Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Thực nghiệm ương cá Thát Lát Còm (Chitala chitala) bằng các loại thức ăn khác nhau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.3 KB, 25 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ

KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304



THỰC NGHIỆM ƯƠNG CÁ THÁT LÁT CÒM
(CHITALA CHITALA) BẰNG CÁC LOẠI
THỨC ĂN KHÁC NHAU






Cần thơ, 2010

Sinh viên thực hiện

CÔNG QUỐC THÁI
MSSV: 06803038


L
ỚP: NTTS K1

2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ

KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304



THỰC NGHIỆM ƯƠNG CÁ THÁT LÁT CÒM
(CHITALA CHITALA) BẰNG CÁC LOẠI
THỨC ĂN KHÁC NHAU








Cần thơ, 2010




Sinh viên thực hiện

CÔNG QUỐC THÁI
MSSV: 06803038
L
ỚP: NTTS K1

Cán bộ hướng dẫn

Ts. PHẠM MINH THÀNH
3
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), là vùng đất có nhiều điều kiện tự nhiên thuận
lợi, đa dạng về sinh cảnh, có diện tích mặt nước lớn, khí hậu nhiệt đới gió mùa cận
xích đạo, có nhiệt độ trung bình trong năm cao biến động lại thấp, giá trị nhiệt ở
ĐBSCL rất thích hợp cho sự sống, sinh trưởng và phát triển của thủy sinh vật.
ĐBSCL còn có hệ thống sông ngòi dày đặc, đa dạng thuỷ vực. Có nguồn nước ngọt
dồi dào, độ phèn thấp, được cung cấp bởi hai con sông lớn là sông Tiền và sông Hậu.
Ngoài ra ĐBSCL còn gần với biển nên thuận lợi cho cả nuôi trồng hải sản.
Bên cạnh nghề khai thác thủy hải sản thì nghề nuôi trồng thủy sản đang phát triển rất
nhanh và là một trong những thế mạnh của vùng, góp phần to lớn vào tổng thu nhập
của đất nước và nâng cao thu nhập của người dân.
Hội tụ ở ĐBSCL có hơn 200 loài cá nước ngọt. Trong đó có nhiều loài có giá trị kinh
tế cao đã được chọn làm đối tượng nuôi.
Ngoài những loài cá như: Basa, Tra, Trê, Lóc, Điêu Hồng… là những loài cá truyền

thống đang được nuôi, thì hiện nay một trong những đối tượng cá nước ngọt đang rất
được ưa chuộng là cá thát lát còm (Chitala chitala).
Do cá thát lát còm có hình thái và màu sắc đẹp, thịt thơm ngon chất lượng cao, có khả
năng thích nghi tốt, nên những năm gần đây việc nuôi cá thát lát còm không chỉ giới
hạn ở mục đích làm cảnh, mà còn đáp ứng nhu cầu làm thực phẩm ngày càng tăng.
Nhằm góp phần giúp người sản xuất giống và người nuôi giảm giá thành sản xuất và
có lợi nhuận, được sự phân công của khoa sinh học ứng dụng, Trường Đại Học Tây
Đô, đề tài “Thực nghiệm ương cá Thát Lát Còm (Chitala chitala) bằng các loại
thức ăn khác nhau” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Cung cấp một số dẫn liệu về khả năng sử dụng các loại thức ăn, tốc độ sinh trưởng, tỷ
lệ sống của cá thát lát còm từ giai đoạn bột lên giống, góp phần bổ sung cơ sở cho
việc xây dựng qui trình ương giống cá thát lát còm (Chitala chitala) ở ĐBSCL.
1.3 Nội dung nghiên cứu
Xác định tốc độ sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá thát lát còm được ương bằng các loại
thức ăn và phương tiện ương khác nhau.

4
CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học
2.1.1 Phân loại
Dựa và tài liệu của D.V Serov, V.K Nezdoliy, D S Pavlov (2006), Nguyễn Văn Hảo
(2005), Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), cá còm có hệ thống phân
loại như sau:
Ngành dây sống: Chordata
Ngành phụ có xương sống: Vertebrata
Tổng lớp miệng có hàm: Gnathostomata
Bộ: Osteoglossiformes
Họ: Notopteridae

Giống: Chitala
Loài: Chitala chitala
Tên khác: Notopterus chitala, Notopterus maculatus, Chitala ornata (Gray), Mytus
chitala Hamilton, (1882).
Tên thường gọi: Cá Còm, Cá Nàng Hai, Cá Đao, Cá Cườm, cá thát lát Cườm, cá thát
lát bông, ….
Tên tiếng anh: Clawn Knifefish, Clown featherback, Spotted knifefish, Knifefish
2.1.2 Hình thái

Hình 1: Cá thát lát còm ( nguồn: khuyennongvn.gov.vn )
5
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), cá còm có những đặc điểm
sau:
Xương hàm trên kéo dài qua khỏi mắt, vẩy ở đầu có cùng kích thước với vẩy ở thân.
Phía trên gốc vi hậu môn có từ 5-10 chấm đen, xung quanh có viền trắng. Thân dài,
dẹp bên, lưng gù độ cong của lưng tăng dần theo kích thước của cá. Lườn bụng có hai
hàng gai chạy dọc theo lườn bụng. Vẩy nhỏ phủ khắp thân và đầu, vẩy dính rất chắc,
khó rụng. Đường bên bắt đầu từ mép trên của lỗ mang và chấm dứt ở điểm giữa gốc vi
đuôi (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).
Vi lưng nhỏ, nằm lệch về phía sau của thân, gần điểm giữa gốc vi đuôi hơn gần chóp
mõm. Gốc vi hậu môn rất dài, vi hậu môn nối liền với vi đuôi. Vi bụng rất nhỏ. Vi
đuôi tròn không chẻ hai. Vây ngực phát triển, vây bụng nhỏ. Cá có màu xám bạc, lưng
thẫm hơn. Dọc theo vây hậu môn có 4 - 5 đốm đen viền trắng, số lượng có thể thay
đổi từ 5 - 12 chấm trên các cá thể khác nhau. Ngay trên cùng một cơ thể số lượng
chấm ở hai bên thân cũng không giống nhau.
Cá có đầu nhỏ, nhọn, dẹp bên. Miệng trước, rạch miệng xiên kéo dài qua khỏi mắt,
xương hàm trên phát triển, Răng nhọn, bén mọc ở hàm dưới, phần gai giữa xương
hàm trước, xương khẩu cái, xương lá mía và lưỡi, ngoài ra còn có đám xương nhỏ mịn
trên xương bướm phụ. Có một đôi râu mũi ngắn nhỏ. Mắt nằm lệch về phía lưng của
đầu, gần chóp mõm hơn gần điểm cuối của xương nắp mang. Phần trán gần hai mắt

