Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

công cuộc xây dựng và chỉnh đốn đảng trong thời kì mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.53 KB, 49 trang )


Luận Văn
Công cuộc xây dựng
và chỉnh đốn đảng
trong thời kì mới
MỤC LỤC
SƠ LƯỢT VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
3
1
Tính cấp thiết của đề tài

3
2
Mục tiêu, quan điểm về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong
thời kì mới

5
2.1
Mục tiêu

5
2.2
Quan điểm

5
3
Phạm vi nghiên cứu

6
3.1
Không gian nghiên cứu



6
3.2
Thời gian nghiên cứu

6
3.3
Lĩnh vực nghiên cứu

6
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
7
1
Quá trình cách mạng của Đảng

7
2
Bản chất, mục đích và nền tảng tư tưởng của Đảng

8
3
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng

8
4
Về hệ thổng tổ chức và đảng viên của Đảng

9
CHƯƠNG II : NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI TRONG CÔNG

TÁC XÂY ĐỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
11
1
Tham nhũng ngày càng diễn biến phức tạp và nghiêm trọng hơn

11
2
Tổ chức cơ sở đảng chưa được quan tâm chỉ đạo đúng mức

13
3
Tính dân chủ trong Đảng và trong xã hội còn bị vi phạm

14
4
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng còn chậm và lúng
túng

16
5
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn hạn chế, nhất là trong
công tác phê bình và tự phê bình

17
5.1 Hạn chế trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng

17
5.2 Hạn chế trong công tác phê bình và tự phê bình

17

6
Yếu kém trong công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát trong
Đảng

18
7
Công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế

19
7.1 Công tác cán bộ

19
7.2 Công tác bảo vệ chính trị nội bộ

20
8
Nguyên nhân của những vấn đề tồn tại trong công tác xây dựng
và chỉnh đốn đảng

20
CHƯƠNG III : CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG
TÌNH HÌNH MỚI
22
1
Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, hoàn thiện đường lối đổi
mới và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện

22
2
Tăng cường công tác tư tưởng ; rèn luyện phẩm chất đạo đức cách

mạng

23
2.1
Tăng cường công tác tư tưởng

23
2.2
Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân

24
3
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

25
4
Ðổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Ðảng và của hệ thống
chính trị

27
5
Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ

29
5.1
Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ

29
5.2
Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ


31
6
Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng
đảng viên

32
6.1
Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng.

32
6.2
Nâng cao chất lượng đảng viên.

33
7
Ðổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát

35
8
Xây dựng và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Ðảng với nhân
dân

35
9
Ðổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Ðảng

37
KẾT LUẬN


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

SƠ LƯỢT VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Bước vào thời kì mới, nhất là trong bối cảnh thế giới như hiện nay, thì
Đảng ta cần có những thay đổi phù hợp với tình hình, để lãnh đạo toàn dân,
toàn Đảng giành được những thắng lợi mới trong thời kì mở cửa hội nhập
kinh tế thị trường.
Vì vậy, để xây dựng được một Đảng chính trị vững mạnh thì cần phải làm
tốt công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đảng Cộng Sản Việt Nam là đảng
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt
Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và là kim chỉ nam cho hành động. Đảng ta trải qua hơn 80 năm phấn
đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách,
với bản lĩnh của một Đảng cách mạng chân chính, dày dặn kinh nghiệm,
luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy
sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều
thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban bí thư các khóa đã ban hành
nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở đó,
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực;
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao;
phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo
của Đảng được giữ vững, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố;
đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến
bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao
phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được
nhân dân tin tưởng. Thành tựu hơn 25 năm đổi mới là thành quả của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán

bộ, đảng viên.
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn
chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều
nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo
của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau
đây:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ
vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt
lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo
danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô
nguyên tắc
Đội ngũ cán bộ cấp trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa
được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung
thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự
hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí,
phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật
công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở
trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của
ngành, địa phương và cả nước.
Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi
rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ
giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm.
Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá
nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết,
dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ hoặc lạm
dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Vì vậy, trong chuyên đề này, chúng ta cần đi sâu, nghiên cứu, tìm ra những
vấn đề còn tồn tại trong công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng trong thời

