Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

nguồn của luật quốc tế- case gabcikovo – nagymaros

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.39 KB, 34 trang )

Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 1







Tiểu luận

Nguồn của luật quốc tế- case
Gabcikovo – Nagymaros












Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 2

Giới thiệu chung về vụ việc


 Ngày 16 tháng 9 năm 1977: Cộng hoà Nhân dân
Czechoslovakia và Cộng hoà Nhân dân Hungary kí với nhau một điều ước
song phương thường được nhắc tới với tên “Treaty 1977”.
 Khu vực sông Danube được xét tới trong vụ này trải dài
khoảng 200 km, từ Bratislava ( Slovakia) đến Budapest (Hungary )ở ranh
giới giữa hai quốc gia này nằm trên khu vục mà độ dốc rất lớn. Cunovo nằm
phía trái và Gabcikovo nằm phía phải xuôi xuống nữa là lãnh thổ của
Hungari.
Nội dung của điều ước này, đó là hai quốc gia sẽ cùng nhau hợp tác
xây dựng và vận hành hệ thống đập thủy lợi ở khu vực Nagymaros (Thuộc
Hungary do đó sẽ do Hungary trực tiếp thực hiện, ngoài ra, do lí do địa trác
nên Hungary còn đảm nhận thêm một phần công việc ở cửa cống tại
Dunalikiti thuộc Gabcikovo, trên cả phần lãnh thổ của Hungari và
Czechoslovakia) và Gabcikovo (thuộc Czechslovakia do đó sẽ do
Czechoslovakia trực tiếp đảm nhận). Theo như lời mở đầu của hiệp định có
viết, cả gói hệ thống này (bao gồm một con đập nhân tạo, được đặt trên dòng
sông Danube, nhằm làm tăng thêm độ sâu và chệch hướng một phần của con
sông) được thiết kế để đạt được sự sử dụng một cách rộng rãi nguồn tài
nguyên thiên nhiên trên khu vực Bratislava – Budapest của sông Danube, tạo
điều kiện phát triển nguồn nước, năng lượng, vận tải, nông nghiệp và các
lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc gia. Điều này do vậy cũng hướng tới việc
sản xuất thủy điện, bảo vệ khu vực xuôi theo dòng sông tránh khỏi nạn lụt,
cải thiện hàng hải. Dự án này thường được nhắc tới với tên Gabcikovo -
Nagymaros.
Trong ”Treaty 1977” cùng các văn bản đính kèm theo sau, có một
nguyên tắc mà các quốc gia cùng nhau chấp thuận đó là nguyên tắc ngang
bằng; theo đó, một quốc gia sẽ đóng góp tương đương với phần việc của
mình trong các lĩnh vực tài chính, xây dựng, và vận hành công việc.
 30/6/1978: “Treaty 1977” chính thức có hiệu lực.
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009


Nhóm thuyết trình 5 Page 3

 10/10/1983: Hungary và Czechoslovakia ký với nhau nghị định
thư trì hoãn công việc và dời ngày vận hành các nhà máy năng lượng.
 06/02/1989: Hungary và Czechoslovakia ký với nhau nghị định
thư nhằm thúc đẩy tiến trình dự án.
 13/5/1989: chính phủ Hungary buộc phải tạm ngừng thực hiện
công việc của mình ở khu vực Nagymaros do gặp phải nhiều lời chỉ trích chờ
tới khi các nhà chức trách có thẩm quyền hoàn thành bản nghiên cứu trước
ngày 31/7/1989.
 21/7/1989: Chính phủ Hungary gia hạn việc tạm thời đình chỉ
công việc tại Nagymaros đồng thời đình chỉ nốt cả công việc tại Dunakiliti
đến 31/10/1989.
 27/10/1989: Chính phủ Hungary quyết định ngừng hẳn công
việc tại Nagymaros đồng thời vẫn tiếp tục tạm thời đình chỉ công việc tại
Dunakiliti.
Cùng thời gian này, đã có một số cuộc đàm phán giữa 2 nước;
Czechslovakia bắt đầu tìm kiếm một giải pháp khác, tương tự với phương án
ban đầu để thay thế mà nổi bật quan trọng trong số đó là Phương án tạm thời
“Variant C”, cách Dunakiliti 10km về phía thượng nguồn. Trong giai đoạn
cuối của quá trình thực hiện, Variant C bao gồm việc xây dựng ở Cunovo
một con đập tràn và một con đê nối với con đập đó ở phía nam khúc ngoặt
kênh đào.
 23/7/1991: Czechslovakia quyết định sẽ xây dựng và triển khai
Variant C
 11/1991: Variant C bắt đầu được xây dựng và triển khai. Nhiều
cuộc tranh luận giữa hai bên nhưng không dẫn tới kết quả nào.
 19/5/1992: Hungary gửi tới Cộng hoà Czechoslovakia một
công hàm tuyên bố chấm dứt “ Treaty 1977” với hiệu lực bắt đầu từ ngày

25/5/1992
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 4

 15/10/1992: Czechoslovakia tuyên bố sẽ bắt đầu đóng hệ thống
đập của sông Danube kể từ ngày 23/10. Đây được coi là ngày mà
Czechslovakia chính thức đưa Variant C ra vận hành hoạt động. Cùng lúc đó,
cộng đồng châu Âu cũng đề xuất các biện pháp hoà giải, 28/10, hai bên bắt
đầu có một loạt các xúc tiến trong hội nghị gặp gỡ với cộng đồng Châu Âu tổ
chức tại London
 1/1/1993: Slovakia tuyên bố độc lập, chính thức tuyên bố tách
khỏi Czechoslovakia
 7/4/1993: Hungary và Slovakia kí với nhau một “Special
Agreement” mà theo đó, hai quốc gia cùng bày tỏ ý chí của mình, chấp nhận
đưa vụ việc này ra tòa công lý quốc tế ICJ.
 Toà được yêu cầu quyết định các vấn dề:
- Cộng hoà Hungari có quyền dừng và tiếp sau đó vào năm 1989
từ bỏ những nghĩa vụ trong dự án Nagymaros và một phần Gabcikovo theo
như quy định trong bản hiệp ước 1977.
- Séc và Slovakia có quyền tiếp tục giải pháp thay thế vào tháng
11 năm 1989 và đưa vào hoạt động bắt đầu từ tháng 10 năm 1992 hệ thống
này hay không?
- Xác định những ảnh hưởng pháp lý của tuyên bố ngày
19/05/1992 về việc từ bỏ điều ước của Cộng hòa Hungary.
I. Đình chỉ điều ước
1. Tranh tụng của Hungary
(1) Introduction
- Hungary đình chỉ công việc tại Nagymaros ngày 13/5/1989 vì
việc xây dựng Đập sẽ có thể gây ra các tổn hại mội trường không thể khắc

phục bao gồm việc đe dọa nghiêm trọng nguồn cung cấp nước uống cho
Budapest. Hungary đã cố gắng đàm phán để điều chỉnh dự án nhằm giảm
thiểu tác hại trên bằng việc tiếp tục dự án với các bảo đảm sinh thái đầy đủ
nhưng đã thất bại do đó ngày 20/7/1989 Hungary gia hạn đình chỉ công việc
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 5