cong và lồi tương đương đường kính mắt. Lỗ miệng rộng, màng da sau xương nắp
mang rất phát triển (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).
Khi cá còn nhỏ, thân cá không có màu đốm mà thay vào đó là những đường sọc vân
màu đen ngang thân, có từ 6 – 14 sọc đen, khi lớn các sọc đen mờ dần mất hẳn và thay
vào đó là các đốm nâu tròn từ từ xuất hiện, nhưng không hẳn mỗi sọc ứng với một
đốm nâu (Trương Thủ Khoa, Trần Thị Thu Hương, 1993).
2.1.3 Phân bố
Cá còm phân bố chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á, lưu vực sông Mekong (Lào,
Campuchia, Thái Lan, Việt Nam), sông Chao Phraya (Thái Lan) và các nước Srilanka,
Pakistan, Bangladesh, Indonesia, Malaixia, Ấn Độ……Ở Việt Nam cá phân bố như ở
vùng Đồng bằng sông Cửu Long gồm có các tỉnh: An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên
Giang, Tiền Giang, Long An, Sóc Trăng, trà Vinh, Vĩnh Long. Vùng Tây nguyên: Gia
lai, Đắk Lắk, Kon Tum. Mùa nước lên cá đi vào các đồng ruộng ngập nước sinh sống,
mùa khô cá ra sống ở các rạch lớn, sông chính, các vực nước sâu. Nguồn:
www.aquabird.com.vn.
Cá còm sống ở sông, rạch, ao, đầm, ruộng trũng, có thể chịu được ở các vực nước có
lượng ôxy thấp, nhờ cơ quan hô hấp phụ. Trong điều kiện tự nhiên, cá sống ở tầng
6
giữa và tầng đáy. Ban ngày cá thường ẩn nấp trong đám thực vật thuỷ sinh. Ban đêm
cá hoạt động nhiều hơn, cá bơi lội chậm nhẹ nhàng, vây hậu môn hoạt động liên tục
như làn sóng, cá thích sống trong môi trường có nhiều thực vật thủy sinh lớn, nước
trung tính pH: 6,5-7, nhiệt độ thích hợp cho cá từ 26-28
0
C (Dương Nhựt Long, 1999).
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), Mai Đình Yên (1983), cá
còm thuộc nhóm ăn tạp, có thể ăn côn trùng, giáp xác, phiêu sinh thực vật, rễ thực vật
thuỷ sinh, cá con, nhuyễn thể và bùn đáy. Khi đói chúng hung dữ tấn công săn bắt
những con cá khác làm mồi ăn. Tính ăn của cá không ổn định, cá có thể bỏ ăn cho đến
khi kiệt sức và nhiễm bệnh chết nếu có hiện tượng sốc môi trường, thay đổi mồi ăn

đột ngột hoặc bắt cá phải ngừng ăn lâu khi chuẩn bị vận chuyển.
Theo Dương Nhựt Long (2003), cá có hệ tiêu hóa gồm: miệng, thực quản, dạ dày,
ruột. Miệng trước rộng, rạch miệng xiên và kéo dài ra khỏi mắt, xương hàm trên phát
triển. Răng nhiều, nhọn mọc ở hàm dưới trên phần giữa xương trước hàm, trên xương
khẩu cái, xương lá mía và lưỡi. Ngoài ra còn có đám rănh nhỏ mịn trên xương bướm
phụ, vì vậy chúng có thể bắt giữ, cắn xé con mồi, thực quản ngắn, rộng và có vách hơi
dày. Dạ dày hình chữ J có vách hơi dày, ranh giới giữa ruột non và ruột già không
phân biệt rõ ràng. Tỉ lệ L
i
/L
0
= 0,3 cho nên đây là loài ăn động vật.
Do cá còm có đặc tính ăn thiên về động vật nên muốn nuôi ghép với các loài cá khác
nên chọn những loài cá không cùng tính ăn và không cạnh tranh thức ăn với cá còm
như: cá mè trắng, sặc rằn, rô phi, trắm cỏ, rô đồng… Các loài như: cá rô phi, sặc rằn,
mè có thể lọc tảo nên có thể sử dụng nuôi ghép để hạn chế tảo phát triển nhiều trong
ao và cá con bổ sung nguồn thức ăn tự nhiên cho cá còm. Tỷ lệ nuôi các loài cá này
chiếm khoảng 10%.
Giai đoạn cá bột, 1-4 ngày sau khi nở, cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng,từ 4-8 ngày
tuổi, cá ăn Moina, Daphnia, từ ngày thứ 9, cá có thể ăn trùn chỉ, ấu trùng giáp xác, côn
trùng, sau 50 ngày tuổi cá có tính ăn giống cá trưởng thành.
Trong nuôi thương phẩm có thể cho cá ăn mồi sống hoặc cũng có thể tập cho cá ăn
thức ăn chế biến (70% bột cá + 30% bột cám), các phụ phẩm nông nghiệp, phụ phẩm
lò mổ, thức ăn đông lạnh hay thức ăn công nghiệp. Khẩu phần ăn của cá từ 3-7% khối
lượng cá, tùy theo loại thức ăn và điều kiện môi trường (Nguyễn Chung, 2006)
Theo Lê Ngọc Diện (2004), Phạm Phú Hùng (2007), có thể thay thế 50% thức ăn là cá
tươi bởi 50% thức ăn viên công nghiệp trong quá trình nuôi cá thát lát vẫn thu được
kết quả tốt.
Trong thực tế nuôi thì cá còm vẫn ăn mồi ở tầng mặt và cũng cạnh tranh ăn mồi như
những loài cá khác (Nguyễn Chung, 2006).

7
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng
Sinh trưởng là sự gia tăng về kích thước, về khối lượng cơ thể sinh vật theo thời gian,
là kết quả của quá trình trao đổi chất (Phạm Minh Thành, 2005). Những lòai cá khác
nhau thì có tốc độ sinh trưởng khác nhau. Cá có kích thước lớn thì có tuổi thọ cao, tốc
độ sinh trưỏng nhanh, thời gian sinh trưởng kéo dài hơn những loài cá có kích thước
nhỏ. Trong cùng một loài thì tốc độ sinh trưỏng của cá thay đổi qua các giai đoạn
trong một chu kì sống.
Trong họ thát lát (Notopteridae) loài cá còm có tốc độ sinh trưởng nhanh nhất. Trong
tự nhiên cá 1 năm tuổi có thể đạt 0,6-1 kg, mỗi năm tăng từ 0,9-1,1 kg. Cá có thể sống
8-10 năm đạt chiều dài hơn 1m, nặng trên 10 kg (Nguyễn Chung, 2006).
Đặc tính của cá còm là cá sống thành đàn, khi cá lớn thì đặc tính này vẫn còn nhưng
cá tự phá bầy săn mồi riêng lẻ. Trong ao nuôi mật độ cao ta có thể thấy được sự phân
đàn rõ sau hai tháng nuôi, sẽ có những con cá cạnh tranh thức ăn không lại dẫn đến
không lớn được có thể gầy yếu và chết. Cá hoạt động mạnh về ban đêm nên chú ý
trong quá trình nuôi để chăm sóc cá cho tốt hơn.
Trước lúc cá đạt trạng thái thành thục sinh dục lần đầu cá chủ yếu tăng nhanh về kích
thước, sau khi đạt trạng thái thành thục sinh dục, tốc độ tăng trưởng về chiều dài giảm
nhường bước cho sự tăng trưởng về khối lượng (Phạm Phú Hùng, 2007).
2.1.6 Đặc điểm sinh sản
Ngoài tự nhiên cá thành thục sinh dục lần đầu ở tuổi 2-3 năm nặng 1-2 kg. Trong nuôi
vỗ cá có thể thành thục sinh dục lần đầu ở 2 năm nặng 2 kg, (Nguyễn Chung, 2006).
Cá có tập tính làm tổ để đẻ, trứng được đẻ vào tổ và cá đực giữ tổ, đảo nước để đưa
oxy giúp trứng phát triển, sau khi đẻ 5-6 ngày trứng sẽ nở tùy theo nhiệt độ.
Vào mùa sinh sản cá đực và cá cái tự bắt cặp giao phối. Trứng có đường kính 2-3mm,
trứng thụ tinh trương nước và bám trên các hốc đá, các giá thể thực vật thủy sinh. Cá
đực bảo vệ trứng trong suốt thời gian ấp trứng và hung dữ tấn công những con cá khác
xâm nhập đến khu vực chúng đang bảo vệ (Nguyễn Chung, 2006).
Khi con đực và con cái thành thục, cho vào bể chúng sẽ bắt cặp với nhau. Trong vòng
những ngày đầu, chúng sắp xếp lại rong và chuyển chúng đến một góc bể. Trong điều

