. Nhờ có hàng xóm đổ đến giúp, chị Dậu đã cứu

sống được chồng. Nhưng trời vừa sáng, cai lệ và người nhà lí trưởng "đã sầm sập tiến vào với
những roi song, tay thước và dây thừng", Tính mạng của anh Dậu bị đe dọa nghiêm trọng. Thế
là "tức nước vỡ bờ", chị Dậu đã vùng lên chống trả một cách quyết liệt. Đặt nhân vật vào tình
huống đầy kịch tính ấy, chương truyện vừa phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của lũ tôi tớ sai của
bọn thực dân, phong kiến, vừa làm nổi bật những phẩm chất, tính cách tốt đẹp của người phụ nữ
nông dân Việt Nam.
Bộ mặt thất thần, tàn ác của lũ tôi tớ tay sai dưới chế độ thực dân, phong kiến được thể
hiện qua hình ảnh cai lệ và tên người nhà lí trưởng. Cai lệ là một thứ chức tước hẳn hoi. Trong
tay hắn cũng có lính tráng để sai bảo. Nhưng làm "cai" thì chưa phải là quan. Đó chỉ là thứ chức
tước hạng bét của nhà binh dưới chế độ cũ. Thực chất, cai lệ cũng là một loại đầy tớ, chân tay
của quan phủ, quan huyện ngày xưa. Người nhà lí trưởng thì tuyệt nhiên khơng có chức quyền
gì. Y đúng là đầy tớ của bọn thơn xóm. Thậm chí y có thể là một người nghèo. Có lần chị Dậu
từng năn nỉ hắn: "Bạn nghèo với nhau, bác nói khéo với ông Lí cho tôi". Nhưng hắn "hăm hăm
vác gậy" bỏ đi mà không quên mát mẻ: "Tôi không dám làm bạn với nhà chị." Cai lệ và người
nhà lí trưởng tuy thân phận, địa vị khác nhau, thái độ của chúng cũng khơng hồn tồn giống


nhau, nhưng sự bất nhân, tàn ác thì khơng đứa nào chịu thua kém đứa nào. Chỉ cần một ít chi
tiết nghệ thuật, chân dung của chúng đã được nhà văn khắc họa hết sức sắc sảo.
Giữa nhà chị Dậu, đúng hơn là những túp lều giống như nơi chứa phân tro, trong đó chỉ
có một người đàn ơng vừa thoát chết, đang "ốm rề rề", một người đàn bà nuôi con mọn với ba
đứa trẻ, cai lệ và người nhà lí trưởng hiện lên hệt một bọn đầu trâu, mặt ngựa đằng đằng sát khí.
Chúng hùng hùng, hổ hổ "sầm sập tiến vào" nhà chị Dậu. Tay chúng cầm toàn những thứ dụng
cụ đánh người để uy hiếp những người yếu bóng vía, nào "roi song", "tay thước", nào "dây
thừng". Vừa vào đến nhà, cai lệ lập tức ra oai. Hắn "gõ đầu roi xuống đất". Trước chị Dậu và
anh Dậu hắn tỏ ra rất hách dịch. Hắn gọi anh Dậu là "thằng", chị Dậu là "mày", xưng với họ là
"ông", là "cha mày". Cai lệ động mở mồm là "thét", "quát". Hắn quát chị Dậu: "Mày định nói
cho cha mày nghe đấy à?". Và khi "quát", khi "thét", cai lệ lúc thì "trợn hai mắt", lúc thì "giọng
hầm hè". Người nhà lí trưởng khơng hách dịch như thế, nhưng hắn mát mẻ, xúc xiểm cai lệ để
tên này càng ngạo ngược hơn: "Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải khơng? Đấy! Chị hãy nói