tại Nagymaros tới 31/10/1989 cùng với việc đình chỉ công việc tại Dunakiliti
liên quan đến kế hoạch chuyển dòng Danube vào tháng 10/1989. Đến ngày
10/01/1990 chưa có thỏa thuận nào đạt được do đó Hungary thông bố cho
Czechoslovakia về dự định hủy bỏ hợp đồng liên quna đến việc xây dựng tại
Nagymaros và tiến han2h thương lượng bồi thường với đối tác.
- Đối với Dự án Gabcikovo. Tháng 7 năm 1989 đình chỉ các
công việc chuẩn bị ở Dunakiliti trong lúc công việc ở đây đã gần như hoàn
thành, chỉ còn vấn đề cho tích nước vào đập tràn này liên quan đến việc
chuyển dòng Danube. Cả hai việc này theo Hungary đều gây ra các tổn hại
môi trường nghiêm trọng, trong khi các quy định về khắc phục đã không
được tiến hành. Dù vậy, sự đình chỉ này không gây ảnh hưởng đến các công
trình ở phía thượng nguồn. 16/04/1991 Quốc hội Hungary ra nghị yếu yêu
cầu chính phủ nước đàm phán với Czech and Slovak federal Republic về
việc dừng các khoảng đầu tư nhà nước trong tương lai. Ngày 25/10/1991
Chính phủ ra nghị quyết yêu cầu dừng ngay lập tức các khoảng đầu tư nhà
nước chodhệ thống đập, có hiệu lực ngày 31/12/1991. Tuy nhiên việc chấm
dứt công việc tại Gabcikovo đã bắt đầu từ tháng 10/1991 và có hiệu lực từ
cuối năm 1991.
- Từ tháng 8 năm 1989, Czechoslovakia đã đưa ra gợi ý về việc
áp dụng các biện pháp đối phó về mặt kỹ thuật. Trong tháng này, Hungary
cũng đã lưu ý đến hậu quả nghiêm trọng về môi trường và sinh thái của các
biện pháp đối phó này. Các biện pháp này được thực hiện từ tah1ng 1/1991.

(2) Legal basis for suspension and subsequent
abandonment of works
a. Công việc tại Nagymaros
- Hungary không phủ nhận hiệu lực của Hiệp định 1977 tại thời
điểm năm 1989, và tiếp tục thực hiện các công việc ở Gabcikovo. Tuy nhiên
vấn đền này lại phụ thuộc vào một nhân tố quan trọng hơn: sự an toàn vật lý
và môi trường của dự án. Các tổn hại đến nguồn nước của dân cư và các
nguồn nước chính của Hungary có thể gây ra bởi dự án nếu không có sự điều
chỉnh thì sẽ dẫn đến tình trạng cấp thiết.
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 6

- 23/6/1989 Viện Khoa học Hungary đã xác nhận các nguy cơ
này là có thật.
- Hungary chỉ đình chỉ chứ không chấm dứt công việc tại
Nagymaros và HĐ 1977. Các quyền và nghĩa vụ sẽ được giải quyết thông
qua đàm phán. Việc đình chỉ chỉ có tính chất tạm thời.
- Trong trường hợp này Hungary đã hành động đúng khi đình
chỉa công việc tại Nagymaros trong khi chờ các giải pháp. Luật quốc tế cho
phép một quốc gia được thực hiện những hành động cần thiết để tránh các
tổn hại không thể đảo ngược đối với một lợi ích quan trọng của qúôc gia đó,
của nhân dân hay đối với môi trường.
- Nếu một quốc gia có quyền hành động trên cơ sở trình trạng
cấp thiết nhằm tránh các tổn hại không thể khắc phục được đối với một lợi
ích quan trọng thì nứơc đó cũng có quyền được hõa thực hiện bất kỷ nghĩa
vụ nào trong lúc nó đàm phán để tìm ra cách tránh gây ra tình trạng cấp thiết.
b. Việc đình chỉ công việc đối với phần dự án ở
Dunakiliti và Gabcikovo cũng nhằm mục đích ngăn chặn
tác hại đến mội trường và tạo cơ hội cho hai bên thương

lượng để tìm ra giải pháp khắc phục hay điều 62 chỉnh dự
án gốc.
2. Tranh tụng của Czechoslovakia
Việc Hungary đơn phương đình chỉ, và sau đó dừng hẳn việc làm tròn nghĩa
vụ của mình đã vi phạm nghiêm trọng “Treaty 1977” (bao gồm Basic và các
Related instruments). Lý do là:
(1) Thứ nhất, nguyên tắc cơ bản có thể dễ dàng nhận thấy
trong dự án này đó chính là cùng hợp tác thực hiện. Theo điều 1 của
bản Join Contractual Plan Agreement “The joint investment shall be
carried out in conformity with the joint contractual plan " Theo
điều 4 và điều 25 khoản 16 trong bản Basic“ in respect of (a) the
content of the approved joint contractual pian. (b) The execution of
the Treaty during the construction and operation of the System of
Locks, the jointly-adopted measures and decisions of the
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 7

Government delegates, and the joint measures and decisions of the
joint agencies”. Với những thỏa thuận của hai nước rằng việc đưa ra
quyết định phải được sự tham gia của cả hai phía, Hungary phải có
nghĩa vụ thực hiện đúng những gì mình đã cam kết mà không được
lấy lí do là Hungary không chịu sự ràng buộc của CƯ Viên 1969.
Mặc dù cả Hungary và Czechoslovakia tại thời điểm 1977 vẫn chưa
phải là thành viên của Công Ước Viên 1969 và do đó không chịu sự
điều chỉnh của Công ước này nhưng trong trường hợp này, Hungary
vẫn phải tuân thủ quy tắc này như một sự tuân thủ Tập quán Quốc tế
(quy tắc Pacta sunt servanda).
(2) Thứ hai, theo điều 56 CƯ Viên 1969, một điều ước QT
không có điều khoản qui định việc chấm dứt hay từ bỏ thì sẽ không

thể là dối tượng để từ bỏ hoặc chấm dứt trừ khi nó được sự chấp
thuận của tất cả các bên thành viên hoặc việc chấm dứt từ bỏ có thể
hiển nhiên được suy ra từ bản chất của điều ước đó. Đây cũng là
một điều khoản được pháp điển hóa từ Tập quán Quốc tế và do đó,
Hungary cũng phải có nghĩa vụ thực hiện nó mặc dù không phải là
thành viên của Công ước Viên 1969 về Luật điều ước. Do đó, chiếu
theo qui phạm này, từ bản chất của điều ước cũng như dựa vào ý chỉ
của các bên (đặc biệt là Czechslovak), Treaty 1977 (bao gồm cả
Basic và Related Instruments) không thể là đối tượng của việc rút
lui hay từ bỏ. Nói cách khác, việc Hungary tuyên bố chấm dứt Hiệp
ước này ( Tuyên bố ngày 19 thnags 5 năm 1992) là không có giá trị
pháp lý.
(3) Sec cho rằng kết quả của những báo cáo do Viện Hàn
Lâm khoa hoạc Hungary đưa ra là không khách quan do không có
được những thông tin chính xác và đầy đủ. Hơn nữa, Séc cho rằng
mức độ ảnh hưởng do môi trường đó chưa thể đạt tới mức gây ra
thiệt hại đáng kể cho Hungary.
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 8