kiện tự nhiên cá đẻ trên các vùng cạn và những thân, rể tre chìm trong nước. Sau khi
con cái đẻ trứng trên ổ đã dọn sẳn con đực bơi theo thụ tinh. Trứng cá thành thục có
màu vàng, to tròn, đường kính 2,5-3,5 mm Cá bơi lội tự do và bắt đầu ăn được luân
trùng và ấu trùng Artemia sau 2-3 ngày (Dương Nhựt Long, 2003).


8
2.2 Những kết quả nghiên cứu về sinh sản và ương nuôi cá thát lát còm
2.2.1 Kỹ thuật nuôi vỗ
Nuôi vỗ là khâu quan trọng nhất trong quy trình sản xuất giống nhân tạo. Các nghiên
cứu của các tác giả khác nhau đều có những điểm chung trong khâu nuôi vỗ, tuy nhiên
mỗi công trình có những cải tiến riêng nhằm nâng cao sức sinh sản thực tế và rút ngắn
thời gian tái phát dục.
Theo Nguyễn Chung (2006), nuôi vỗ cá thát lát còm bố mẹ được thực hiện như sau:
Chọn cá từ 2 tuổi trở lên có khối lượng trên 2 kg chiều dài 45-60 cm làm cá bố mẹ.
Mật độ 0,5 kg cá/m
2
với tỷ lệ đực cái là 1 : 1 đến 3 : 1 thả đực cái chung với nhau. Sử
dụng nhiều loại thức ăn: cá tạp, chế biến (50% bột cá + 50% cám gạo + premix) hoặc
cho ăn xen kẻ giữa cá tạp và thức ăn chế biến. Thả chà hoặc lục bình ở các góc ao làm
chổ ẩn nấp cho cá vào ban ngày và tiện cho chăm sóc quản lý.
Ở trại cá Thạch Hòa – Hậu Giang: Trại chỉ tập trung nuôi vỗ cá cái trong ao hình chữ
nhật, diện tích 800-1000 m
2
, mật độ thả 1 kg cá/m
2
. Sử dụng thức ăn 100% cá biển.
Còn cá đực được trại tuyển chọn, thu mua từ các ao thương phẩm. Tiến hành nuôi vỗ
tái phát dục đàn cá bố mẹ sau khi chấm dứt kỳ sinh sản đầu tiên.
Thời gian tái phát dục của cá là 1,5 tháng.

2.2.2 Kỹ thuật sinh sản
Trên thế giới việc nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá thát lát còm vẫn còn nhiều hạn chế,
hầu hết chỉ dừng lại ở việc mô tả hoạt động sinh sản của cá trong tự nhiên hay bố trí
tạo điều kiện cho cá đẻ tự nhiên. Thái Lan và Việt Nam là hai quốc gia đi đầu trong
công tác nghiên cứu cho sinh sản nhân tạo cá thát lát còm.
2.2.3 Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo
Theo Nguyễn Chung (2006), khoảng 20h sau khi tiêm cá cái tiến hành kiểm tra sự
rụng trứng. Khi thấy trứng đã rụng thì vuốt trứng để thụ tinh. Cá đực không thể nặn
tinh mà phải mổ lấy tinh. Một con đực có thể thụ tinh cho 3-5 con cái.
Trại cá Thạch Hòa – Hậu Giang thụ tinh nhân tạo với tỷ lệ đực cá (theo khối lượng) là
1: 20. Tỷ lệ thụ tinh đạt 85 - 98%.
2.2.4 Ấp trứng
Theo Nguyễn Chung (2006), có thể ấp trứng cá thát lát còm bằng phương pháp:
phương pháp khử dính và phương pháp ấp trứng dính trên giá thể. Phương pháp ấp
trứng khử dính: trứng được khử dính ấp trong bình Weys mật độ ấp 4000-5000
trứng/L, lưu tốc dòng chảy trong bể ấp 0,05-0,1 m/s. Phương pháp cho trứng dính trên
9
giá thể (giá thể là cây cỏ, sợi nilon, khung lưới mịn), mật độ ấp từ 50.000-60.000
trứng/m
2
.
Tuy nhiên trong thực tế thì các trại sản xuất giống cá thát lát còm sử dụng phương
pháp ấp trứng dính trên giá thể. Trại cá Thạch Hòa – Hậu Giang: ấp trứng trong bể
ximăng sử dụng nguồn nước sông qua hệ thống lắng lọc cơ học và sử dụng chlorine
(20-30 ppm) để xử lý nước. Trại sử dụng bạt che bể để nâng cao và ổn định nhiệt độ
trong khoảng 29-31
o
C. Mật độ ấp 50.000-60.000 trứng/m
2
, tỷ lệ thụ tinh 90-95%, tỷ lệ

nở 90-97%.
2.2.5 Kỹ thuật ương cá giống
Bể ương có kích thước 1,5m x 2,5m x 0,5m, không bị rò rỉ, thoát nước. Nguồn nước
phải trong sạch, cấp đủ suốt thời gian ương. pH từ 7-7,5, oxy hoà tan >=3 mg/lít.
Theo Phạm Phú Hùng (2007), Thời gian từ khi trứng thụ tinh đến ấp nở là 7 ngày, cá
bột mới nở đến cá con phải mất 35-40 ngày mới đạt 3-4 cm, cá giống lớn chậm phải
kéo dài thêm 30-40 ngày mới đạt chiều dài 12-15 cm, sau đó cá sẽ lớn nhanh hơn nuôi
6 tháng có thể đạt trọng lượng 400-500 g/con và nuôi 12 tháng có thể đạt trọng lượng
1 kg/con.
Cá còm bột sau 4 ngày tiêu hết noãn hoàng có chiều dài trên > 1 cm đã có sắc tố và
bắt đầu tìm mồi ăn. Cá bột nên thả vào sáng sớm hoặc chiều mát, không thả vào lúc
nắng nóng hay trời đang mưa sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và sức sống của
cá. Vớt và thả cá bột bằng vợt mịn, thao tác phải nhẹ nhàng không làm cá mệt. Mật độ
thả là 200-250 con/m
2
(Nguyễn Chung, 2006).
Theo Nguyễn Chung (2006), trong 7-8 ngày đầu cho cá ăn moina, daphnia rải đều
khắp bể, cho ăn theo nhu cầu của cá, từ ngày thứ 8 về sau cho ăn trùn chỉ hay thức ăn
chế biến gồm 30% thịt cá xay nhuyễn với 70% bột cá giàu đạm, mỗi ngày cho ăn 100-
250 gram trùn cho 10.000 bột và tăng dần theo nhu cầu bắt mồi của cá.
Mỗi ngày nên cho cá ăn 3 lần, sáng và trưa 2/5, chiều 3/5 khẩu phần. Cho ăn trùn chỉ
nên ở vị trí cố định sẽ giảm hao hụt trùn, cá ăn được nhiều hơn và kiểm soát được
lượng thức ăn cho phù hợp.
Trùn chỉ rửa sạch loại mầm bệnh trùn mang theo, có thể rửa qua nước muối 0,6-1%
trong một phút trước khi cho cá ăn (Nguyễn Chung, 2006).
Giai đoạn còn nhỏ, nhất là cá bột, cá hương có sức sống thấp do khả năng thích ứng
với điều kiện môi trường kém nhất so với các giai đoạn khác của chu kỳ sống. Cá chỉ
có thể thích ứng được với phạm vi biến đổi hẹp của các yếu tố môi trường.
Những tác động xấu của môi trường dù nhỏ cũng dễ gây chết cho cá (Phạm Minh
Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008). Vì thế trong quá trình ương cần xiphông đáy lấy