gian qua, từ đó tìm ra những giải pháp và phương hướng để khắc phục,
xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời kì mới.
2. Mục tiêu, quan điểm về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong
thời kì mới.
2.1 Mục tiêu:
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng Cộng Sản Việt Nam trở thành một đảng chính
trị vững mạnh, Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn
thể dân tộc Việt Nam. Củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng; xây dựng
Đảng, nhà nước trong sạch, vững mạnh; đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức
có đức, có tài, kỉ cương và liêm chính.
2.2 Quan điểm:
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách; tổ chức thực hiện sáng tạo, có hiệu quả đường lối.
- Coi trọng công tác tư tưởng, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, xây dựng nền tảng tư tưởng, lý luận vững chắc cho sự nghiệp đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững mục tiêu lý tưởng, giữ vững
niềm tin, bảo đảm thống nhất giữa nhận thức và hành động.
- Tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống, nâng cao tính tiên
phong gương mẫu, phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ, đảng viên, đề ra
và thực hiện các biện pháp có hiệu lực chống tư tưởng cơ hội, thực dụng,
chủ nghĩa cá nhân; ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu
và những biểu hiện tiêu cực khác.
- Thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng; xây
dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan
hệ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm bộ máy tinh gọn,
có hiệu lực, hiệu quả. Ðặc biệt chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; gắn xây dựng tổ chức cơ sở đảng
với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; nâng cao chất lượng sinh hoạt
Ðảng.
- Tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ, tạo chuyển biến

cơ bản, vững chắc trong công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc
biệt là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, thật sự
vì Ðảng, vì dân, có bản lĩnh và trí tuệ, đi đầu trong công tác và gương mẫu
trong đạo đức lối sống, bảo đảm tính kế thừa và phát triển; xây dựng và
thực hiện chính sách phát triển nhân tài đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Ðổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Ðảng và
trong cả hệ thống chính trị. Kiểm tra nhận thức, năng lực lãnh đạo, xây
dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và
Nhà nước; kiểm tra phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên. Xây dựng các quy chế và biện pháp thực hiện sự giám sát của
nhân dân đối với hoạt động của Ðảng, Nhà nước và cán bộ, đảng viên.
- Ðổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng, bảo đảm vừa nâng cao vai trò
lãnh đạo của Ðảng, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách
nhiệm của Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và người đứng
đầu; khắc phục khuynh hướng buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm
thay; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị.
3. Phạm vi nghiên cứu.
3.1 Không gian nghiên cứu: Việt Nam
3.2 Thời gian nghiên cứu: Hiện Nay
3.3 Lĩnh vực nghiên cứu: Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời
kì mới
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Quá trình cách mạng của Đảng.
Từ ngày thành lập (3/2/1930) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam
tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn
khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại; thắng lợi của
cách mạng tháng 8/1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến

lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (nay là Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam), nhà nước công nông, đưa dân tộc Việt Nam vào kỉ
nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược
mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), cuộc tổng tiến công và
nổi dậy mùa xuân năm 1975, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng
lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, đưa đất nước tiếp tục quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã giành được trong hơn 80
năm qua đều gắn liền với quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển
của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong hơn 80
năm qua, với hơn 65 năm cầm quyền, trong đó có hơn 25 năm thực hiện
sự nghiệp đổi mới, Việt Nam từ một thuộc địa nửa phong kiến đã trở
thành một quốc gia độc lập, tự do phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa, đất nước đã thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu, đang đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; có quan hệ quốc tế rộng
rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
2. Bản chất, mục đích và nền tảng tư tưởng của Đảng.
Cương lĩnh chính trị và điều lệ Đảng của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác
định rõ mục đích và nên tảng tư tưởng của Đảng như sau:
- Đảng Cộng Sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân
tộc Việt Nam.
- Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ
nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững những quy luật

khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra cương lĩnh
chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân.
3. Nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng.
- Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và
hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực
hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đồng thời thực hiện các nguyên
tắc: tự phê bình và phê bình; đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và
Điều lệ Đảng; gắn bó mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn
khổ hiến pháp, pháp luật.
- Đảng Cộng Sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định
hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng truyên truyền, thuyết phục,
vận động; bằng công tác tổ chức, cán bộ và kiểm tra; bằng sự gương mẫu
của cán bộ, đảng viên.
- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lí đội ngũ cán bộ, giới
thiệu những đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực vào hoạt động trong các
cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng tôn trọng, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây
dựng Đảng.
- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống
ấy. Đảng lãnh đạo, phát huy vai trò của nhà nước, Mặt trận Tổ Quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội. Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp
phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội của nhân dân thế giới.
4. Về hệ thống tổ chức và đảng viên của Đảng.
Hệ thống tổ chức cơ bản của Đảng được thành lập tương ứng với hệ
thống tổ chức hành chính của nhà nước (theo đơn vị hành chính, lãnh
thổ), gồm 4 cấp là: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp cơ sở. Ngoài

ra, tổ chức Đảng, còn được lập ra ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy
định của trung ương.
Hiện nay, toàn Đảng có 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương, gồm 58 đảng
bộ tỉnh, 5 đảng bộ thành phố, 4 đảng bộ trực thuộc Trung ương. Có gần
1300 đảng bộ cấp huyện và tương đương (gần 700 đảng bộ huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh và gần 600 đảng bộ cấp trên trực tiếp của tổ
chức cơ sở đảng).
Toàn Đảng có gần 57000 tổ chức cơ sở đảng, với hơn 23000 đảng bộ cơ sở
và hơn 33000 chi bộ cơ sở; gần 1700 đảng bộ bộ phận, hơn 254000 chi bộ
trực thuộc đảng ủy cơ sở với tổng số gần 3,8 triệu đảng viên, chiếm hơn
4% dân số của cả nước. Các tổ chức cơ sở đảng có 5 loại hình cơ bản là: tổ
chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; tổ chức cơ sở đảng trong doanh
nghiệp; tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính; tổ chức cơ sở đảng
trong đơn vị xí nghiệp và tổ chức cơ sở đảng trong lực lượng vũ trang.
Trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là trong 10 năm gần
đây, số lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong các loại hình cơ sở
tăng nhanh và chất lượng không ngừng được nâng lên. Nhiều tổ chức cơ
sở đảng trong các loại hình đã phát huy vai trò lãnh đạo và là hạt nhân
chính trị ở cơ sở; có nhiều mô hình mới và điển hình tiên tiến, lãnh đạo
thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn, góp phần giữ vững
ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh,
quốc phòng, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Số lượng đảng viên trong những năm gần đây tăng nhanh, bình quân mỗi
năm toàn Đảng kết nạp hơn 170000 đảng viên mới, trong đó số đảng viên
trẻ, là Đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chiếm hơn 65%; số
đảng viên nữ, đảng viên là người dân tộc thiểu số ngày càng tăng, làm cho
tuổi bình quân của toàn Đảng giảm và cơ cấu đội ngũ đảng viên từng
bước chuyện dịch theo hướng tích cực.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số loại hình tổ chức cơ sở đảng
có những thay đổi: tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn tăng lên do