(4) Việc đình chỉ đơn phương của Hungary là không hề phù
hợp với nguyên tắc như được ấn định trong Joint contractual plan,
mà theo đó, Hungary phải tham khảo ý kiến của Czechoslovakia.
Hơn nữa, việc đình chỉ này của Hung đã gây ra những thiệt hại đối
với Czechoslovakia.
(5) Việc đình chỉ đó chỉ nên kéo dài trong một khoảng thời
gian nhất định và sau khi hai nước đã nỗ lực hòa giải mà vẫn chưa
đạt được thỏa thuận nào về việc này là do Hug không thực sự muốn
hợp tác

3. Phán quyết của tòa
Tòa cho rằng không cần thiết để quá quan tâm đến việc áp dụng hay không
Công ước viên năm 1969 về luật điều ước trong vụ này; chỉ cần quan tâm rằng
những quy định này trên thực tế đã xảy ra một vài lần và điều này theo như trong
Công ước Viên 1969 thì được xem xét như sự thiết lập một sự tồn tại của luật tập
quán. Những quy định của công ước viên 1969 về việc từ bỏ và đình chỉ việc thực
hiện điều ước nằm từ điều 60 đến 62. Tòa đã nhắc tới việc áp dụng công ước viên
1969 trong bất cứ sự kiện nào phù hợp với Nghị định thư ngày 06/02/1989 về việc
đẩy nhanh dự án; mà nhờ đó Hungary và Séc đã đồng ý để thúc đẩy tiến trình công
việc liên quan đến dự án Gabcikovo và Nagymaros.
Tòa cũng không cần phải quá quan tâm đến vấn đề mối quan hệ giữa luật
điều ước và luật trách nhiệm quốc gia, liên quan đến những tranh cãi dai dẳng giữa
các bên về vấn đề này; vì phạm vi của hai nhánh luật quốc tế này đã được phân biệt
rõ ràng. Luật điều ước quy định việc liệu một điều ước có còn hiệu lực hay không;
trong khi đó luật trách nhiệm quốc gia lại điều chỉnh phạm vi của việc đình chỉ và
từ bỏ điều ước liên quan đến trách nhiệm của các quốc gia gây ra điều này.
Tòa không thể chấp nhận hiệu lực của lập luận của Hungary năm 1989 về
việc đình chỉ và sau đó từ bỏ những công việc mà Hungary có trách nhiệm ở
Nagymaros và Dunalikiti, bản thân Hungary đã không đình chỉ việc áp dụng điều
ước 1977 và sau đó từ chối điều ước này. Hành vi của Hungary vào thời điểm đó
chỉ có thể được giải thích như một sự không sẵn sàng tuân theo ít nhất một vài
những quy định của điều ước 1977 và Nghị định thư ngày 06/02/1989, như đã được
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 9

vạch rõ trong “the Joint Contractual Plan”. Ảnh hưởng của hành vi đó của Hungary
đã khiến cho hệ thống công việc không thể được thực hiện như được quy định trong
điều ước như là một hệ thống ‘đơn nhất” – ‘single and indivisible”.
Sau đó tòa xem xét vấn đề vào năm 1989 liệu có tồn tại một tình trạng cấp

thiết nào cho phép Hungary đình chỉ và sau đó từ bỏ những công việc Hungary đã
cam kết thực hiện phù hợp với điều ước năm 1977 và những văn kiện liên quan; mà
không chịu trách nhiệm quốc tế hay không.
Tòa cho rằng, trước tiên, tình trạng cấp thiết mà các quốc gia viện dẫn cho
việc làm trái với một nghĩa vụ quốc tế thì phải được công nhận bởi luật tập quán
quốc tế; hơn nữa, nó chỉ được chấp nhận trong trường hợp ngoại lệ. Dựa trên điều
33 dự thảo điều khoản về trách nhiệm quốc tế của các quốc gia bởi Ủy ban pháp
luật quốc tế ILC thì một trong những trường hợp ngoại lệ đó là do ảnh hưởng đến
lợi ích quan trọng của quốc gia - “essential interest” - nên quốc gia đó đã hành động
mâu thuẫn với những nghĩa vụ quốc tế. Tuy nhiên, lợi ích đó phải được đe dọa bởi
một “hoàn cảnh nguy hiểm nghiêm trọng và sắp xảy ra” – “grave and imminent
peril”; hành động đó phải là cách duy nhất để bảo vệ lợi ích quốc gia đó; hành động
đó phải không được ảnh hưởng một cách nghiêm trọng đến lợi ích quan trọng của
quốc gia mà nghĩa vụ đó hướng đến; và quốc gia thực hiện hành vi đó phải không
phải là đối tượng tạo ra sự xuất hiện của tình trạng cấp thiết đó”. Những điều kiện
này phản ánh luật tập quán quốc tế.
Tòa án không gặp khó khăn gì trong việc nhìn nhận rằng những vấn đề liên
quan được Hungary cáo buộc về môi trường tự nhiên trong khu vực bị ảnh hưởng
bởi dự án Gabcikovo – Nagymaros liên quan đến lợi ích quan trọng của quốc gia
này.
Tuy nhiên, nhìn nhận từ cả hai phía Gabcikovo và Nagymaros thì hoàn cảnh
nguy hiểm mà Hungary đưa ra vào năm 1989 mà không xem xét trước tính nghiêm
trọng có thể của chúng, đã không được thiết lập một cách đầy đủ thích đáng, và
chúng cũng không sắp xảy ra; và do đó tại thời điểm đó, Hungary có biện pháp phù
hợp để đối phó với những mối nguy hiểm có thể thấy trước đó trừ việc đình chỉ và
từ bỏ những công việc mà mình đã được giao phó. Hơn nữa, những cuộc đàm phán
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 10