10
thức ăn dư thừa và phân cá ra, cấp thêm nước mới vào bằng với nước ban đầu. Khi bể
nhiễm bẩn, phải bớt nước trong bể còn lại 1/3 sau đó từ từ thêm nước mới vào, tránh
làm ảnh hưởng đến cá ương.
Quan sát tình hình ăn mồi của cá để tăng hoặc giảm lượng thức ăn cho phù hợp. Thức
ăn chế biến được nấu chín và bóp nhuyễn hoà tan trong nước, khi cho ăn rải đều lên
mặt bể.
Trong quá trình ương cần chú ý tới sự xuất hiện của bọ gạo, nòng nọc ếch nhái và một
số địch hại khác, chúng có thể tấn công và làm hao hụt cá bột.
Cá đạt chiều dài 3-4 cm/con đã chuyển sang cá hương có thể thu cá. Để tránh hao hụt
và ảnh hưởng đến sức khỏe của cá nên xả bớt nước còn khoản 1/3 và dùng vợt xúc
nhẹ nhàng cá ra thau xô, tránh làm cá bị xây sát. Với cá còm kích thước 3-4 cm chưa
thả nuôi thịt được nên tiếp tục ương dưỡng thêm để đạt chiều dài 5-6 cm mới tạm làm
cá giống nuôi thịt (Nguyễn Chung, 2006).
Thu hoạch
Trong thời gian ương cá hương lên cá giống nên định kì luyện cá. Cá ương được một
tuần lễ bắt đầu luyện, thường vào buổi sáng dùng cây tre hoặc gỗ đập vào nước hay
khuấy động một góc ao. Có thể dùng lưới để kéo cá dồn lại một góc (Nguyễn Chung,
2006).
Trước khi bắt cá cho cá ngừng ăn 1-2 ngày. Khi vận chuyển nên dùng túi nilon có
bơm oxy, tổng thời gian vận chuyển đường dài không quá 50 giờ.













11
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
3.1.1 Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ thàng 03/2010 đến tháng 06/2010.
3.1.2 Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại trại cá Minh Trang, Quận Cái Răng, TP Cần Thơ và
Trại sản xuất cá giống Hậu Giang, Cái Tắc, Tỉnh Hậu Giang.
3.2 Vật liệu nghiên cứu
3.2.1 Cá bột
Mua tại Trại sản xuất cá giống Hậu Giang Thuộc Cái Tắc, Tỉnh Hậu Giang.
3.2.2 Dụng cụ và trang thiết bị
+ Bể ximăng, giai lưới, vợt…
+ Test pH, Test oxy, Nhiệt kế, Máy thổi khí…
+ Cân điện tử, thướt nhựa, xô, thao, ống hút nước, vợt thu mẫu, sàng ăn…
3.2.3 Thức ăn cho cá bột
Sử dụng 4 loại thức ăn: moina, trùn chỉ, cá biển và thức ăn công nghiệp 25% đạm
3.3 Phương pháp tiến hành
3.3.1 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm ương cá thát lát còm được thực hiện tại bể ximăng và tại giai ương cá với
cùng mật độ và 3 loại thức ăn khác nhau.
Bố trí thí nghiệm ương cá trong bể xi măng
Thí nghiệm đựơc thực hiện tại trại cá giống Hậu Giang, Cái Tắc, Tỉnh Hậu Giang.
Bể ximăng có kích thước, chiều dài 3m, chiều rộng 2,5m, chiều sâu 0,5m. Cá được thả
với mật độ 1000 con/m
2.

. Bố trí thí nghiệm theo 3 nghiệm thức thức ăn như Bảng 2.
Cho cá ăn mỗi ngày 3 lần vào 7 giờ, 11 giờ và 17 giờ hàng ngày. Theo dõi hoạt động
ăn, bơi lội bắt mồi của cá, Thức ăn thừa, phân cá được siphon hàng ngày, tại các bể
có sục khí liên tục.
Bố trí thí nghiệm ương cá trong giai
Thí nghiệm đựơc thực hiện tại trại cá Minh Trang, Thuộc Quận Cái Răng, TP Cần
Thơ.
12
Giai sử dụng cho ương cá có chiều dài 0,6m, chiều rộng 0,5m, chiều sâu 0,5m. Giai có
mắt lưới 40 micromet. Cá đựợc thả với mật độ 1000 con/m
2
.
Mỗi ngày cho cá ăn 3 lần: 7 giờ, 11 giờ và 17 giờ, theo dõi hoạt động ăn và bắt mồi
của cá.
Thức ăn cho cá qua các tuần theo Bảng 1.
Bảng 1: Thức ăn qua các tuần
Thức ăn
Nghiệm
thức
Tuần 1 Tuần 2 Tuần 3 Tuần 4 Tuần 5
I Moina Trùn chỉ Trùn chỉ Trùn chỉ Trùn chỉ
II Moina Cá biển xay Cá biển xay Cá biển xay Cá biển xay
III Moina TĂCN TĂCN TĂCN TĂCN
3.3.2 Thu và phân tích mẫu
Thu và phân tích các yếu tố môi trường
Trong quá trình thí nghiệm tiến hành thu và phân tích nhiệt độ, O
2
hoà tan, pH nước.
- Nhiệt độ: Đo hàng ngày vào lúc 7h và 14h bằng nhiệt kế.
- O

2
hoà tan: Đo ôxy hoà tan 7 ngày 1 lần vào lúc 7h và 14h. xác định ôxy bằng test
ôxy.
- pH nước: Xác định hàng ngày cùng lúc xác định nhiệt độ, sử dụng test pH.
Thu mẫu và xác định tốc độ tăng trưởng của cá.
Thu mẫu định kỳ 7 ngày 1 lần. Mỗi lần thu 30 cá thể/1 nghiệm thức. xác định chiều
dài và trọng lượng của từng con.
Tốc độ tăng trưởng của cá xác định theo công thức.
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối:
DWG
1
2
Y1 - Y2
T
T

=
(3.1)

Trong đó:
Y2 và Y1 là kích thước (chiều dài hoặc trọng lượng) đo tại các thời điểm T2 và T1.
DWG là tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài hoặc khối lượng.