chia tách hoặc thành lập mới; tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà
nước giảm dần và tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ phần tăng lên do
thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; một số loại
hình tổ chức cơ sở đảng có sự thay đổi về quy mô, hình thức tổ chức và
phương thức hoạt động cho phù hợp với cơ chế quản lí kinh tế mới; một số
loại hình tổ chức cơ sở đảng mới ra đời và đi vào hoạt động.
CHƯƠNG II
NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC XÂY ĐỰNG
VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
1. Những tồn tại trong công tác phòng chống tham nhũng hiện nay.
Theo báo cáo của chính phủ trước quốc hội “Tình hình tiêu cực và tham
nhũng chẳng những không giảm mà ngày càng diễn biến phức tạp và
nghiêm trọng hơn” đã hiện diện trong mọi hoạt động đời sống xã hội, đầu
tiên là lĩnh vực kinh tế, kế đến các lĩnh vực có liên quan đến kinh tế như
hải quan, thuế rồi nhiễm sang lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, xóa
đói, giảm nghèo, đến các cơ quan công quyền, pháp luật và tổ chức.
Những tồn tại được thể hiện cụ thể trong ba lĩnh vực sau đây:
Một là, mô hình nhà nước lai tạp giữa pháp quyền (30%) và tập quyền tập
trung quan liêu (70%), thực hiện thể chế kiểm tra dọc; lại đưa Uỷ ban
Phòng, chống tham nhũng về trực thuộc cơ quan hành pháp sẽ không
tránh khỏi chuyên quyền, độc đoán, quan liêu. Mô hình này như là bà mẹ
sản sinh các tệ nạn tiêu cực và tham nhũng và ngày càng nảy nở tràn lan.
Hai là, công tác tổ chức cán bộ thời kì vận hành nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung bao cấp chưa đổi mới cơ bản để thích nghi với nền kinh tế thị
trường XHCN, đã trở thành tập trung quan liêu, do đó thiếu thông tin và
thông tin thiếu chính xác, méo mó là điểu kiện bất lợi cho việc đánh giá,
tuyển chọn cán bộ không chuẩn xác.
Mặc khác, chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của cán bộ nhất là người
đứng đầu tổ chức chưa rõ ràng, do đó nhiều nhiệm kì và nhiều thập kỉ qua
không ai bị cách chức và từ chức, thể chế bầu cử chưa đổi mới phù hợp

với nền dân chủ XHCN… Là những khe hở để những kẻ cơ hội luồng lách
leo cao, để trục lợi tham nhũng, người hiền tài bị loại khỏi hệ thống lãnh
đạo, dẫn đến chất lượng công tác tổ chức cán bộ ngày càng sút giảm, hiệu
lực và hiệu quả hoạt động thấp, làm sản sinh hiện tượng tiêu cực xã hội,
lãng phí và tham nhũng ngày càng tăng.
Ba là, chế độ tiền lương để kéo dài sự vi phạm giá trị sức lao động như
hiện nay cũng là tác nhân gây ra tham ô, hối lộ và tham nhũng. Tiền lương
hiện nay chỉ bằng xấp xỉ 50% giá trị sức lao động, vô hình trung có nghĩa
Nhà nước và chủ các doanh nghiệp còn nợ người lao động 50% giá trị sức
lao động, những người thuộc diện nghèo mà không được hưởng chính
sách xóa đói, giảm nghèo. Theo các chuyên gia ở các nước phát triển tổng
kết thì "Tiền lương là một trong sáu giải pháp phòng chống tham nhũng".
Chế độ tiền lương ở nước ta hiện nay đã tự đánh mất vai trò phòng, chống
tham nhũng, mà trở thành một trong những nhân tố dẫn đến hành vi
tham nhũng, bởi vì chế độ tiền lương hiện nay không đủ trang trải sinh
hoạt gia đình ở mức tối thiểu, buộc không ít người chấp nhận các hành vi
tiêu cực… trước sự bức bách của cuộc sống ("để tự cứu mình"), dần dần
dẫn đến tha hóa phẩm chất, đạo đức, bán rẻ lương tâm và sự cống hiến
của mình, rồi dấn thân vào tệ tham nhũng.
Nếu không có bước đổi mới các lĩnh vực nêu trên phù hợp với các tiêu chí
khoa học thì Luật Phòng, chống tham nhũng sẽ giảm thiểu hiệu lực, bởi vì
Luật không thể tự nó định chế các hành vi tiêu cực và tham nhũng, mà
phải thông qua vai trò điều hành của Nhà nước và vai trò của cán bộ công
quyền, nhất là người đứng đầu tổ chức. Mặt khác Quốc hội cơ cấu như
hiện nay không đủ điều kiện (trình độ và quỹ thời gian) để ban hành luật
pháp đạt chuẩn mực để điều hành nền kinh tế thị trường XHCN (nền kinh
tế thị trường TBCN hay CNXH đều cần Quốc hội chuyên trách và đại biểu
đạt trình độ chuẩn mực) để bảo đảm chất lượng và số lượng các đạo luật,
đáp ứng yêu cầu điều chỉnh phát huy mặt ưu điểm và khắc phục mặt
khuyết điểm của nền kinh tế thị trường nhằm phát triển nền kinh tế xã hội