đang được thực hiện vào lúc đó có thể dẫn đến việc xem lại dự án và sự gia hạn thời
gian, mà không cần phải từ bỏ nó.
Hơn nữa, tòa cho rằng khi quyết định thông qua Điều ước 1977, Hungary đã
ý thức được tình huống sau này; và các nước phải ý thức được việc cần thiết phải
bảo vệ môi trường. Tòa luận ra rằng trong vụ này cho dù có hình thành một tình
trạng cấp thiết liên quan đến việc thực hiện Điều ước 1977 thì Hungary cũng không
được phép dựa vào tình trạng đó để bào chữa cho việc không tuân theo những nghĩa
vụ điều ước của mình, vì Hungary đã giúp bằng hành động hay sự bỏ sót để làm cho
nó xảy ra.
Dựa trên nhũng kết luận trên, tòa nhận thấy rằng Hungary không có quyền
đình chỉ và sau đó từ bỏ vào năm 1989 những công việc của dự án Nagymaros và
một phần dự án Gabcikovo mà trách nhiệm của nó đã được quy định ở điều ước
1977 và các văn kiện liên quan.
II. Sửa đổi điều ước
1. Tranh tụng của Czechoslovakia
Việc áp dụng Variant C là phù hợp và là hành động cần thiết trong trường
hợp này
1.1 Mục đích của Variant C
Tiếp tục thực hiện đúng những nghĩa vụ của hung như đã cam kết trong
Treaty 1977.
Hạn chế hiệu quả những thiệt hại gây ra do sự đình chỉ và hành động đơn
phương chấm dứt hiệp định của Hungary. Nhưng thiệt hại đó bao gồm:
Thiệt hại về tài chính (Czechoslovakia đã sử dụng rất nhiều tiền bạc vào dự
án này
Ảnh hưởng tới khả năng thủy lợi (khả năng ngăn ngừa lũ lụt) ở khu vực sông
này
Ảnh hưởng tới khả năng về hàng hải (Navigation capacity)
Thiệt hại về khả năng khai thắc năng lượng thủy điện
Thiệt hại về môi trường (xói mòn đất,…)
Nguy cơ về sự xuống cấp nghiêm trọng của dự án đang dở dang.

Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 11

Do đó, việc đình chỉ chấm dứt dự án sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi
ích kinh tế, môi trường và rất nhiều lợi ích khác của Sec Cần phải tìm một
phương án thay thế
1.2 Tại sao lại lựa chọn Variant C?
Sec khi lựa chọn phương án thay thế có “care” tới ý kiến của Hungary hay
không? Trên thực tế, Sec đã rất nhiều lần đề nghị với Hung để bàn bạc vấn đề
phương án thay thế. Tuy nhiên, Hung đã phớt lờ và không chịu hợp tác
Variant C được lựa chọn vì nó đáp ứng 2 điều kiện:
Thứ nhất, nó giải quyết được những vấn đề mà Sec đang quan tâm (giúp
giảm thiệt hại cho Sec đồng thời giúp Sec thực hiện đúng Treat 1977)
Thứ hai, nó là phương án thay thế gần với Treat 1977 nhất.
 Czechoslovakia khẳng định việc Czechslovakch áp dụng Variant C là phù
hợp với nội dung cũng như mục đích của Treaty 1977 và phù hợp với qui tắc của
Luật quốc tế. Hơn nữa, đó cũng là phương án tương tự có thể thay thế phương án cũ
duy nhất có thể áp dụng nhằm tiếp tục thực hiện những nghĩa vụ đã qui định trong
điều ước trên.
2. Tranh tụng của Hungary
Sự phủ nhận HĐ thông qua việc thực hiện và vận hành kế hoạch Variant C
(Repudiation through implementation and operation of Variant C)
- Việc thực hiện Variant C được xem là vi phạm Hiệp định1977,
đặc biệc là điều 19 khi gây ra các thiệt hại môi trường cho khu vực
Szigetkoz.
- Variant C do Slovakia, là một thành viên của CHLB Czech and
Slovak, thực hiện trong khi tại thời điểm đó trách nhiệm pháp lý vẫn còn
thuộc về nhà nước liên bang. Do đó, thông qua Variant C Slovakia đã phủ
nhận Hiệp định 1977.

3. Phán quyết của tòa
Tòa cho rằng không cần thiết để quyết định xem liệu có tồn tại một
nguyên tắc của luật quốc tế hay một nguyên tắc chung của luật về việc “áp
dụng gần đúng” – “a general principle of law of approximate application”,
bởi vì cho dù một nguyên tắc như thế có tồn tại đi chăng nữa thì nó chỉ có thể
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 12

được viện dẫn trong phạm vi giới hạn của điều ước về vấn đề này. Vì thế tòa
cho rằng Variant C không đáp ứng được điều kiện quan trọng đó liên quan
đến Điều ước 1977.
Theo điều 1 của Điều ước 1977, tòa cho rằng việc xây dựng
Gabcikovo – Nagymaros System of Locks là một hệ thống những công việc
được vận hành đơn nhất – a single and indivisible operational system of
works. Điều 8 và điều 10 của điều ước cũng phản ánh yếu tố này. Điều ước
này quy định việc sở hữu chung những công việc quan trọng nhất của dự án
Gabcikovo – Nagymaros và việc vận hành những tài sản chung như một đơn
vị hợp tác đơn nhất. Với việc định nghĩa tất cả những điều trên như thế thì dự
án này có thể không được tiến hành bằng hành động đơn phương. Thay vì
đưa ra một giải pháp thay thế tương tự với dự án ban gốc về mặt vật lý bên
ngoài, Variant C do đó khác biệt hoàn toàn so với dự án gốc về mặt pháp lý.
Theo đó tòa kết luận rằng việc Cộng hòa Séc đưa Variant C vào hoạt động là
không áp dụng điều ước 1977; nhưng mặt khác lại vi phạm những quy định
riêng biệt nhất định và do đó tạo ra một hành động vi phạm luật quốc tế.
Hơn nữa, trên thực tế, việc vận hành Variant C làm cho
Czechoslovakia chiếm đoạt khoảng 80 đến 90% lượng nước sông Danube
trước khi chuyển nguồn nước về dòng chính, bất chấp thực tế là sông
Danube không chỉ là nguồn nguồn nước quốc tế chia sẻ chung mà còn là một
đường biên giới quốc tế. Czechoslovakia biện minh rằng bản chất của

Variant C không khác so với những gì mà Hungary đã đồng ý và chỉ là sự
thay đổi được đưa ra mà đã trở nên cần thiết bởi hiệu lực của quyết định của
Hungary đối với việc không thực hiện những nghĩa vụ điều ước của mình.
Đúng là theo điều ước 1977, Hungary đã đồng ý ngăn nước sông Danube và
làm lệch hướng chảy của sông sang vòng qua con kênh. Nhưng điều đó là chỉ
trong trường hợp vận hành chung và cùng chia sẻ những lợi ích của nó mà
Hungary đã đồng ý. Việc đình chỉ và rút khỏi điều ước đã thiết lập sự vi
phạm những nghĩa vụ hợp pháp của Hungary được chứng minh bởi việc từ
chối vận hành chung của Hungary. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 13