13
Xác định tỉ lệ sống của cá
Số cá thu được
SR (%) = x 100 (3.2)
Số cá thả ương ban đầu
3.4 Phương pháp xử lý số liệu và đánh giá kết quả

Các số liệu được xử lý bằng chương trình Excel và so sánh thống kê bằng phương
pháp phân tích ANOVA với phần mềm Statistica 6.0





















14
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Thí nghiệm ương cá trong giai với các loại thức ăn khác nhau
4.1.1 Nhiệt độ, pH và ôxy tại giai ương cá
Kết quả được trình bày ở Bảng 2.
Bảng 2: Nhiệt độ, pH và oxy tại giai qua 5 tuần ương cá

Nghiệm thức Nhiệt độ (°C) pH DO (ppm)
Trùn chỉ 29,3±1,1 7,8±0,5 4,2±0,7
Cá biển 29,5±1,2 7,8±0,4 4,0±1,1
TĂ viên 29,5±1,1 7,5±0,5 4,1±1,0
Ghi chú: kết quả là giá trị trung bình cộng của 3 giai trong mỗi nghiệm thức, qua 5 tuần ương.
Kết quả của Bảng 2 chỉ ra rằng: Nhiệt độ, pH và nồng độ oxy hoà tan không có sự sai
khác giữa các nghiệm thức, nguyên nhân do 3 nghiệm thức bố trí cùng 1 ao và tương
đồng với nhau.
Theo Lê Ngọc Diện (2005), nhiệt độ thích hợp cho cá tôm vùng nhiệt đới nằm trong
khoảng 25-32
0
C. Theo Nguyễn Văn Kiểm (2005), oxy 3-5 ppm, pH 7-8 là thích hợp
cho sự sinh trưởng và phát triển của cá bột.
Nhìn chung các yếu tố môi trường ương cá bột trong các nghiệm thức phù hợp cho sự
sinh trưởng và phát triển của cá và phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng nước nuôi thuỷ
sản.
4.1.2 Tỉ lệ sống
Kết quả tỉ lệ sống của cá ương trong giai được trình bày ở Bảng 3.
Bảng 3: Tỉ lệ sống của cá còm ương trong giai với 3 loại thức ăn khác nhau
Nghiệm thức Tỉ lệ sống (%)
Trùn chỉ (Nghiệm thức I) 70,1±4.06
a
Cá biển (Nghiệm thức II) 4,30±0.67
b
TĂ viên (Nghiệm thức III) 8,40±1.12
b

Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn. Các giá trị trên cùng một cột có các chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức (p<0,05)
15

Sau 5 tuần thí nghiệm, cá ở nghiệm thức I có tỉ lệ sống cao nhất (70,1%). Tỉ lệ sống
của cá đạt thấp nhất ở nghiệm thức II (4,3%), nghiệm thức III có tỉ lệ sống nhỏ hơn
nghiệm thức I nhưng cao hơn nghiệm thức II, nghiệm thức I khác biệt có ý nghĩa so
với nghiệm thức I và II, nhiệm thức II không khác biệt với nghiệm thức III.
Nguyên nhân làm cho tỉ lệ sống ở nghiệm thức II và nghiệm thức III thấp là do, khi
chuyển từ thức ăn tươi sống là moina sang thức ăn chế biến, cá không thích nghi kịp
do thức ăn cá biển xay không thể phân bố đều như thức ăn viên hay trùn chỉ, vì vậy có
hiện tượng một số cá không bắt được thức ăn và tấn công những cá khác.
Mặt khác trong giai đoạn đầu khi chuyển đổi từ thức ăn moina sang thức ăn viên và cá
biển xay, cá không thích nghi với thức ăn dạng tĩnh, do vậy thức ăn cá biển xay và
thức ăn viên không kích thích cá bắt mồi vì không kích thích thị giác của cá do vậy cá
không đủ lượng thức ăn cần thiết dẩn đến tỉ lệ sống thấp. Ngoài ra còn do vấn đề về
hệ tiêu hoá tiêu, do hệ tiêu hoá những ngày đầu chưa hoàn chỉnh nên tỉ lệ chết cao.
Trong khi đó trùn chỉ cũng là loại thức ăn tươi sống như moina nên cá dễ dàng thích
nghi nên tỉ lệ sống cao.
Tỉ lệ sống ở hai nghiệm thức II và III khác nhau cũng do thức ăn viên có kích cỡ
tương đối phù hợp hơn so với thức ăn cá biển xay, phân bố đều trong nước hơn nên
giúp cá bắt mồi đồng đều hơn hạn chế hiện tượng thiếu thức ăn ở cá mà cá có thể tấn
công nhau, do vậy mà tỉ lệ sống ở nghiệm thức thức ăn viên có tỉ lệ sống cao hơn ở cá
biển xay.
Kết quả nghiên cứu này tương tự như kết quả nghiên cứu của Nguyễn Anh Tuấn, ctv
(2005), khi ương cá lóc bông bằng thức ăn cá tạp cũng cho tỉ lệ sống thấp hơn so với
nghiệm thức sử dụng thức ăn chế biến hay trùn chỉ.
4.1.3 Tăng trưởng về khối lượng
Kết quả tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá ương trong giai với 3 loại thức ăn
khác nhau được trình bày ở Bảng 4.
Bảng 4: Tăng trưởng về khối lượng của cá còm ương trong giai
Nghiệm thức Y1 (mg) Y2 (mg) Y2-Y1 (mg) DWG (mg/ngày)
Trùn chỉ 20±0 759,7±85,5
b

739,7± 80,1
b
21,0±2,3
b
Cá biển 20±0 311,7±87,5
c
291,67±87,5
c
8,3±2,5
c
TĂ viên 20±0 170,3±22,5
a
150,33±22,5
a
4,2±0,7
a
Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn; Các giá trị trên cùng một cột có các chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức (p<0,05).
16
Khối lượng của cá sau 5 tuần ương đạt cao nhất ở nghiệm thức I (759,67 mg), thấp
nhất là nghiệm thức III (170,33 mg) và nghiệm thức II cao hơn nghiệm thức III nhưng
nhỏ hơn nghiệm thức I (311,67 mg) và các nghiệm thức là khác biệt với nhau. kết quả
tương tự đối với tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (DWG).
Khi ương cá giai đoạn đầu sử dụng moina làm thức ăn là loại thức ăn tươi sống và
động nên cá quen với loại thức ăn dạng này. Do vậy khi chuyển đổi sang trùn chỉ cá
thích ngi nhanh trong khi đó khi chuyển sang cá biển xay và thức ăn viên là hai loại
thức ăn dạng tĩnh, không kích thích cá bắt mồi do không kích thích thị giác, ngoài ra
hàm lượng chất dinh dưỡng trong trùn chỉ nhiều hơn thức ăn cá biển xay và thức ăn
viên, do vậy tốc độ tăng trưởng lớn hơn so với 2 nghiệm thức còn lại.
Khi chuyển từ moina sang cho cá ăn loại thức ăn viên và thức ăn cá biển xay cá ăn rất