bền vững.
Điều hành luật pháp phải thông qua con người cụ thể; việc tuyển chọn,
đào tạo nhân sự hiện nay không đủ sức để gạt ra khỏi đội ngũ cán bộ
những kẻ thiếu tâm và không đủ tầm (mà thực tế đã kiểm nghiệm, minh
chứng qua nhiều vụ việc tiêu cực, nhũng nhiễu, hành dân, tham ô, lãng phí
và tham nhũng ngày càng tinh vi khắp các lĩnh vực hoạt động đời sống xã
hội). Thiết nghĩ, cần phải có bước đổi mới đột phá các lĩnh vực nêu trên
sao cho phù hợp với môi trường và hệ thống các quy luật của nền kinh tế
thị trường XHCN, làm giảm thiểu các hiện tượng tiêu cực, đồng thời tập
trung đấu tranh trực diện thông qua pháp luật để có thể xóa bỏ về cơ bản
tệ nạn tham nhũng.
Tiến hành triển khai có hiệu quả các giải pháp nêu trên, chúng ta sẽ thực
hiện được bốn không “không muốn tham nhũng, không cần tham những,
không dám tham nhũng và không thể tham nhũng” mà các nước đi tiên
phong trong việc phòng chống tham nhũng đã tổng kết, là điều kiện làm
trong sạch Đảng và làm lành mạnh hóa Nhà nước, đẩy lùi nguy cơ và giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Tổ chức cơ sở đảng chưa được quan tâm chỉ đạo đúng mức.
Nhiều tổ chức cơ sở đảng chưa được quan tâm chỉ đạo đúng mức. Một số
thôn bản ở vùng sâu, vùng xa chưa có tổ chức đảng và đảng viên. Một số
loại hình tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan hành chính, xí nghiệp còn lúng túng về tổ
chức và phương thức hoạt động. Không ít cơ sở đảng yếu kém, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu thấp; sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên lỏng
lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự phê bình và phê bình yếu. Việc đánh
giá tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không ít trường hợp chưa đúng thực
chất, còn hình thức.
Việc xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, vai trò tổ chức đảng còn mờ
nhạt, chưa phát huy tốt vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở. Động cơ phấn