với ơng cai để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lí tơi thì khơng có quyền giám cho chị
khất một giờ nào nữa". Anh Dậu đang ốm đau, lại bị trói cho đến ngất xỉu đi, vừa thốt chết, vậy
mà cả cai lệ và người nhà lí trưởng chẳng hề có một chút động tâm. Vào nhà, nhìn thấy anh Dậu
"run rẩy cất bát cháo... mới kề vào đến miệng", cai lệ liền buông lời rủa sả: "ông tưởng mày
chết đêm qua, cịn sống đấy à?". Thấy anh Dậu vì sợ q mà ““lăn đùng ra đó, khơng nói được
câu gì", người nhà lí trưởng "cười một cách mỉa mai: Anh ta lại sắp phải gió như đêm qua đấy",
cả hai tên bất nhân ấy không cần biết đến gia cảnh của chị Dậu. Chúng không để lọt tai bất kì
một lời van xin nào của người đàn bà ấy. "Cai lệ khơng để cho chị Dậu được nói hết câu...! Hắn
chỉ một mực thúc giục: "Nộp tiền sưu! Mau!". Rồi hắn đe dọa "Nếu khơng có tiền nộp sưu cho
ơng bây giờ, thì ơng sẽ dỡ cả nhà mày đi". Thái độ của hắn ngày càng hung hãn. Hắn sai người
nhà lí trưởng trói anh Dậu. Thấy tên này "hình như khơng dám hành hạ một người ốm nặng, sợ
hoặc xảy ra sự gì" hắn "đùng đùng" "giật phắt cái thừng”, "chạy sầm sập" đến chỗ anh Dậu..
"Sầm sập tiến vào", "sầm sập đến", "sấn đến", "nhảy vào"; "gõ đầu roi xuống đất",
"thét", "quát", "mỉa mai", "hằm hè", "đùng đùng" "bịch luôn vào cái ngực chị Dậu mấy bịch",
"tát cả vào mặt chị một cái đánh bốp", chân dung của cai lệ và người nhà lí trường được khắc
họa bằng những chi tiết điệu bộ, giọng nói và hành vi như vậy. Ngơ Tất Tố khơng dùng bất kì
một chi tiết nào để miêu tả suy nghĩ của chúng. Đó chính là sự sắc sảo, tinh tế của ngịi bút nhà
văn. Bởi vì, lũ đầu trâu, mặt ngựa, xem việc đánh người như là việc tự nhiên, chẳng bao giờ
thấy động lịng trắc ẩn, thì làm gì biết suy nghĩ. Bỏ đi những chi tiết miêu tả nội tâm, Ngô Tất
Tố vừa làm nổi bật bản chất bất nhân, thất đức, bản chất cầm thú của bọn đầy tớ, tay sai, vừa tạo
ra kịch tính căng thẳng cho mạch truyện.


Trong tiểu thuyết Tắt đèn, chị Dậu được miêu tả như một người phụ nữ rất mực dịu
dàng. Vì bị áp bức bóc lột, chị Dậu đành chịu đựng, nhẫn nhục, và trong nhiều trường hợp, chị
là người có thể nhẫn nhục, chịu đựng. Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối, chỉ biết
than khóc. Thơng minh, sắc sảo, đảm đang, tháo vát, chị Dậu còn tiềm tàng một khả năng phản
kháng. Chả thế mà ngay giữa đình làng, trước mặt bọn hào lí, chị đã dám "tru tréo", kêu to lên
sự bất nhân của chế độ sưu thuế thực dân, phong kiến: "Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tơi chết
rồi cịn phải đóng sưu, hở trời". Bị quăng từ đình làng về, rồi được cứu sống, anh Dậu chỉ cịn