ích do cá chưa quen với thức ăn dạng tĩnh, nên không kích thích cá bắt mồi như trùn
chỉ, do vậy mà tốc độ tăng trưởng so với nghiệm thức I là thấp.
Kết quả về tỉ lệ sống cho thấy tỉ lệ sống ở nghiệm thức III cao hơn tỉ lệ sống ở nghiệm
thức II. Nhưng tốc độ tăng trưởng về khối lượng lại thấp hơn so với nghiệm thức II,
điều này có ý nghĩa là tuy cá có thể bắt mồi dễ dàng hơn cho tỉ lệ sống cao hơn, nhưng
tốc độ tăng trưởng lại phụ thuộc vào khả năng tiêu hoá và lượng dinh dưỡng cá hấp
thu được trong từng loại thức ăn, và hàm lượng chất dinh dưỡng trong 3 loại thức ăn
là khác nhau.
Thức ăn cá biển xay cho tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá nhanh hơn thức ăn
viên nhưng chậm hơn so với khi cho ăn trùn chỉ. Điều này cho thấy việc sử dụng cá
biển xay, thức ăn viên thay thế hoàn toàn trùn chỉ cũng chưa có ý nghĩa, hơn nữa tỉ lệ
sống khi sử dụng cá biển xay và thức ăn viên cho tỉ lệ sống thấp.
Tốc độ tăng trưởng về trọng lượng của cá được thể hiện qua biểu đồ, Hình 1.
Hình 1:Tăng trưởng khối lượng qua các tuần ương cá trong giai
0
0.2
0.4
0.6
0.8
M

i th

Tu

n 1 Tu

n 2 Tu

n 3 Tu


n 4 Tu

n 5
Tu

n
gram
NT1
NT2
NT3


17
4.1.4 Tăng trưởng về chiều dài
Kết quả tốc độ tăng trưởng về chiều dài của cá còm ương trong giai sử dụng các loại
thức ăn khác nhau được trình bày ở Bảng 5.
Bảng 5: Tăng trưởng về chiều dài của cá còm ương trong giai
Nghiệm thức Y1 (mm) Y2 (mm) Y2-Y1 (mm) DWG (mm/ngày)
Trùn chỉ 13,3±0,09 47,7±1,25
b
34,4±1,30
b
0,1±0,04
b
Cá biển 13,4±0,13 34,2±1,05
a
20,8±1,15
a
0,6±0,04

a
TĂ viên 13,1±0,11 26,2±2,15
c
13,1±2,25
c
0,4±0,07
c
Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn; Các giá trị trên cùng một cột có các chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức (p<0,05).
Tương tự tăng trưởng về khối lượng, tăng trưởng về chiều dài của cá đạt từ (26,12-
47,70 mm). Các số liệu về tăng trưởng về chiều dài của cá đạt cao nhất ở nghiệm thức
I, cho ăn trùn chỉ và có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại. Điều
này cũng được giải thích tương tự như tăng trưởng về khối lượng, do trùn chỉ vẩn là
thức ăn ưa thích của cá.
Tăng trưởng thấp nhất ở nghiệm thức III sử dụng thức ăn viên (26,21 mm) và có ý
nghĩa thống kê so với 2 nghiệm thức I và II.
nghiệm thức II cho ăn bằng thức ăn cá biển xay tăng trưởng về chiều dài nhanh hơn
thức ăn viên nhưng chậm hơn trùn chỉ (34,17 mm) cũng được giải thích tương tự như
tăng trưởng về khối lượng và có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với 2 nghiệm thức I và
III.
Kết quả về tỉ lệ sống ở nghiệm thức cá biển xay thấp hơn nghiệm thức thức ăn viên
nhưng tốc độ tăng trưỏng về chiều dài nhanh hơn cũng được giải thích tương tự như
tăng trưởng về khối lượng
Một vài nghiên cứu cho thấy khi sử dụng thức ăn chế biến kết hợp với thức ăn tự
nhiên thì hiệu quả sẽ tốt hơn là thay thế hoàn toàn bằng thức ăn chế biến hay sử dụng
thức ăn chế biến vào những giai đoạn thích hợp sẽ cho kết quả tỉ lệ sống và tăng
trưởng tốt hơn. Kết quả này đã được khẳng định trong nghiên cứu của Trần Thị Thanh
Hiền, Nguyễn Hương Thuỳ (2008), khi nghiên cứu về khả năng sử dụng thức ăn chế
biến của cá còm (chitala chitala) giai đoạn bột lên giống.
Các nghiên cứu trước đây cho thấy việc thay thế thức ăn tự nhiên hoàn toàn bằng thức

ăn nhân tạo không thể thực hiện hoàn toàn trong ương nuôi hầu hết các loài cá
nguyên nhân do thức ăn nhân tạo không kích thích cá bắt mồi vì không kích thích thị
giác cá và cá rất khó bắt mồi là thức ăn nhân tạo nên không đủ lượng thức ăn cần thiết
18
Tốc độ tăng trưởng về chiều dài qua các tuần được thể hiện qua biểu đồ, Hình 2.

Hình 2: Tăng trưởng chiều dài qua các tuần ương cá trong giai
0
20
40
60
Mới thả Tuần 1 Tuần 2 Tuần 3 Tuần 4 Tuần 5
Tuần
(mm)
NT1
NT2
NT3

4.2 Thí nghiệm ương cá trong bể với các loại thức ăn khác nhau
4.2.1 Nhiệt độ, pH và ôxy tại bể ương cá
Tại 3 nghiệm thức ương cá trên bể xi măng các yếu tố: Nhiệt độ, pH và nồng độ oxy
hoà tan được xác định và kết quả thể hiện ở Bảng 6.
Bảng 6: Nhiệt độ, pH và Oxy tại bể ương cá
Nghiệm thức Nhiệt độ (°C) pH DO (ppm)
Trùn chỉ 29,8±1,3 7,6±0,7 4,7±0,7
Cá biển 30,2±1,4 7,9±0,7 4,8±0,7
TĂ viên 29,4±1,1 7,6±0,6 4,4±0,5
Ghi chú: kết quả là giá trị trung bình cộng của 3 giai trong mỗi nghiệm thức, qua 5 tuần ương.
Kết quả của bảng 5 chỉ ra rằng giá trị nhiệt độ nước trong các bể thay đổi nhỏ qua 5
tuần ương cá (29,4-30,2

0
C), tuy nhiên sự khác biệt là không lớn. Ngoài ra trong suốt
quá trình ương biên độ dao động nhiệt của các nghiệm thức cũng không lớn giữa các
ngày cũng như trong một ngày.
Giá trị pH trung bình giữa các nghiệm thức biến đồng trong khoảng (7,6-7,9) thay đổi
nhỏ và trị số pH theo các thời điểm trong ngày tuy có biến động nhưng trong giới hạn
hẹp, do nguồn nước trong bể thường xuyên được thay đổi, siphông, nên không thấy có
sự xuất hiện của tảo, vì vậy mà biên độ biến động pH theo các thời điểm trong ngày
không lớn.
19
Giá trị oxy hoà tan của cả 3 nghiệm thức trong suốt 5 tuần ương đều đạt khá cao (4,4-
4,8 ppm) là nhờ các bể ương có sục khí vào những thời điểm thiếu oxy và có sự giảm
nhẹ theo thời gian ương do vật chất hữu cơ và hô hấp ở cá tăng lên.
Theo Lê Ngọc Diện (2005), nhiệt độ thích hợp cho cá tôm vùng nhiệt đới nằm trong
khoảng 25-32
0
C, Theo Nguyễn Văn Kiểm (2000), oxy 3-5 ppm, pH 7-8 là thích hợp
cho sự sinh trưởng và phát triển của cá bột. Theo Lê Xuân Như và ctv (1994), tiêu
chuẩn chất lượng nước cho nuôi trồng thuỷ sản là pH 7-8,5, nhiệt độ 26-32
0
C, oxy hoà
tan >3 mg/l.
Trong suốt quá trình ương cá trên bể các yếu tố môi trường được xác định đều thuận
lợi cho sự sống, sinh trưởng và phát triển của cá. Giá trị của các yếu tố môi trường tuy
có sự biến động theo từng thời điểm, nhưng đều nằm trong phạm vi cho phép.
Nhìn chung các trị số xác định được về nhiệt độ, pH, nồng độ oxy hoà tan trong bể thí
nghiệm ở cả 3 nghiệm thức đều trong giới hạn thích hợp cho sự sinh trưởng và phát
triển của cá bột.
4.2.2 Tỉ lệ sống
Kết quả tỉ lệ sống của cá ương trong bể được trình bày ở bảng 7.