Hungary bị tước đi những quyền lợi cơ bản của nó đối với việc chia sẻ hợp lý
đối với nguồn nước quốc tế chung.
Tòa án lưu ý rằng giữ tháng 11/1991 và tháng 10/1992, Séc đã tự ràng
buộc với việc thực hiện những công việc được thực hiện ở trên lãnh thổ của
mình; những công việc này là cần thiết đối với việc thực hiện Variant C,
nhưng nếu hai bên đã đạt được một sự đồng ý thì việc sử dụng biện pháp
thay thế có lẽ sẽ không được thực hiện; và vì vậy đã không định trước được
quyết định cuối cùng. Vì chỉ cần đập Danube không được chứa nước một
cách đơn phương thì thực tế là Variant C không được áp dụng. Một tình
huống như vậy không phải là không bình thường trong luật quốc tế hay trong
nội luật. Việc làm sai và vi phạm thì thường được thể hiện trước bởi những
hành động bước đầu mà không thể bị lẫn lộn với chính hành động và sự vi
phạm. Nó cũng là để phân biệt giữa sự can phạm thật sự của một hành động
sai phạm với hành vi sai phạm chỉ mới chỉ mới ở dạng khả năng.
Slovakia cũng lập luận rằng họ đang thực hiện một nhiệm vụ nhằm
làm giảm nhẹ những sự thiệt hại khi cho vận hành Variant C. Slovakia tuyên
bố rằng một nguyên tắc chung của luật quốc tế là một bên bị thiệt hại bởi

việc không hoàn thành nhiện vụ của bên đối tác khác thì phải tìm kiếm giải
pháp để giảm nhẹ những thiệt hại mà anh ta phải gánh chịu. “It is a general
principle of international law that a party injured by the non – performance
of another contract party must seek to mitigate the damage he has
sustained”. Nhưng tòa cho rằng trong khi nguyên tắc này có thể cung cấp
một nền tảng cho việc tính toán những thiệt hại, nhưng mặt khác nó không
thể biện minh cho một hành động sai phạm. Hơn nữa Tòa án cho rằng việc
làm lệch đi hướng chảy của sông Danube do Cộng hòa Séc gây ra không
phải là một biện pháp trã đủa đũa hợp pháp bởi vì nó không tương xứng; bởi
vì Séc tuyên bố Variant C có thể được xem là một biện pháp trả đũa hợp lý
đối với hành động phi pháp của Hungary. "Variant C could be presented as a
justified countermeasure to Hungary's illegal acts". Tòa cho rằng, để được
coi là hợp lý thì hành động trả đũa đó phải đáp ứng những điều kiện nhất
định. Thứ nhất, nó phải được thực hiện nhằm đáp trả lại một hành động vi
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 14

phạm luật quốc tế trước đó của một quốc gia khác và phải trực tiếp chống lại
quốc gia đó. Ở đây có thể thấy là việc thực hiện Variant C là phản ứng của
Czechoslovakia đối với việc Hungary đình chỉ và sau đó chấm dứt những
công việc mà được quy định đối với Hungary, và điều này trực tiếp chống lại
quốc gia đó; và tòa cũng thấy rõ rằng hành động của Hungary là phạm luật.
Thứ hai, nước bị tổn thương phải kêu gọi nước kia chấm dứt việc làm sai luật
và bồi thường cho những tổn thương đó; cũng rõ rành rằng Czechoslovakia
đã yêu cầu Hungary khôi phục lại việc thực hiện những nghĩa vụ điều ước
của Hungary trong nhiều dịp. Theo tòa, vấn đề quan trọng là phải xem xét
những ảnh hưởng của hành động trả đũa có tương xứng với những tổn
thương mà nước đó gánh chịu, kể đến những quyền lợi trong vấn đề này.
Năm 1929, Pháp viện quốc tế thường trực, liên quan đến vấn đề hàng hải trên

sông đã tuyên bố rằng:
"[the] community of interest in a navigable river becomes the basis of
a common legal right, the essential features of which are the perfect equality
of al1 riparian States in the user of the whole course of the river and the
exclusion of any preferential privilege of any one riparian State in relation to
the others" (Territorial Jurisdiction of the International Commission of the
River Oder, Judgment No. 16, 1929, P. C. I. J., Series A, No. 23, p. 27).”
Tòa cho rằng việc Czechoslovakia đơn phương chiếm lấy nguồn nước
sử dụng chung, và do đó đã lấy đi quyền lợi chia sẻ hợp lý nguồn nước sử
dụng chung với những ảnh hưởng liên tục của việc làm lệch hướng dòng
nước này đối với môi trường sinh thái khu vực ven sông Szigetkoz. Do đó
việc thực hiện VC là không tôn trọng tính tương xứng mà luật quốc tế yêu
cầu. Hơn nữa, việc Hungary đình chỉ những công việc theo nghĩa vụ của
Hungary không có nghĩa là no strao quyền cho Czechoslovakia đơn phương
tiến hành việc chuyển dòng quan trọng này mà không có sự đồng ý của
Hungary. Vì vậy, tòa phán rằng việc tách dòng sông Danube được tiến hành
bởi Czechoslovakia không phải là một hành động trả đũa hợp pháp, bởi vì nó
không hợp pháp.
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 15

Dựa vào những điều kết luận ở trên, Tòa phán rằng Cộng hòa Séc có
quyền tiến hành xây dựng Vaariant C vào tháng 11/1991, nhưng lại không
được quyền đưa Variant C vào vận hành từ tháng 10/1992.
III. Chấm dứt điều ước
1. Tranh tụng của Hungary
1.1 Tính trạng cấp thiết - State of necessity
1.1.1 Tính chất quan trọng của các lợi ích liên quan
(“Essential” character of the Interest involved). Hungary đưa ra

2 điểm sau:
- Hoạt động của hệ thống đập theo HĐ 1977 và sau đó việc đơn
phương thực hiện Variant C tạo ra mối đe dọa kinh tế và môi trường đối với
dân cư. Thứ nhất là tổn hại nghiêm trọng đối với nền nông nghiệp của
Hungary và khu vực do việc hoạt động của hệ thống đập và đe dọa cuộc sống
của các cư dân nông nghiệp ở đây.
- Các tác động nghiêm trọng trong tương lai có thể được nhìn
thấy trước như là kết quả của sự ô nhiễm nguồn nước mặt và gần mặt đất,
nguồn cung cấp nước uống cho hàng triệu người ở cả hai bên biên giới.
Thảm hoạ này đã liên tục được Hungary đưa ra thảo luận với Czechoslovakia
trong giai đoạn trước khi có thông báo hủy bỏ HĐ 1977.
- Ví dụ tầng đá Sziggetkoz là nguồn nước ngầm lớn nhất
ở Trung Âu chứa 12km3 nước, trong đó 5km3 nước thuộc lãnh thổ
Hungary. Trong Hội nghị các chuyên gia Hungary-Czechoslovakia về
sinh thái, thủy văn, địa chất, động đất, thổ nhưỡng và hoạt động sản
xuất nông nghiệp diễn ra vào 17-19/7/1989 tuyên bố rằng đây là lợi
ích sống còn cần phải được bảo vệ. Đây là nguồn cung cấp nước cho
3 triệu người (trong dài hạn là 5 triệu) ở Hungary và 5 triệu người ở
Czechoslovakia.” “It is of vital interest to keep undisturbed water
supply from Danube terrace concerned. This is the water supply for 3
million (or, in long-run, 5 million) people in Hungary and 5 million
people in Czechoslovakia.”
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 16