biết khóc em, khóc cái Tí, khóc cho số phận của anh. Trái lại, chị Dậu tỏ thái độ bất cần. Chị
bình tĩnh khun giải chồng: " Cịn như mấy đồng tiền sưu, tuy nó nóng thật, nhưng nó chưa kịp
thì khất. Thịt người tanh, chả ai ăn được. Thầy em cứ yên tâm nằm nghỉ, không phải lo lắng gì
cả."
Cảnh ““tức nước vỡ bờ" miêu tả tinh tế diễn biến tâm lí của một tính cách nhất quán.
Chị Dậu có thể nhẫn nhục, chịu đựng, nhưng khi bị đẩy tới chân tường, thì cũng biết chống trả
quyết liệt thể hiện một khả năng phản kháng tiềm tàng.
Trước thái độ hung hăng, những lời hách dịch của cai lệ, chị Dậu “run run". Chị sợ thì ít,
mà lo cho chồng thì nhiều. Chị gọi cai lệ "ơng", tự xưng là cháu. Chị van xin, cầu khẩn bằng
giọng "cố tha thiết": "Hai ơng làm phúc nói với ơng lí hãy cho cháu khất...", "Khốn nạn! Nhả
cháu đã khơng có, dẫu ông chửi mắng cũng thế thôi. Xin ông trông lại!". Đến khi thấy tính
mạng của chồng bị đe dọa, thái độ của chị Dậu thay đổi hoàn toàn. Chị vẫn cố van xin, nhưng
vội vàng đặt đứa con đang bế xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay cai lệ, không để hắn đụng tới anh
Dậu. Đang xưng hô "ông - cháu", chị Dậu chuyển qua "ông - tôi" với cai lệ. Người đàn bà uất
ức đã liều mình đứng dậy tự đặt ngang hàng với cai lệ để cảnh báo hắn: "Chồng tôi đau ốm, ông
không được phép hành hạ!". Thái của chị Dậu ngày càng quyết liệt. Người đàn bà dịu dàng
bỗng trở nên đáo để. Chị hạ cai lệ xuống thứ "mày" vả ngang nhiên thách thức: "Mày trói ngay
chồng bà đi, bà cho mày xem". Chị Dậu quật ngã bọn tay sai hung ác trong ngang hàng, bất
khuất với sức mạnh kì lạ - Chị "túm lấy cổ" cai lệ "ấn dúi ra cửa." Cai lệ ngã chỏng quèo trên
mặt đất, miệng vẫn lảm nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu". Tên người nhà lí trưởng cũng bị
chị Dậu "túm tóc lằng сho một cái, ngã nhào ra thềm". Giọng văn của Ngô Tất Tố trở nên hả hê.
Dưới ngịi bút của ơng, hình ảnh chị Dậu trở nên khỏe khoắn, quyết liệt bao nhiêu, thì hình ảnh
bọn tay sai hung ác trở nên nhỏ bé, hèn hạ, nực cười và hài hước bấy nhiêu. Thấy chị Dậu quá
quyết liệt, anh Dậu vừa run vừa kêu: "U nó khơng được thế! Người ta đánh mình khơng sao,
mình đánh người ta thì mình phải tù, phải tội". Nhưng "tức nước" thì tất yếu "vỡ bờ". Nghe anh
Dậu can, chị Dậu càng phẫn uất: "Thà ngồi tù. Để cho chúng làm tình làm tội mãi thế, tơi không


chịu được...". Câu nói mộc mạc đầy phẫn uất ấy giống như lời tun ngơn hùng hồn cho quy
luật: có áp bức, dứt khốt có đấu tranh.

Sức mạnh kì diệu của chị Dậu là sức mạnh lòng căm hờn, uất hận bị dồn nén đến mức
không thể chịu đựng được nữa. Đó cịn là sức mạnh của tình thương u chồng con vô bờ bến.
Một người đàn bà lúc nào cũng chỉ nghĩ tới chồng, tới con, nhiều lần lấy thân của mình để che
chở địn roi cho chồng, vì chồng con, người đàn bà ấy sẵn sàng "thà ngồi tù".
Nguyễn Tuân gọi chân dung chị Dậu trong "Tắt đèn" là "bức chân dung lạc quan".
Nguyễn Tuân quả quyết rằng ông đã gặp chị Dậu trong "một đám đông phá thóc của Nhật trong
những ngày huyện kì Tổng khởi nghĩa". Dưới ngịi bút của Ngơ Tất Tố đã khẳng định tài năng
miêu tả nhân vật chị Dậu vừa hiện lên sống động giống như người có thật, vừa thể hiện quy luật
tất yếu của đời sống hiện thực. Cho nên, chị Dậu trong tiểu thuyết "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố có
khả năng bước ra khỏi trang văn để đến với cuộc đời và sống mãi trong đời sống tinh thần của
chúng ta.

Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 3
Khắc họa nhân vật: các nhân vật trong đoạn văn đều rõ nét, nhất là hai nhân vật cai lệ và
chị Dậu. Cai lệ chỉ là một tên tay sai vô danh, nhưng ở đoạn văn này đã nổi bật lên thật đậm nét.
Từ giọng quát mắng thị oai thô lỗ, trắng trợn.
Đây là đoạn văn hay và rất tiêu biểu cho bút pháp tiểu thuyết trong tác phẩm Tắt đèn của
Ngơ Tất Tố. Có thể nêu lên mọi khía cạnh nổi bật:
Khắc họa nhân vật: các nhân vật trong đoạn văn đều rõ nét, nhất là hai nhân vật cai lệ và
chị Dậu. Cai lệ chỉ là một tên tay sai vô danh, nhưng ở đoạn văn này đã nổi bật lên thật đậm nét.
Từ giọng quát mắng thị oai thô lỗ, trắng trợn, đến những hành động hung hãn, tàn ác, cho đến
cả “cái giọng khàn khàn vì hút nhiều xái cũ”, cái thân hình “lẻo khẻo” vì nghiện ngập, cả cái tư
thế thảm hại rất hài hước: “ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói" đều
đã tập trung làm nổi bật cái nhân cách vừa tàn ác, vừa đểu cáng, đê tiện của cái hạng “đầu chày
đít thớt” đó.
Hình tượng chị Dậu trong đoạn văn được khắc họa thật sinh động. Đặc biệt sự diễn biến
tâm lý, thái độ của chị Dậu - từ chỗ lễ phép van xin thiết tha đến chỗ nghiến răng quật ngã bọn
lay sai - được thể hiện thật tự nhiên, đúng với lơgic tính cách chị Dậu, tuy dường như rất đột



ngột. Như vậy, bản chất tính cách của nhân vật chị Dậu - dịu dàng, chịu đựng mà ngang tàng,
bất khuất - được thể hiện vừa đa dạng, vừa thống nhất, nhất quán. Có thể nói mọi lời lẽ, động
lực của chị Dậu trong đoạn văn đều đúng là “chị Dậu”. Hơn bất cứ chỗ nào khác, đoạn Tức
nước vỡ bờ đã cho thấy “sừng sững hiện ra cái chân dung lạc quan của chị Dậu” (Nguyễn
Tn).
Ngịi bút Ngơ Tất Tố tả những cảnh hoạt động rất hay Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Cái
đoạn chị Dậu đánh nhau với cai lệ là một đoạn tuyệt khéo, rất đúng với tâm lý của dân q”. Đó
là một bức kí họa với những nét bút thật linh hoạt, sắc sảo, pha chút biếm họa tài tình. Cảnh
hoạt động dồn dập, nhộn nhịp mà vẫn rõ nét, không rối mắt, mỗi chi tiết đều đắt. Với vốn sống
nông thôn phong phú và với “óc quan sát rất tinh tường, rất chu đáo” (lời Vũ Trọng Phụng trong
bài Tắt đèn của Ngô Tất Tố, đăng báo Thời vụ, 1939), ngịi bút Ngơ Tất Tố ở đây vừa giàu chất
sống, vừa rất sắc sảo.
Có người nhận xét tiểu thuyết Tắt đèn giàu tính kịch. Hồn tồn đúng. Tính kịch, đó là
“tính hành động chặt chẽ và quán triệt”, xung đột thể hiện tập trung là sự căng thẳng đối với
nhân vật do tình huống tạo ra. Đồng thời, nếu kịch yêu cầu tính cách nhân vật tự thể hiện bằng
lời nói và hành động, “ngơn ngữ của nhân vật đều có tính đặc thù rõ rệt, có sức biểu hiện tối đa”
thì đoạn văn Tức nước vỡ bờ, ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật quả là như vậy, Ngô Tất Tố
rất thuộc lời ăn tiếng nói của từng hạng người ở nơng thơn nên nhân vật nào cũng có “ngơn
ngữ” riêng. Khẩu khí hống hách đểu cáng của cai lệ, giọng điệu và lời lẽ khi thiết tha lễ phép
khi đanh đá ngỗ nghịch của chị Dậu, đều rất “hột” đã khiến cho nhân vật “tự thể hiện tính cách”
đầy đủ, nổi bật. Khẩu ngữ nông thôn đã vào văn của Ngô Tất Tố thật tự nhiên, nhuần nhuyễn,
khiến cho câu văn sinh động, đậm đà, có hơi thở của đời sống và đoạn văn rất có khơng khí.
Sức mạnh nghệ thuật của Ngô Tất Tố, xét đến cùng là sức mạnh của chủ nghĩa hiện
thực, đồng thời là sức mạnh của một ngịi bút gắn bó máu thịt với nơng dân, của một trái tim
yêu ghét rạch ròi, mãnh liệt và nhất quán.

Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 4
Ngô Tất Tố là nhà văn bậc thầy trong trào lưu văn học hiện thực những năm mà đất
nước còn gian khó, nhân dân bị đọa đầy. Trong hồn cảnh ấy, tác giả lấy bối cảnh từ một vụ thu
sưu thuế ở làng quê để qua đó phản ánh số phận khổ đau của những người nông dân trong xã

hội đương thời đồng thời tố cáo giai cấp thống trị. Đặc biệt qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ, mâu
thuẫn của giai cấp khác nhau đã tạo ra sự thu hút với người đọc, khiến họ thương cảm cho chị
Dậu và dấy lên sự tức tối, lòng thù hận với giai cấp thống trị.


Trong đoạn trích, ơng thành cơng trong việc xây dựng hình tượng người phụ nữ trong xã
hội đương thời thơng qua nhân vật chị Dậu. Và ông rất sắc sảo khi gây dựng những tình tiết
trong truyện xoay quanh nhân vật chị Dậu, đã làm sáng lên phẩm chất của người nông dân dù bị
đọa đầy.
Việc thu sưu thuế vẫn diễn ra gay gắt, bọn tay sai của các quan trên, lí trưởng cứ thế
lộng hành, nhà chị Dậu thì ngày càng khó khăn. Chị phải bán khoai, bán chó, bán cả đứa con gái
lớn cho nhà lí trưởng để nộp nốt sưu cho chồng của mình. Anh Dậu ngày càng đau ốm, sau trận
đánh trói ấy, anh càng yếu dần, nếu bị chúng đánh trói nữa tưởng rằng sẽ chết mất. Và chị Dậu
đang tìm mọi cách để bảo vệ chồng của mình. Đoạn trích nổi bật với cảnh cai lệ và chị Dậu đối
đầu khi tên tay sai đến thúc sưu nhà chị rất gay cấn và đúng như nhan đề "tức nước vỡ bờ".
Chị Dậu là một người phụ nữ yêu thương chồng hết mực, chị chăm sóc chồng đang ốm
vì vừa bị bọn cường hào lí trưởng đánh đập. Chị cũng thương con mình sâu sắc. Chị tất tả chạy
ngược xuôi vay được vài nắm gạo và nấu bát cháo loãng cho chồng ăn lại sức. Từ cách chị
chăm chồng, đỡ chồng dậy và cách xưng hơ: "Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột" đã
thể hiện sự dịu dàng vốn có trong mỗi người phụ nữ Việt Nam ngày trước.
Chị trở thành trụ cột trong gia đình, gánh chịu mọi đau khổ, sự túng quẫn vì sưu thuế.
Chị đổ mồ hơi sơi nước mắt để cứu anh Dậu. Chăm sóc anh nhưng lúc ấy bất ngờ tên tay sai của
lí trưởng và cai lệ xông vào, trên tay là roi, thước và dây thừng, hò hét bắt anh chị phải nộp sưu
thuế, Anh Dậu quá khiếp đảm đến nỗi suýt ngất, chỉ cịn mình chị Dậu chạy vạy, đối phó với
giai cấp thống trị. Thoạt đầu, chúng định lôi anh Dậu đi nhưng không hành hung mà chúng lại
chửi bới mỉa mai đến nỗi chị Dậu vẫn van xin "cháu xin ông" để khất hạn nộp sưu nhưng rồi
chúng sấn đến đánh chị thì đã chạm đến giới hạn cuối cùng, tính cách của "người đàn bà lực
điền" ấy mới bộc lộ một cách mạnh mẽ và cứng cỏi hơn. Vậy nên người ta mới nói có áp bức
bất cơng thì ắt hẳn có sự đấu tranh.
Chị Dậu đang đứng lên để bảo vệ gia đình và cuộc sống của mình. Chị liều mạng chống