đấu vào Đảng của một số người còn có biểu hiện lệch lạc, xem việc vào
Đảng là một hình thức để tiến thân.
3. Tính dân chủ trong đảng và trong xã hội còn bị vi phạm.
Trong tình hình hiện nay, nguyên tắc tập trung dân chủ đang đặt ra một số
vấn đề cần nhận thức đúng bản chất khoa học và cách mạng của mối quan hệ
biện chứng giữa tập trung và dân chủ. Làm thế nào để thực hiện tốt nhất
nguyên tắc này trong thực tiễn đổi mới và tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước hiện nay?
Những người cơ hội, xét lại đã phản kích quyết liệt nguyên tắc tập trung dân
chủ - nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng ta. Họ cho rằng căn bệnh độc
đoán, gia trưởng, chuyên quyền là bạn đồng hành gắn liền với nguyên tắc tập
trung dân chủ. Một số người lớn tiếng đòi thực hiện đa nguyên chính trị, mở
rộng dân chủ vô giới hạn, hy vọng tạo ra trong Đảng nhiều phe phái đối lập
nhằm phá hoại sự đoàn kết của Đảng. Một số cán bộ ta do không vững vàng
về tư tưởng và hạn chế về nhận thức lý luận, mơ hồ về chính trị cũng dao
động, nghi ngờ bản chất khoa học của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đúng là hiện tượng mất dân chủ đang diễn ra ở một số tổ chức đảng và trong
nhiều tổ chức kinh tế, xã hội, có nơi mất dân chủ nghiêm trọng và kéo dài.
Một số người ở cương vị lãnh đạo chủ chốt có biểu hiện xa dân, quan liêu,
độc đoán, gia trưởng, thiếu tôn trọng và phát huy quyền dân chủ của đảng
viên, của nhân dân. Trong quản lý kinh tế, đã có lúc do nhận thức chưa đầy
đủ về vấn đề này nên chúng ta quá nhấn mạnh mặt tập trung, thống nhất mà
chưa chú ý đến thực hiện dân chủ, thực chất là chưa thấy hết mối quan hệ
hữu cơ giữa tập trung và dân chủ.
Thực tế đó đã hạn chế sự năng động, sáng tạo của quần chúng ở cơ sở, làm
triệt tiêu động lực phát triển, làm cho kinh tế - xã hội nước ta trì trệ kéo dài.
Song, không thể cho rằng những căn bệnh đó thuộc bản chất, là cái tất yếu
nảy sinh từ việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó chỉ là kết quả tất
nhiên của việc chưa nhận thức đúng bản chất khoa học và chưa vận dụng
sáng tạo lý luận về nguyên tắc tập trung dân chủ vào hoàn cảnh cụ thể của

nước ta.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp, sự thống nhất biện chứng của hai
mặt tập trung và dân chủ. Về bản chất khoa học của vấn đề này, không có sự
tách rời hay đối lập giữa tập trung và dân chủ. Dân chủ chỉ đúng nghĩa khi
được thực hiện trên cơ sở của tập trung, và tập trung thực sự phải là tập trung
dân chủ. Sự nhầm lẫn và thực hiện không đúng nguyên tắc này đã tạo ra một
thứ tập trung giả hiệu không trên cơ sở dân chủ, cũng giống như cố tình tạo
ra một thứ dân chủ hình thức không dựa trên cơ sở tập trung.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp, sự thống nhất biện chứng của hai
mặt tập trung và dân chủ. Về bản chất khoa học của vấn đề này, không có sự
tách rời hay đối lập giữa tập trung và dân chủ. Dân chủ chỉ đúng nghĩa khi
được thực hiện trên cơ sở của tập trung, và tập trung thực sự phải là tập trung
dân chủ. Sự nhầm lẫn và thực hiện không đúng nguyên tắc này đã tạo ra một
thứ tập trung giả hiệu không trên cơ sở dân chủ, cũng giống như cố tình tạo
ra một thứ dân chủ hình thức không dựa trên cơ sở tập trung.
Thực tế cho thấy ở đâu vận dụng tốt các nguyên tắc tập trung dân chủ thì ở
đó sẽ có sự đoàn kết thống nhất và khai thác phát huy được tính tích cực
năng động sáng tạo của mỗi thành viên trong tập thể và các tổ chức xã hội.
Nếu tuyệt đối hoá quá mặt tập trung hay dân chủ đều có thể dẫn tới những
sai lầm có hại cho sự lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đó còn là cơ sở
nảy sinh những “ông quan cách mạng” mà Bác Hồ đã nhiều lần nhắc nhở,
phê phán.
Đặc biệt tính dân chủ có vai trò rất quan trọng trong các hoạt động của một
nền kinh tế, nó giúp phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, tạo
nên sự đoàn kết thống nhất, hăng say trong lao động, hướng tới xây dựng
thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy nếu Nhà nước xã
hội chủ nghĩa không quản lý, kiểm soát được nền kinh tế, và nếu thành phần
kinh tế quốc doanh không giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thì nhất
định sự phát triển ấy sẽ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, sẽ có những biến
động khó lường.

4. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng còn chậm và
lúng túng.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo còn chậm và lúng túng được thể hiện
ở ba vấn đề cụ thể sau đây:
Một là, vẫn còn tình trạng các cấp ủy bao biện, làm thay hoặc buông lỏng
lãnh đạo đối với hoạt động của hệ thống chính trị trên một số lĩnh vực.
Chậm ban hành những quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo
nhà nước, Mặt trận Tổ Quốc và các đoàn thể; về mối quan hệ công tác
giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Hai là, còn thiếu những quy định cụ thể đảm bảo thực hiện đúng đắn
nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành dân chủ trong đảng và trong xã
hội. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng, công tác
cán bộ đổi mới còn chậm; chất lượng công tác tư tưởng, truyên truyền còn
nhiều hạn chế. Chậm cụ thể hóa tiêu chuẩn cán bộ trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cho từng chức danh cụ thể ở các cấp, các ngành.
Chất lượng công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,
bổ nhiệm cán bộ còn hạn chế; chính sách đãi ngộ cán bộ cong bất cập.
Chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng,
trọng dụng người có đức, có tài, thay thế kịp thời những yếu kém về phẩm
chất và năng lực.
Ba là, chưa thực sự coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc; trình
trạng họp hành nhiều, nói chưa đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, né tránh,
đùn đẩy trách nhiệm, thiếu gương mẫu còn diễn ra ở nhiều nơi.
5. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn hạn chế, nhất là
trong công tác phê bình và tự phê bình
5.1 Hạn chế trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn nhiều hạn chế, thiếu sót; tính
định hướng, tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả chưa cao; thiếu
chủ động và sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu "diễn biến hòa bình",
chống tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch, bác bỏ các quan

điểm sai trái; thiếu những hình thức, biện pháp cụ thể, có sức thuyết phục
để xây dựng, củng cố niềm tin, giải đáp những băn khoăn, vướng mắc,
những vấn đề phức tạp và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong quá trình
đổi mới; chưa làm tốt chức năng dự báo tình hình, chuẩn bị tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên chủ động đi vào kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
với khu vực và thế giới. Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức,
lối sống còn chung chung, kém hiệu quả. Công tác nghiên cứu lý luận còn
yếu, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới. Trong chỉ đạo, quản lý
cũng như hoạt động của báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật còn nhiều
yếu kém, khuyết điểm chậm được khắc phục, nhất là chưa ngăn chặn có
hiệu quả khuynh hướng xa rời tôn chỉ mục đích, chạy theo thị hiếu thấp
kém, vì lợi ích vật chất cá nhân, cục bộ.
5.2 Hạn chế trong công tác phê bình và tự phê bình.
Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, tự phê bình và phê bình trong
các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa tạo được
chuyển biến cơ bản, chưa góp phần tích cực ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham
nhũng, lãng phí, quan liêu. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa
nêu gương, chưa làm tròn trách nhiệm trong đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu. Việc xử lý kỷ luật đối với những người đứng
đầu để xảy ra tham nhũng, lãng phí ở ngành, địa phương, đơn vị chưa kịp
thời, kiên quyết.
6. Yếu kém trong công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát trong
Đảng
Công tác kiểm tra trong Ðảng còn yếu, chất lượng và hiệu quả kiểm tra
chưa cao; nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm
được phát hiện và khắc phục; chưa coi trọng kiểm tra phòng ngừa, phát
huy nhân tố tích cực. Nhiều cán bộ đảng viên còn vi phạm kỉ luật trong
Đảng, có hành vi lừa dối Đảng, lừa dối nhân dân, tình trạng bằng giả, học
vị giả vẫn còn tồn tại. Cán bộ có đức, có tài thì chưa có điều kiện để phát
huy tính năng động và tích cực của mình; hoặc là không được đảm nhận