- Hoạt động của hệ thống đập nước theo HĐ 1977 và Variant C
tạo ra nguy cơ đe dọa đối với nguồn nước ngầm này. Điều này được các
chuyên gia đáng tin cậy trong nước và quốc tế công nhận.
- Lợi ích quan trọng thứ hai của Hungary là việc bảo vệ môi

trường tự nhiên của nước này. Tác động sinh thái nghiêm trọng của việc thực
thi HĐ 1977 và Variant C là việc suy giảm lượng nước ở dòng chính của
sông Danube là nơi cung cấp nước cho hệ thống thủy lợi của cả vùng
Szigetkoz. Hậu quả không thể tránh từ những kế hoạch mạo hiểm này bao
gồm việc suy giảm lưu lượng nước, sự thay đổi trong mực nước ngầm, sự gia
tăng bồi lắng, tạo nên các khu vực ngập nước,…
- Trong khi xem xét sự cần thiết sống còn, một quốc gia phải bảo
vệ cuộc sống của nhân dân nước đó. Quy tắc truyền thống này của công pháp
quốc tế cần được giải thích bao gồm cả các quyền đối với môi trường.
1.1.2 Mối đe dọa sắp xảy ra (The Imminent nature of
the peril)
- Điều kiện thứ hai theo quy định của luật tập quán quốc tế là
mối đe doạ sắp xảy ra cũng được thỏa mãn trong vụ việc này.
- Các sự kiện diễn ra sau khi bắt đầu đưa vào vận hành hoạt
động của kế hoạch Variant C, tác động tiêu cực lớn ngay lập tức xảy ra đặc
biệt là cho nguồn nước ngầm, nước uống, rừng, ngư nghiệp, nông nghiệp,
phong cảnh, và các giá trị giải trí của một trong những vùng nổi tiếng nhất
của Danube, mà phần lớn nằm trên lãnh thổ của Hungary.
- Hoạt động của kế hoạch Variant C và việc thực thi Dự án gốc
không thể tách biệt trong khi xem xét đến tác động tiêu cực đối với nước
ngầm và nước uống. Sự vận hành theo kế hoạch Variant C đã đe dọa biến
thành sự thật các mối nguy cơ môi trường mà trong nhiều năm Hungary đã
cố gắng tránh bằng đề nghị mở các cuộc thương lượng quan trọng.
- Hơn nữa, Variant C tạo nên các thiệt hại tương tự như việc vận
hành Dự án gốc.
- Nguy cơ bắt đầu rõ ràng từ đầu năm 1992 khi Czechoslovakia
từ chối xem xét bất kỳ đề nghị trì hoãn kế hoạch xây dựng. Trong thời gian
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 17


dài nhất có thể, Hungary đã cố gắng tìm kiếm sự đồng thuận của nước đó
nhưng không đạt được kết quả. Ngược lại Czechoslovakia lại quyết định thực
thi Variant C.
- Khi Hungary quyết định hủy bỏ HĐ 1977 vào tháng 5/1992,
mối nguy cơ đã rõ ràng sắp xảy ra khi ngày 23/4/1992, Thủ ttướng
Czechoslovakia trong một bức thư đã thông báo việc đơn phương chuyển
dòng Danube vào tháng 10/1992. Trong trường hợp đó, Hungary phải nhanh
chống tìm giải pháp để chóng lại hành động đơn phương đó. Khả năng pháp
lý duy nhất có thể có là hủy bỏ HĐ 1977.
1.1.3 Quyết định của Hungary là không thể tránh được
(The unavoidable character of the Hungarian decision)
- Điều kiện thứ ba của luật tập quán quốc tế là quyết định được
đưa ra có tính chất không thể tránh. Hungary đã cung cấp cho đối tác các dữ
liệu liên quan đến tác động tổn hại trong dài hạn và ngay lập tức của HĐ
1977. Hungary chỉ tiến hành các cuộc thảo luận quan trọng trong khi
Czechoslovakia lại đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống đập. Cuối cùng, quyết
định đưa vào vận hành kế hoạch Variant C, một trong những vi phạm các
nghĩa vụ trong HĐ giữa hai bên, đã thuyết phục Hungary rằng việc tìm kiếm
các giải pháp bền vững thông qua việc xem xét lại HĐ1977 là vô vọng.
- Do sự cố chấp của Czechoslovakia, cách giải quyết cuối cùng
còn lại đối với Hungary để tránh các thiệt hại lớn hơn trong tương dẫn đến 2
vấn đề: 1) việc hủy bỏ HĐ 1977; 2) bắt đầu một tiến trình thủ tục tư pháp
nhằm giải quyết hòa bình tranh chấp.
1.1.4 Các điều kiện khác
- Hungary đã không gây ra tình trạng cần thiết.
- Hungary không gây thiệt hại cho lợi ích quan trọng của
Czechoslovakia mà ngược lại đã thông báo với nước đó về những nguy cơ
đối với môi trường sinh thái của khu vực và sức khỏe của dân cư hai nước cả
hai bờ sông.

- Hành động của Hungary nhằm tránh các tổn hại môi trường
cho dân cư hiện tại và cho những thế hệ sau. Quyền con người mới về môi
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 18

trường xác định quyền của mỗi thế hệ được hưởng lợi và phát triển tài sản
văn hóa và tự nhiên theo phương thức mà nó có thể được chuyển giao cho
thế hệ kế tiếp.
- Hungary xem sông Danube như một nguồn tài nguyên thiên
nhiên không chỉ của người Hungary mà cho cả các quốc gia khác, cho nên
việc hủy bỏ HĐ 1977 là hành động nhằm bảo vệ môi trường của cả khu vực.
1.2 Việc không thể thực hiện Điều ước (Impossibility of
performance)
- Cơ sở thứ hai đề Hungary hủy bỏ HĐ 1977 là việc không thể
thực hiện HĐ. Tuyên bố ngày 16/5/1992 dựa trên nguyên tắc “ad
impossibilia nemo tenatur maxima” và tuyên bố rằng Hungary không bị ràng
buộc phải thực hiện các nhiệm vụ bất khả thi, ở đây là việc xây dựng hệ
thống đập nước trên phần lãnh thổ của nó, vì điểu này có thể dẫn đến những
tác hại cho môi trường không thể khắc phục được.
- Điều 61 của VCLT quy định việc hủy bỏ điều ước khi xảy ra
tình trạng việc không thể thực hiện điều ước. Và tuy rằng, VCLT chưa có
hiệu lực khi HĐ 1977 được ký kết nhưng ICJ xét rằng một số điều trong
VCLT chỉ là việc pháp điển hoá các quy định tập quán quốc tế đã tồn tại
trước đó.
- Điều 61 quy định 2 điều kiện để hủy bỏ một điều ước quốc tế,
trong vụ việc này là:
1.2.1 Đối tượng quan trọng gắn liền với việc thực hiện
HĐ không còn tồn tại (Disappearance of an Object
indispensable for the execution of the treaty)

Art. 61(1): A party may invoke the impossibility of performing
a treaty as a ground for terminating or withdrawing from it if the
impossibility results from the permanent disappearance or destruction
of an object indispensable for the execution of the treaty. If the
impossibility is temporary, it may be invoked only as a ground for
suspending the operation of the treaty.
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 19