cự lại những cú đấm thô bạo bằng những lí lẽ sắc bén: "Chồng tơi đau ốm, ơng khơng được
phép hành hạ!". Khơng cịn xưng hơ tơn trọng với những kẻ độc ác và bạo tàn, chị quên đi vị thế
của mình chỉ là những người nơng dân thấp hèn, chị đứng lên ngang hàng với những kẻ bạo tàn
để đấu tranh. Với tình yêu thương của một người vợ, chị đã chống trả lại bọn chúng. Hai hàm
răng nghiến chặt: "Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!" đầy thách thức và đe dọa.
Điều đó thể hiện thái độ căm giận lũ chó đểu, khinh bỉ đến cao độ, đồng thời khẳng định tư thế
sẵn sàng chiến đấu của chị, khơng thèm đấu lí nữa mà thẳng tay trừng trị chúng.


Một hành động phản kháng rất mạnh mẽ, chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi đầu ra cửa "Sức lẻo
khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã
chỏng quèo trên mặt đất... Cịn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm
tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm". Cách miêu tả rất độc đáo của Ngô Tất Tố đã khiến
cuộc đối đầu của chị và tên cai lệ trở nên sinh động, trong xã hội bất cơng ấy, một cuộc chiến
cơng lí diễn ra để trừng trị kẻ ác đáng làm người ta khâm phục. Có lẽ vì người nơng dân đặc biệt
là người phụ nữ họ đã phải chịu nhiều bất công nên khi bị dồn đến đường cùng, họ phản kháng
với mục đích tự vệ chính đáng. Tuy vậy, hành động của chị Dậu chỉ là một cá nhân chứ chưa
phải là cả xã hội cùng đấu tranh để giải phóng giai cấp. Có lẽ theo quy luật, càng nhiều áp bức
thì sẽ càng xuất hiện đấu tranh.
Nhân vật cai lệ là nhân vật tiêu biểu cho lũ tay sai, công cụ đàn áp đắc lực của giai cấp
thống trị. Hắn là một tên nghiện ngập, để xác định vai trị của mình trong việc đi thúc sưu thuế,
hắn đánh người, trói người vơ tội vạ. Trong xã hội ấy, cai lệ chỉ là tay sai, là tên đứng ra hành hạ
người dân nghèo thay lũ quan lại tham lam và độc ác.
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một đoạn văn giàu ý nghĩa hiện thực. Ngô Tất Tố xây
dựng nhân vật chị Dậu là một người phụ nữ dịu dàng nhưng cũng quyết đoán, thương yêu
chồng con nhưng cũng đầy đủ sức mạnh để chiến đấu. Qua đoạn trích, ta thấy nhà văn đã dành
tình u thương và sự đồng cảm sâu sắc cho chị Dậu cùng với đó lên án xã hội bất cơng và tàn
ác.

Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 5

Ngơ Tất Tố là một trong những nhà văn hiện thực phê phán nổi tiếng nhất thời kì cách
mạng. Các tác phẩm của ơng ln đi liền với hình ảnh những người nơng dân khốn khổ, ln bị
bóc lột, bị áp bức mà khơng thể tìm ra được lối thốt. Và nhắc tới ơng, có lẽ chúng ta sẽ được
nghe đầu tiên là tác phẩm “Tắt đèn”. Và trong tác phẩm, phân đoạn “Tức nước vỡ bờ” là một
trong những đoạn văn gây nhiều xúc động và có ý nghĩa nhất trong lòng người đọc.
Tác giả lấy đề tài từ vụ thuế hàng năm ở những làng quê Bắc Bộ, với những hình ảnh
như in đậm vào tâm trí của người đọc, hiện lên số phận bi thảm của những người phụ nữ nói
chung và những người nơng dân nói riêng cùng bản chất của giai cấp thống trị trong xã hội
đương thời. Đó là tình cảnh của người nơng dân “một cổ hai trịng” khi vừa chịu ách bóc lột của
những kẻ tàn dư phong kiến cịn sót lại, vừa của những kẻ đi theo thực dân pháp, bán đứng tổ
quốc. Trong tác phẩm, tác giả đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vẽ nên chân dung của hàng loạt


những nhân vật ở trong tác phẩm. Điển hình cho những kẻ áp bức con người là vợ chồng Nghị
Quế, ln lợi dụng tình cảnh của những con người đang gặp khó khăn nhằm trục lợi hay những
bọn tay sai cường hào tuy chỉ là những kẻ làm thuê nhưng chúng lại không biết thương yêu
những người đồng loại vất vả mà lại chỉ biết áp bức những người nông dân tay khơng tấc sắt. đó
chính là những con người đại diện tầng lớp tiêu biểu phong kiến tàn dư của xã hội.
Ngồi ra, tác giả cịn rất khéo léo xây dựng hình tượng vơ cùng kiên cường mà cũng đầy
cảm động về hình ảnh của chị Dậu - một người phụ nữ ln hết lịng chăm lo cho chồng cho
con mà khơng nghĩ cho mình bao giờ. Tốt đẹp là thế nhưng họ luôn phải chịu sự áp bức từ kẻ
khác. Họ cũng khơng có cách nào để phản kháng hồn tồn bởi chính họ cịn khơng biết làm
cách nào thoát ra khỏi vũng lầy. Mở đầu là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa bị
bọn hào lí trong làng đánh đập dã man chỉ vì thiếu tiền nộp sưu. Chị Dậu đã cố gắng hết sức để
cứu chồng nhưng cuối cùng anh Dậu vẫn không tránh được sự bắt bớ, hành hạ. Có thấy được
tình thương yêu chổng con sâu sắc của chị Dậu, ta mới hình dung được sự dũng cảm quên mình
của chị. Chị tất tả chạy ngược chạy xuôi, vay được nắm gạo nấu nồi cháo loãng. Cảm động thay
là cảnh chị Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ, sứt mẻ và quạt cho cháo mau nguội rồi ân cần
mời mọc: Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột. Trong ánh mắt và giọng nói của người
vợ nghèo khổ ấy tốt lên một tình cảm tha thiết đến nao lòng.

Chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình đang quẫn bách khốn khổ vì sưu, vì thuế.
Chồng bị đánh đập, gơng cùm. Một tay chị chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những gì có
thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lịng ngoan ngoãn, hiếu thảo mà chị thương đứt ruột để lấy
tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng tù tội. Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để anh Dậu được
trả tự do trong tình trạng tưởng như chỉ cịn là một cái xác khơng hồn. Giữa lúc anh Dậu vừa
bưng bát cháo kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập sấn vào với những roi
song, tay thước và dây thừng, hò hét bắt anh phải nộp tiền sưu. Quá khiếp đảm, anh Dậu đã lăn
đùng ra khơng nói được câu gì, chỉ cịn chị Dậu một mình phải đối phó với những kẻ độc ác,
ln địi ra tay với vợ chồng chị.
Ban đầu, khi bọn chúng ập vào định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi
bới, mỉa mai, đe dọa thì chị Dậu vẫn nhũn nhặn van xin tên cai lệ độc ác. Vả lại, kinh nghiệm
lâu đời đã thành bản năng của người nông dân thấp cổ bé họng là phải biết rõ thân phận mình.
Thói quen nhẫn nhục khiến chị chỉ dám năn nỉ, khơi gợi lịng nhân từ của tên cai lệ: Cháu van
ơng, nhà cháu vừa mới tĩnh được một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô ông, cháu của chị Dậu là
cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự hạ mình. Bọn chúng chẳng thèm nghe mà
sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định bắt trói anh một lần nữa thì chị Dậu đã giận xám mặt


nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ van nài: Cháu xin ơng! Mọi lời nói, hành động của
chị Dậu đều khơng ngồi mục đích để bảo vệ chồng.
Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách cứng cỏi của chị Dậu mới thật
sự bộc lộ. Lúc tên cai lệ đáp lại lời van xin của chị bằng những cú đấm thô bạo rồi sấn đến trói
anh Dậu thì chị tức q khơng thể chịu được nên đã liều mạng chống cự lại. Sự bùng nổ tính
cách này là kết quả tất yếu của quá trình chịu đựng lâu dài sự tàn ác, bất cơng. Điều đó đúng với
quy luật có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao
nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu. Lúc đầu, chị cự lại
tên cai lệ bằng lí lẽ: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Thực ra, chị chỉ nói đốn
lịng nhân đạo tối thiểu của con người. Chị khơng cịn xưng cháu và gọi tên cai lệ bằng ông nữa
mà xưng là tôi – ơng, ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào mặt đối thủ.
Từ vị thế thấp hèn của kẻ dưới, chị Dậu vụt trở thành ngang hàng với những kẻ xưa nay

vẫn đè đầu cưỡi cổ mình. Câu nói của chị là lời cảnh cáo cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí.
Nhưng cái ác thường khơng biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lơi
anh Dậu đi. Lịng u thương chồng tha thiết đã thúc đẩy chúng phải hành động chống trả quyết
liệt lũ tay sai tàn ác đang cố tình phá nát gia đình chị.
Chị khơng chấp nhận để chồng mình bị hành hạ thêm một lần nữa. Hành động chống trả
bọn tay sai diễn ra thật bất ngờ nhưng thực ra mầm mống phản kháng đã ẩn chứa từ lâu dưới vẻ
ngoài cam chịu nhẫn nhục thường ngày của chị. Sự chịu đựng kéo dài và sự áp bức lên đến tột
đỉnh khiến cho thái độ phản kháng bùng lên dữ dội. Tiếp sau lời cảnh cáo đanh thép là hành
động phản kháng mạnh mẽ. Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng
nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt
đất… Còn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái,
ngã nhào ra thềm Do đâu mà chị Dậu có sức mạnh lạ lùng một lúc quật ngã hai tên tay sai hung
hãn như vậy? Đó là sức mạnh của lịng căm hờn mà cái gốc của lòng căm hờn ấy lại chính là
tình u thượng và ý thức bảo vệ chồng con của người đàn bà nghèo khổ.
Tuy vậy, sự phản kháng của chị Dậu mới chỉ là hành động tức nước vỡ bờ của một cá
nhân chứ chưa phải là hành động vùng lên phá vỡ áp bức bất công để tự giải phóng của một giai
cấp, một dân tộc. Thế nhưng nó cũng chứng minh cho quy luật có áp bức, có đấu tranh. Áp bức
càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt.
Ý nghĩa của câu tục ngữ "Tức nước vỡ bờ" qua ngịi bút hiện thực của Ngơ Tất Tố đã
được thể hiện thật sống động và đầy thuyết phục. Tuy tác giả khỉ đó chưa giác ngộ cách mạng


và tác phẩm kết thúc bằng cảnh ngộ bế tắc của chị Dậu nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận
xét rằng Ngô Tất Tố, với Tắt đèn đã “xui người nông dân đấu tranh cách mạng…”.



×