ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI NHÓM 3
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: BÙI VĂN MƯA
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA
LỚP: CAO HỌC CNTTQM KHÓA 6.
MÃ SỐ HỌC VIÊN: CH1101016.
Số thứ tự: 16
TPHCM ngày 08.01.2012
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời kì triết học cổ - trung đại Trung Quốc, đất nước này đã xuất hiện
nhiều nhà tư tưởng lớn và hình thành các các trường phái triết học khá hoàn
chỉnh. Trong các trường phái triết học này, Đạo gia với người sáng lập là Lão tử
có một vị trí khá quan trọng. Với quan điểm lấy đạo và đức làm nền tảng, hướng
đến tự nhiên, đạo gia đã cung cấp nhân sinh quan và nghệ thuật sống mang tính
nhân văn sâu sắc, có tác dụng an ủi con người hài lòng và hạnh phúc với những
gì mình có trong cuộc sống, đồng thời tránh những ích kỷ, tư lợi, mất đi bản tính
tự nhiên chất phát của con người.
Để tìm hiểu thêm giá trị của tư tưởng Đạo gia, đồng thời làm rõ thêm các hạn
chế của tư tưởng này, em xin được thực hiện tiểu luận với đề tài: Tư tưởng triết
học Đạo gia và những giá trị, hạn chế của nó.
Trong tiểu luận này, chúng ta sẽ tìm hiểu cơ bản về xuất xứ, lịch sử phát triển
cũng như các đại diện tiêu biểu của Đạo gia. Sau đó, em sẽ đề cập đến tư tưởng
cơ bản Đạo gia, chủ yếu dựa vào cuốn Đạo Đức Kinh của Lão tử và một phần
cuốn Nam Hoa kinh của Trang Tử. Dựa vào tư tưởng cơ bản này, chúng ta sẽ xác
nhận thêm các giá trị và ảnh hưởng của tư tưởng này đối với con người, xã hội,
chính trị, trong hoạt động nhận thức cũng như hoạc động thực tiễn ở thời đại xưa
và cả cho đến ngày nay. Đồng thời, chúng ta cũng tìm hiểu thêm một số điểm
yếu và hạn chế của tư tưởng này, về nhận thức, về tư tưởng biện chứng và trong
cả chính trị và xã hội.
Do kiến thức có hạn, tiểu luận này không tránh những sai sót, mong thầy và
các bạn đóng góp thêm. Em xin chân thành cảm ơn!
Học viên thực hiện đề tài
Nguyễn Văn Khoa
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 2
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 2
MỤC LỤC 3
1. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA 4
1.1. Lịch sử ra đời và đại diện !êu biểu của Đạo gia 4
1.2. Tư tưởng của đạo gia 5
2. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ 10
1.3. Những giá trị của Đạo gia 10
1.4. Những hạn chế của Đạo gia 12
3. KẾT LUẬN 15
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 3
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
1. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA
1.1. Lịch sử ra đời và đại diện tiêu biểu của Đạo gia
Lịch sử ra đời Đạo gia
Đạo gia là tên gọi của một trường phái triết học lớn xuất hiện từ thời cổ trung
đại Trung Hoa, lấy tên của phạm trù “Đạo”, một phạm trù trung tâm và nền tảng
của nó. Nguồn gốc tư tưởng của Đạo gia xuất phát từ những quan điểm về vũ trụ
luận, thiên địa, ngũ hành, âm dương và Kinh Dịch. Sau khi Lão Tử ra đời vào thế
kỷ thứ 6 TCN, cùng với Đạo Đức Kinh, Đạo gia dần xâm nhập vào một số nhà tư
tưởng thời bấy giờ. Đến thời của Trang Tử (thế kỷ thứ 5 TCN), ông thừa hưởng
tư tưởng của Đạo Đức Kinh và tạo ra cuốn Nam Hoa kinh. Lúc này, học thuyết
của Lão tử mới đước người đời chú ý.
Những tư tưởng của đạo gia là tiền đề cho sự hình thành Đạo giáo ở Trung
Quốc, tư tưởng này phát triển rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến cuối thời Chiến
Quốc. Sau đó, Đạo giáo đã tác động và ảnh hưởng to lớn đến tư tưởng con người
cũng như trong nhiều lĩnh vực khác trong xã hội như chính trị, kinh tế, triết học,
văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, y thuật, sinh học, hoá học, vũ thuật, địa lí… ở
Trung Quốc và một số nước trên thế giới.
Các đại diện tiêu biểu
Lão Tử là nhân vật rất có ảnh hưởng về mặt tư tưởng trong thời cổ đại Trung
Quốc. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông sống ở thế kỉ 6 TCN, tức là những
năm cuối thời Xuân Thu. Ông là người ở Khúc Lý, huyện Sở Khố, tỉnh Hà Nam.