- Trong HĐ 1977, đối tượng của HĐ: 1) hệ thống đập ngăn hoạt
động an toàn trên lãnh thổ của nước liên quan, ví dụ như hệ thống không gây
ra các tác hại môi trường không thể khắc phục được; 2) sự đồng-quản-lý giữa
các bên trong một dự án mà cả hai bên đầu tư đều có lợi. Theo sự nhận thức
các quy định về môi trường sau này, đối tượng thứ nhất - hệ thống đập ngăn
an toàn với môi trường – rõ rằng đã không đạt được. Do một loạt các sự kiện
dẫn đến việc thực hiện Variant C, đối tượng của việc đồng-đầu-tư cùng
hưởng lợi đã trở nên bất khả thi. Cả hai diễn biến trên đã cho thấy tình trạng
bất khả thi theo nghĩa của Art. 61 trong VCLT hay các luật tập quán tương
ứng.
1.2.2 Sự biến mất này không phải do kết quả từ việc vi
phạm các nghĩa vụ quốc tế của Hungary (The disappearance
was not the result of a breach of the international obligations of
Hungary)
Art. 61(2): Impossibility of performance may not be invoked by a party as
a ground for terminating, withdrawing from or suspending the operation of a
treaty if the impossibility is the result of a breach by that party either of an
obligation under the treaty or of any other international obligation owed to any
other party to the treaty.
- Việc thực hiện Variant C của Czechoslovakia là một sự vi

phạm đối với HĐ 1977 và do đó, Hungary có quyền dựa và quy định về việc
không thể thực hiện điều ước để hủy bỏ HĐ 1977.
1.3 Sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh (Fundamental
change of circumstances)
Sự thay đổi cơ bản trong hoàn cảnh là cơ sở thứ ba pháp lý của Hungary.
1.3.1 Sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh là cơ sở cho
việc hủy bỏ các điều ước
Quy định này liên quan là điều 62 VCLT 1969:
Article 62
Fundamental change of circumstances
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 20

1. A fundamental change of circumstances which has occurred with
regard to those existing at the time of the conclusion of a treaty, and which
was not foreseen by the parties, may not be invoked as a ground for
terminating or withdrawing from the treaty unless:
(a) the existence of those circumstances constituted an essential basis
of the consent of the parties to be bound by the treaty; and
(b) the effect of the change is radically to transform the extent of
obligations still to be performed under the treaty.
2. A fundamental change of circumstances may not be invoked as a
ground for terminating or withdrawing from a treaty:
(a) if the treaty establishes a boundary; or
(b) if the fundamental change is the result of a breach by the party
invoking it either of an obligation under the treaty or of any other
international obligation owed to any other party to the treaty.
3. If, under the foregoing paragraphs, a party may invoke a
fundamental change of circumstances as a ground for terminating or

withdrawing from a treaty it may also invoke the change as a ground for
suspending the operation of the treaty.
1.3.2 Sự thay đổi quan trọng trong hoàn cảnh trong vụ
việc này
i. Các nhân tố quan trọng
- HĐ 1977 thể hiện các mục đính sau:
o Là phương tiện để “hội nhập xã hội chủ nghĩa” thông
qua COMECON;
o Tạo một hệ thống hoạt động thống nhất, kết nối các
phần ở thượng nguồn và hạ lưu thành một hệ thống sản xuất địên;
o Là sự đồng-đầu-tư;
o Là một thỏa thuận khung cần thiết việc tái xem xét để
phù hợp với các hoạt động lập kế hoạch, khám phá và nghiên cứu;
o Là một thỏa thuận phù hợp với việc bảo vệ môi trường.
- Tuy vậy, đến năm 1992, hoàn cảnh đã thay đổi như sau:
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 21

o Ý tưởng về sự “hội nhập xã hội chủ nghĩa” đã biến mất
cùng với việc COMECON tự giải tán. Liên Xô đã không cung cấp các
thiết bị như đã cam kết cho Dự án dựa trên thỏa thuận về “tín dụng
mềm” được áp dụng bên trong khối COMECON.
o Hệ thống hoạt dộng đơn nhất không còn tồn tại, với việc
đình chỉ công việc tại đập nước Nagymaros vì những quan ngại về
môi trường; đập nước ở Gabcíkovo chỉ được xây dựng đơn phương và
không phù hợp với những quy định của HĐ 1977.
o Dự án đầu-tư-chung không mang lại lợi ích cho hai bên
mà được xem như là một “sai lầm đầu tư khổng lồ” theo lời của Thủ
tướng Németh. Từ khi ký kết HĐ 1977, các tiêu chí kinh tế của dự đã

mất dần giá trị. Công nghệ mới (ví dụ như sản xuất định bằng turbine
khí) đã giảm chi phí sản xuất điện. Cả hai nước đang trải qua thời kỳ
khó khăn trong chuyển đổi nền kinh tế.
o HĐ 1977 được ký kết với triển vọng trở thành một hiệp
định khung, cần được xem xét lại cùng với những nghiên cứu, khám
phá và hoạt động kế hoạch, đã trở thành một HĐ không thể thay đổi
theo phía Czechoslovakia.
o HĐ yêu cầu phải phù hơp với việc bảo vệ môi trường,
theo phía Hungary, đã trở thành công thức cho một thảm họa môi
trường.
ii. Sự thay đổi hoàn cảnh không phải gây ra
bởi việc Hungary vi phạm các nghĩa vụ quốc tế
- Theo điều 62(2), loại trừ 2 trường hợp mà các bên không thể
viện dẫn sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh để hủy bỏ một điều ước: 1) điều
ước là một thỏa thuận về biên giới; 2) sự thay đổi là kết quả của việc vi phạm
điều ước của bên đưa ra viện dẫn ra sự thay đổi đó.
- HĐ 1977 không phải là một hiệp định về biên giới.
- Năm sự thay đổi cơ bản được nêu lên ở trên không phải gây ra
bởi một quốc gia nào. Các thay đổi trong đời sống chinh trị, kinh tế của khu
vực là một tiến trình xã hội lâu dài. Sự thay đổi cơ bản hoàn cảnh không phải
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 22

là kết quả của việc Hungary vi phạm các nghĩa vụ quốc tế đối với
Czechoslovakia.
1.3.3 Kết luận
- Hungary có quyền viện dẫn sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh
để hủy bỏ HĐ 1977.
1.4 Việc vi phạm HĐ 1976 và HĐ 1977, cụ thể thông qua

việc xây dựng kế hoạch variant C (The breach of the Treaty 1976
and 1977, inparticular through construction Variant C)
- Điều 60 của VCLT quy định về việc các bên có quyền việc dẫn
sự vi phạm của một bên tham gia để hủy bỏ hay đình chỉ điều ước quốc tế.
Article 60
Termination or suspension of the operation of a treaty as a
consequence of its breach
1. A material breach of a bilateral treaty by one of the parties
entitles the other to invoke the breach as a ground for terminating the
treaty or suspending its operation in whole or in part.
3. A material breach of a treaty, for the purposes of this article,
consists in:
(a) a repudiation of the treaty not sanctioned by the present
Convention; or
(b) the violation of a provision essential to the accomplishment
of the object or purpose of the treaty.
- Trong vụ này, Czechoslovakia đã và liên tục vi phạm các nghĩa
vụ về bảo vệ nguồn nước và môi trường theo quy định ở điều 15 và 19 của
HĐ 1977. Cụ thể là: nước này đã không điều chỉ kế hoạch xây dựng hệ thống
đập ngăn để đảm bảo chất lượng nguồn nước không bị tác động và môi
trường được bảo vệ.
Article 15. Protection of water quality
1. The Contracting Parties shall ensure, by the means specified
in the joint contractual plan, that the quality of the water in the
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 23

Danube is not impaired as a result of the construction and operation
of the System of Locks.