Bảng 7: Tỉ lệ sống của cá còm ương trong bể với 3 loại thức ăn khác nhau
Nghiệm thức Tỉ lệ sống (%)
Trùn chỉ (Nghiệm thức I) 86,8±5,03
a
Cá biển (Nghiệm thức II) 7,40±1,16
b
TĂ viên (Nghiệm thức III) 10,4±1,38
b

Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn. Các giá trị trên cùng một cột có các chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức(p<0,05).
Sau 5 tuần thí nghiệm, cá ở nghiệm thức I có tỉ lệ sống cao nhất (86,8±5,03%) Tỉ lệ
sống của cá đạt thấp nhất ở nghiệm thức II đạt (7,4±1,16%). Nghiệm thức III có tỉ lệ
sống (10,4±1,38%) cao hơn nghiêm thức II nhưng thấp hơn nghiệm thức I. nghiệm
thức I có sự khác biệt so với nghiệm thức II và II, nghiệm thức II và III không có sự
khác biệt.
Kết quả tỉ lệ sống ở nghiệm thức II và nghiệm thức III thấp là do, khi chuyển từ thức
ăn tươi sống là moina sang thức ăn chế biến cá không thích nghi kịp do thức ăn chế
biến như: cá biển xay không thể phân bố đều, chìm nên có hiện tượng một số cá
không bắt được thức ăn và tấn công những cá khác, ngoài ra còn do thức ăn trùn chỉ là
loại thức ăn ưa thích ở cá trong khi đó thức ăn chế biến chỉ được xem là loại thức ăn
bắt buộc.
20
Ngoài ra còn do trong giai đoạn đầu khi chuyển đổi từ thức ăn moina sang thức ăn cá
biển xay hay thức ăn viên, cá không thích nghi với thức ăn dạng tĩnh, nên không kích
thích thị giác làm cho cá bắt mồi kém hơn so với trùn chỉ và khi cá bắt được mồi thì
khó tiêu hoá, do hệ tiêu hoá chưa hoàn chỉnh nên tỉ lệ chết cao
Thức ăn viên có kích cỡ tương đối phù hợp hơn so với thức ăn cá biển xay, phân bố
đều trong nước hơn nên giúp cá bắt mồi đồng đều hơn hạn chế hiện tượng thiếu thức
ăn ở, do vậy mà tỉ lệ sống ở nghiệm thức thức ăn viên có tỉ lệ sống cao hơn ở cá biển

xay.
Ngoài ra những nguyên nhân khác cũng có sự tương tự như được thảo luận ở phần kết
quả ương cá trong giai ở trên.
4.2.3 Tăng trưởng về khối lượng
Kết quả tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá ương trong bể với 3 loại thức ăn khác
nhau được trình bày ở bảng 8.
Bảng 8: Tăng trưởng về khối lượng của cá còm ương trong bể
Nghiệm thức Y1 (mg) Y2 (mg) Y2-Y1 (mg) DWG (mg/ngày)
Trùn chỉ 26,7±5,8 1076±49,5
b
1049,3±44,7
b
30±1,3
b
Cá biển 26,7±5,8 561±55
c
534,3±50,0
c
15,3±1,4
c
TĂ viên 30,0±0 219,7±29,5
a
189,7±29,5
a
5,4±0,8
a
Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn; Các giá trị trên cùng một cột có các chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức (p<0,05)
Qua 5 tuần ương cá khối lượng cá đạt cao nhất ở nghiệm thức I (1076±49,5 mg). Tốc
độ tăng trưởng thấp nhất ở nghiệm thức III (219,7±29,5 mg). nghiệm thức II có tốc độ

tăng trưởng chậm hơn nghiệm thức I và nhanh hơn nghiệm thức III. Và giữa các
nghiệm thức là có sự khác biệt (p<0,05).
Khi chuyển đổi từ moina sang 3 loại thức ăn, thì trùn chỉ được cá thích ngi nhanh nhất
do tương tự như moina đều là loại thức ăn tươi sống nên kích thích cá bắt mồi, kích cỡ
phù hợp miệng cá và có hàm lượng dinh dưỡng nhiều nhất trong 3 loại thức ăn thí
nghiệm.
Khi cho cá ăn loại thức ăn viên và thức ăn cá biển xay chưa phù hợp với nhu cầu của
cá, nên cá ăn rất ích do cá chưa quen với thức ăn dạng tĩnh, do vậy không kích thích
cá bắt mồi như trùn chỉ và lúc này cá còn ít bắt mồi ở đáy. Ngoài ra còn do trong giai
đoạn đầu khi hệ tiêu hoá của cá chưa hoàn chỉnh, khả năng tiêu hoá thức ăn cá biển
xay và thức ăn viên không cao bằng thức ăn trùn chỉ (do cá đã quen với moina có tính
chất tương tự như trùn chỉ trong tuần lễ đầu).
21
Ngoài ra những nguyên nhân khác cũng có sự tương tự như được thảo luận ở phần kết
quả ương cá trong giai ở trên.
Tốc độ tăng trưởng về kh
ối
lượng của cá được thể hiện qua biểu đồ, Hình 3.
Hình 3: Tăng trưởng khối lượng qua các tuần ương cá trong bể
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
Mới thả Tuần 1 Tuần 2 Tuần 3 Tuần 4 Tuần 5
Tuần
(gram)
NT1

NT2
NT3

4.2.4 Tăng trưởng về chiều dài
Kết quả tốc độ tăng trưởng về chiều dài của cá còm ương trong bể sử dụng các loại
thức ăn khác nhau được trình bày ở bảng 9.
Bảng 9: Tăng trưởng về chiều dài của cá còm ương trong bể
Nghiệm thức Y1 (mm) Y2 (mm) Y2-Y1 (mm) D
W
G (mm/ngày)
Trùn chỉ 13,2±0,02 52,8±0,84
B
39,6±0,9
b
1,13±0,03
b
Cá biển 13,2±0,15 42,3±0,94
c
29,1±1,1
c
0,83±0,03
c
TĂ viên 13,2±0,04 30,5±0,14
a
17,3±0,3
a
0,49±0,01
a
Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn; Các giá trị trên cùng một cột có các chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức (p<0,05).