những vị trí, chức vụ phù hợp với trình độ và năng lực công tác. Nhiều cấp
ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật trong
Ðảng. Công tác giám sát trong Ðảng và giám sát của nhân dân đối với các
hoạt động của Ðảng, Nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa được quan tâm,
chưa đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng Ðảng trong tình hình mới. Đối
với một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự
phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí,
tùy tiện, vô nguyên tắc… thì chúng ta chưa thật sự có những biện pháp xử
lý mạnh và nghiêm minh để làm gương cho kẻ khác. Công tác kiểm tra,
giám sát, giữ gìn kỉ cương, kỉ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa được thực
hiện thường xuyên, ráo tiết, nghiêm túc. Nếu tình trạng này vẫn còn tồn
tại và kéo dài sẽ làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
7. Công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế
7.1 Công tác cán bộ
Nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục,
nhất là việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, thực hành dân chủ và chế độ trách nhiệm trong công tác.
Chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Chưa kiên quyết và thiếu những quy chế có
hiệu lực để sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ, thay thế kịp thời những cán
bộ yếu kém về phẩm chất và năng lực, để công việc trì trệ; hầu như chỉ khi
cán bộ bị kỷ luật hoặc vi phạm pháp luật mới thay thế được. Chưa có
chính sách đủ hiệu lực khơi dậy tài năng và thu hút nhân tài vào các lĩnh
vực quan trọng. Chậm khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín, hẫng hụt cán
bộ ở các địa phương, ngành.
Công tác đào tào, bồi dưỡng cán bộ còn nhiều hạn chế, chưa có sự quan
tâm cà chỉ đạo đúng mức đối với họ. Nhiều cơ quan, tổ chức khi đáng giá

cán bộ, đặc biệt là cán bộ trẻ chưa đảm bảo được tính khách quan, toàn
diện, lịch sử, cụ thể và tính kế thừa. Chưa phát huy được tinh thần xung
kích, tình nguyện, năng lực và trí tuệ của cán bộ trẻ. Khi đánh giá cán bộ
trẻ chưa làm rõ được ưu, khuyết điểm, mặt mạnh, mặt yếu về phẩm chất
chính trị, đạo đức và lối sống, thực hiện chưa khoa học, còn hình thức. Một
điều quan trọng nữa là việc trả lương, thu nhập cho các cán bộ trẻ còn
chưa phù hợp với trình độ, năng lực công tác, chưa phù hợp với tình hình
kinh tế hiện tại.

7.2 Công tác bảo vệ chính trị nội bộ
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế, nhất là trong việc xem
xét, giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay; chậm bổ sung và sửa đổi
một số điểm không còn phù hợp trong Quy định 75-QÐ/TW; tổ chức bộ
máy và cán bộ làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ chậm được kiện toàn.
Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác
này.
8. Nguyên nhân của những vấn đề tồn tại trong công tác xây dựng
và chỉnh đốn đảng.
Những khuyết điểm, yếu kém nói trên có những nguyên nhân khách quan
và chủ quan:
Về khách quan, những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình
thế giới; sự tấn công rất thâm độc của các thế lực thù địch, nhất là trên
lĩnh vực tư tưởng chính trị; những mặt trái của kinh tế thị trường, của
quá trình hội nhập quốc tế đã tác động nhiều mặt đến công tác xây dựng
Ðảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xây dựng Ðảng trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc
tế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy
dân chủ là những vấn đề mới, khó khăn, phức tạp cả về lý luận và thực
tiễn, đòi hỏi phải vừa làm vừa tổng kết kinh nghiệm, hoàn thiện và phát
triển đường lối.

Về chủ quan, chậm đổi mới tư duy về công tác xây dựng Ðảng trong điều
kiện mới. Nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống
nhất một số vấn đề quan trọng ở tầm quan điểm, chủ trương; chưa cụ thể
hóa và tổ chức thực hiện kịp thời, đồng bộ một số quan điểm lớn, đúng
đắn về xây dựng Ðảng đã đề ra trong Cương lĩnh và các nghị quyết của
Ðảng. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng còn chậm, chưa đồng
bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh
tế.

×