2. The monitoring of water quality in conneçtion with the
construction and operation of the System of Locks shall be carried out
on the basis of the agreements on frontier waters in force between the
Governments of the Contracting Parties.
Article 19. Protection of nature
The Contracting Parties shall, through the means specified in
the joint contractualplan, ensure cornpliance with the obligations for
the protection of nature arising in connection with the construction
and operation of the System of Locks.
- Quyết định tiến hành kế hoạch Variant C là một hành động vi
phạm nghiêm trọng HĐ 1977, và là một ví dụ rõ ràng cho việc phủ nhận điều
ước được quy định ở điều 60(3)(a) trong VCLT.
Art. 60(3): A material breach of a treaty, for the purposes of this
article, consists in:
(a) a repudiation of the treaty not sanctioned by the present
Convention; or
(b) the violation of a provision essential to the accomplishment of the
object or purpose of the treaty.
- Hungary, do đó, có quyền viện dẫn sự vi phạm này để hủy bỏ
HĐ 1977 một khi Czechoslovakia rõ ràng không dình chỉ việc thực hiện kế
hoạch Variant C hay không sửa HĐ 1977 cho phù hợp với các tiêu chuẩn bảo
vệ môi trường đầy đủ.
1.5 Mâu thuẫn với các nghĩa vụ sau này của các nguyên tắc
của luật quốc tế (Conflict with subsequent obligations under
general international law)
- Cở sở thứ 6 cho hành động của Hungary là việc các yêu cầu
của luật quốc tế xuất hiện sau này liên quan đến bảo vệ môi trường đã ngăn
cản thực hiện HĐ 1977. Đây cũng là một nhân tố góp phần tạo nên sự thay
đổi cơ bản của hoàn cảnh.
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009


Nhóm thuyết trình 5 Page 24

- Hungary viện dẫn Nguyên tắc Stockholm 21 theo đó các quốc
gia có nghĩa vụ không được gây ra các tổn hại lớn đối với lãnh thỗ của quốc
gia khác, hay khu vực bên ngoài thẩm quyền tài phán quốc gia.
Principle 21
States have, in accordance with the Charter of the United
Nations and the principles of international law, the sovereign right to
exploit their own resources pursuant to their own environmental
policies, and the responsibility to ensure that activities within their
jurisdiction or control do not cause damage to the environment of
other States or of areas beyond the limits of national jurisdiction.
(Declaration of the United Nations Conference on the Human
Environment, Stockholm, 1972).
- Hungary cho rằng HĐ 1977 không loại trừ việc áp dụng các
quy định luật quốc tế chung xuất hiện sau này, và các nghĩa vụ theo điều 15,
19 có thể được giải thích phù hợp với sự phát triển của luật quốc tế chung.
Và nước này có quyền giải thích điều ước như thế.
1.6 Thủ tục hủy bỏ HĐ 1977 của Hungary (The procedure
adopted by Hungary in terminating the 1977 Treaty)
- Việc hủy bỏ một điều ước không thể diễn ra một cách tự động
mà cần nước thành viên nêu ra các cơ sở pháp lý để hủy bỏ; Hungary đã nêu
ra trong Tuyên bố ngày 16/5/1992.
- Theo điều 65-67, VCLT, yêu cầu quốc gia (1) thông báo cho
bên kia tuyên bố của nó hay hay dự định hủy bỏ hay đình chỉ điều ước của
nó; (2) trừ trường hợp đặc biệt khẩn cấp, phải thông báo trước đó 3 tháng; (3)
trong trường hợp bên kia phản đối việc hủy bỏ điều ước, quốc gia phải tìm
các giải pháp thông qua các phương tiện được nêu ra trong điều 33 của Hiến
chương LHQ; (4) thông báo cho các bên khác bằng một văn bản được ký bởi

nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ, bộ trưởng ngoại giao hay
một cá nhân khác có thẩm quyền.
- Theo đó, từ cuối năm 1991 cho đến đầu năm 1992, Hungary đã
đưa ra hàng loạt cảnh báo nếu công việc liên quan đến kế hoạch Variant C
Nguồn của Luật quốc tế – Case: Gabcikovo – Nagymaros – Date: 23/02/2009

Nhóm thuyết trình 5 Page 25

không bị đình chỉ, nước này bắt buộc phải xem xét hủy bỏ HĐ 1977. Thông
báo cuối cùng của Hungary thực hiện 5 tháng trước khi phát đi Tuyên bố hủy
bỏ HĐ 1977 ngày 16/5/1992 ký bởi Thủ tướng và được chuyển đến bên liên
quan thông qua đường ngoại giao.
1.7 Hủy bỏ HĐ do sự biến mất của một bên tham gia
(Termination of the Treaty through the disappearance of one of
the parties)
- Trong trường hợp, HĐ 1977 vẫn có hiệu dù cho có tuyên bố
hủy bỏ nó của Hungary và việc thực hiện đơn phương Variant C, HĐ 1977
cũng chấm dứt hiệu lực vì Czechoslovakia không còn tồn tại từ ngày
31/12/1992.
- Một thỏa thuận song phương không thể tồn tại nếu một bên
tham gia biến mất trừ phi có một quốc gia thừa kế nó thông qua hoặc là áp
dụng luật thừa kế quốc gia hoặc bằng một thỏa thuận giữa quốc gia với lại
bên còn lại. Trong trường hợp này, CH Czech đã từ bỏ vai trò thành viên của
HĐ 1977, CH Slovakia đang tìm kiếm một thỏa thuận song phương với
hungary nhưng chưa đạt được kết quả nào. Dù cho thỏa thuận đặc biệt giữa
Hungary và Slovakia có ghi rằng “Slovakia là một trong 2 quốc gia thừa kế
của CHLB Czech và Slovak và là nước thừa kế duy nhất quyền và nghĩa vụ
liên quan đến dự án Gabcíkovo – Nagymaros”, thì HĐ 1977 cũng không còn
có hiệu lực vì Hungary đã huỷ bỏ nó trước đó vào tháng 5/1992.
- Không có một quy định luật quốc tế nào liên quan đến việc

thừa kế tự động của một qúôc gia đối với một điều ước song phương. việc
thừa kế điều ước phải được thực hiện thông qua một thỏa thuận của nước đó
với các bên tham gia điều ước.
2. Tranh tụng của Czechoslovakia
Mặc dù không phải là thành viên của CƯ Viên 1969, Hungary đã tích cực sử
dụng những điều khoản có trong Công Ước _Công Ước Viên 1969 có qui định từ
điều 54- điều 62 khá cụ thể, rằng một quốc gia có thể viện dẫn một số lí do nhất
định trong một số trường hợp cụ thể để chấm dứt hoặc từ bỏ điều ước_ coi đó là
Tập quán quốc tế theo hướng có lợi cho mình mà từ chối áp dụng những điều khoản

×