Tương tự tăng trưởng về khối lượng, tăng trưởng về chiều dài của cá đạt từ
(30,50±0,14 -52,8±0,84 mm). Các số liệu tăng trưởng về chiều dài của cá đạt cao nhất
ở nghiệm thức I, thấp nhất ở nghiệm thức III và thứ 2 là nghiệm thức II. Các nghiệm
thức có sự khác biệt (p<0,05)
Điều này cũng được giải thích tương tự như tăng trưởng về khối lượng, Trần Thị
Thanh Hiền, Nguyễn Hương Thuỳ (2008) khi nghiên cứu về khả năng sử dụng thức
ăn chế biến của cá còm (chitala chitala) giai đoạn bột lên giống cũng cho kết quả
tương tự.
22
Các nghiên cứu trước đây cho thấy việc thay thế thức ăn tự nhiên hoàn toàn bằng
thức ăn nhân tạo không thể thực hiện hoàn toàn trong ương nuôi hầu hết các loài cá
nguyên nhân do thức ăn nhân tạo không kích thích cá bắt mồi vì không kích thích thị
giác cá (person le Ruyet et al., 1993). Cá rất khó bắt mồi là thức ăn nhân tạo nên
không đủ lượng thức ăn cần thiết (Appelbaum and Damme, 1985).
Tốc độ tăng trưởng về chiều dài qua các tuần được thể hiện qua biểu đồ, Hình 2.
Hình 4: Tăng trưởng chiều dài qua các tuần ương cá trong bể
0
10
20
30
40
50
60
Mới thả Tuần 1 Tuần 2 Tuần 3 Tuần 4 Tuần 5
Tuần

(mm)
NT1
NT2
NT3














23
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1 Kết luận
5.1.1 Điều kiện môi trường trong ao và bể bố trí thí nghiệm thích hợp cho sự sống,
sinh trưởng của cá, ôxy (4,0±1,1 – 4,8±0,7 ppm), nhiệt độ (29,3±1,1 – 30,2±1,4
0
C),
pH (7,5±0,5 – 7,9±0,7)
5.1.2 Thức ăn trùn chỉ cho tỉ lệ sống và tăng trưởng tốt hơn so với cá biển xay và thức
ăn viên 25% đạm.
5.1.2 Tỉ lệ sống khi ương bằng thức ăn viên 25% đạm tuy cao hơn cá biển xay nhưng
tốc độ tăng trưởng lại thấp hơn.
5.2 Đề Xuất
5.2.1 Nghiên cứu khả năng sử dụng thức ăn viên và cá biển xay trong các giai đoạn
tiếp sau 5 tuần của quá trình ương cá, nhằm giảm sự phụ thuộc vào loại thức ăn trùn
chỉ.

5.2.2 Nghiên cứu sử dụng thêm các loại men tiêu hoá vào thức ăn để hổ trợ khả năng
tiêu hoá của cá.
5.2.3 Nghiên cứu tìm các loại thức ăn mới thay thế cho các loại thức ăn đang sử dụng
để giảm thời gian và giá thành ương cá.


















24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Dương Nhựt Long. (1999). Kỹ thuật nuôi một số loài cá nước ngọt có giá trị kinh tế
phân bố ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Dương Nhựt Long. (2003). Giáo trình kỹ thuật nuôi thuỷ sản nước ngọt.
Lê Quý Cường. (2006). Kỹ thuật nuôi một số loài cá nước ngọt. NXB Nông Nghiệp.
Lê Ngọc Diện & ctv. ( 2005). Nghiên cứu quy trình ương giống và nuôi thương phẩm

cá thát lát (Notopterus notopterus Pallas). Báo cáo khoa học, Chi Cục Thuỷ Sản
Cần Thơ. 61 trang.
Lê Ngọc Diện. (2004). Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ và hàm lượng protein trong
thức ăn viên lên tốc độ tăng trưỏng và tỉ lệ sống của cá thát lát (Notopterus
notopterus Pallas) ở giai đoạn cá giống và nuôi thương phẩm. Luận văn cao học.
Lê Như Xuân, (1994). Bài giảng kỹ thuật ương nuôi cá nước ngọt.
Mai Đình Yên. (1992). Định loại cá nước ngọt ở Nam Bộ, Nhà xuất bản khoa học và
kỹ thuật.
Nguyễn Chung. (2006). Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá Nàng Hai. NXB Nông
Nghiệp TPHCM.
Nguyễn Văn Hảo. (2005). cá nước ngọt Việt Nam, Nhà xuất bản Hà Nội.
Nguyễn Văn Kiểm. (2000). Giáo trình sản xuất cá giống, Tủ sách trường ĐH Cần thơ.
Nguyễn Anh Tuấn, Dương Nhựt Long, Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Văn Kiểm,
Nguyễn Văn Thường, Nguyễn Bạch Loan. (2005). Nghiên cứu đặc điểm sinh
học cá lóc bông (Channa micropeltes cuvier. 1831). đề tài cấp bộ.
Phạm Phú Hùng. (2007). Nghiên cứu biện pháp sản xuất giống cá thát lát còm (chitala
chitala). Luận văn thạc sỹ nghành nuôi trồng thuỷ sản. Khoa thuỷ sản trường
Đại Học Cần Thơ.
Phạm Minh Thành. (2005). Nuôi thuỷ sản đại cương. Tủ sách Đại Học Cần Thơ.
Phạm Thanh liêm và Trần Đắc Định. (2004). Bài giảng phương pháp nghiên cứu sinh
học cá. Khoa thuỷ sản. Đại Học Cần Thơ.
Phạm Minh Thành, Nguyễn Văn Kiểm. (2008). Giáo trình sản xuất giống cá nước
ngọt. Tủ sách Đại Học cần Thơ.
Trương Thủ Khoa, Trần Thị Thu Hương. (1993), Định loại cá nước ngọt vùng Đồng
Bằng Sông Cửu Long
Trần Ngọc nguyên & ctv. (2005). Nghiên cứu sinh sản cá thát lát. Báo cáo khoa học,
chi cục BV & PTNT thuỷ sản Cần Thơ. 61 Trang.
Trần Thị Thanh Hiền, Phạm Thanh Liêm và Nguyễn Hương Thuỳ. (2007). Nghiên
cứu đặc điểm dinh dưỡng và khả năng sử dụng thức ăn chế biến để ương cá thát
lát còm (Notopterus chitala) từ bột lên giống. Đề tài cấp bộ.

25
Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Hương Thuỳ. (2008). Khả năng sử dụng thức ăn chế
biến của cá còm (chitala chitala) giai đoạn bột lên giống. Tạp chí khoa học 2008
(1) 134-140.
http:// www.khuyennongvn.gov.vn, cập nhật ngày 16/07/2010.
http:// www.aquabird.com.vn cập nhật ngày 23/05/2010.
Tài liệu dịch
Xakun O.F, Buskaia N.A 1968. Bản dịch của Lê Thanh Lựu. (1982), xác định các
giai đoạn thành thục và nghiên cứu chu kỳ sinh dục cá. Nhà xuất bản Nông
Nghiệp Hà Nội.
Nicolski. (1953). Sinh thái cá. Tài liệu do Phạm Thị Minh Trang dịch từ tiến nga năm
(1973). Nhà xuất bản Nông Nghiệp.
Tài liệu tiếng Anh
Boyd C. E. (1998). Water quality in ponds for aquaculture. Birmingham Publishing
Co. 5(1). pp: 1-8.
Appelbaum, S. and P. Van Damme. (1988). The feasibility of using exclusively
artificial dry feed for the rearing of Israeli Clarias gariepinus (Burchell, 1822).
Larvae and fry. J. Appl Ichthyol s 4. 105-110.
D.V.Serov, V.K Nezedoliy, D.S Pavlov. (2006). The fresh water fishes of central
VietNam, Moscow.
Person-Le Ruyet, J., J.C. Alexandre, L. Thébaud and C. Mugnier. (1993). Marine fish
larvae feeding Formulated diets or live preys? J. World Aquacul. Social 24:
211-224.


×