Ông họ Lý, tên Nhĩ, tự Đam, từng làm quan giữ thư viện đời nhà Chu. Tiểu sử
của ông còn gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương truyền, trước khi
Lão Tử cưỡi trâu qua nước Tần và biến mất, ông đã nghe lời Doãn Hy viết lại
Đạo Đức Kinh. Đây là cuốn sách của Đạo giáo có ảnh hưởng lớn, chính cuốn
sách này mà ông được công nhận là Khai tổ của Đạo giáo (Đạo tổ). Tư tưởng
triết học cơ bản của Lão Tử được thể hiện chủ yếu trong cuốn sách này của ông.
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 4
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Nhân vật quan trọng thứ hai của Đạo gia là Trang Tử (365 – 290 TCN), tên
thật là Trang Chu, sống vào thời Chiến Quốc. Trang Tử là một trong những nhà
tư tưởng đặc biệt vào loại hạng nhất thời ấy, rất giỏi kể chuyện, có sức tưởng
tượng vô cùng phong phú. Tương truyền rằng, khi Trang Tử đến ở ẩn nơi chân
núi Nam Hoa, ông đem hết tinh hoa của Đạo giáo của Lão Tử viết thành bộ sách,
lấy tên núi Nam Hoa mà đặt, gọi là Nam Hoa kinh, là một trong hai bộ kinh điển
của Đạo gia. Sống trong thời kỳ lịch sử có nhiều biến động dữ dội, Trang Tử
được coi là nhà tư tưởng lớn về đạo học trong triết học cổ Trung Quốc. Tư tưởng
của ông ảnh hưởng khá lớn đến các nhà tư tưởng sau này.
1.2. Tư tưởng của đạo gia
Quan điểm triết học của Đạo gia hết sức phong phú và đa dạng, những tư
tưởng triết học chính yếu của phái Đạo gia đều thống nhất trên nên tảng các quan
điểm về Đạo, tư tưởng biện chứng và quan điểm “vô vi”. Nó được thể hiện qua
các tác phẩm “Đạo Đức kinh” của Lão Tử và “Nam Hoa kinh” của Trang Tử
cùng với một số tư tưởng của các triết gia theo xu hướng Đạo gia sau này. Dưới
đây, tôi xin trình bày khái quát về những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia.
Quan điểm về “Đạo” và “Đức” - khởi nguyên vũ trụ
Theo Lão tử, Đạo là bản nguyên vô hình, phi cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín,
huyền diệu của vạn vật. Theo tiếng Hán cổ, Đạo còn có nghĩa là "con đường",
"phương tiện", "nguyên lý". Đạo là nguyên lý tối sơ, tối hậu, cái tuyệt đối của vũ
trụ vạn vật, cả tồn tại lẫn không tồn tại, cả hữu hình lẫn vô hình, cả cái tĩnh lặng
và cái biến đổi, cả cái đậm đặc và cái trống rỗng. Nó là quy luật chung của mọi
sự biến hóa xảy ra trong thế giới.
Đạo là quy luật của mọi cái đã, đang và sẽ tồn tại trên thế giới. Nó là nguyên
lý thống nhất vận hành của vạn vật. Nó vừa mang tính khách quang vừa mang
tính phổ biến. Ở đâu cũng có đạo và ai cũng theo đạo. Đạo làm cho vạn vật hiện
ra muôn hình vạn trạn, vô cùng, vô tận… theo trật tự của Đạo. Đạo làm cái
không làm, săn sóc cái không việc, không làm mà như đã làm, đã làm mà như
không làm…
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 5
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Đạo là nguồn gốc sinh ra vạn vật: “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba
sinh vạn vật”. Vạn vật xuất phát từ Đạo, nghĩa là cả vũ trụ và như vậy, trật tự vũ
trụ cũng từ Đạo mà ra, tương tự như nguyên tắc tự nhiên, nhưng Đạo lại chẳng
phải là một nhân vật toàn năng, mà là nguồn gốc và sự dung hoà tất cả những cặp
đối đãi. Đạo sinh ra vạn vật, là “mẹ” của muôn loài, làm chủ trời đất một cách tự
nhiên, không ý chí, không mục đích, nên cũng không tự cho vạn vật là của mình.
Nhờ đó mà trời đất vạn vật phó mặc tự nhiên, sinh hóa không ngừng.
Đạo không thể gọi tên được. Lão Tử quan niệm rằng “Đạo khả Đạo phi
thường Đạo, Danh khả danh phi thường danh”, tức là Đạo mà ta có thể nói đến
được, không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có thể gọi được, không phải là
Danh thật sự. Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật. Đạo vừa
là cái có trước vừa tồn tại trong bản thân vạn vật, khi con người can thiệp vào thì
đạo không còn là đạo nữa. Đạo có thể được xem là siêu việt mọi khái niệm, là tất
cả, bao gồm tồn tại và phi tồn tại Trên cơ sở này thì ta không thể luận đàm, định
nghĩa được Đạo vì mỗi định nghĩa đều có bản chất hạn chế.
Đạo không có một thuộc tính quy định nào ngoài vẻ tự nhiên chất phác, mộc
mạc, yên lặng tĩnh mịch, sâu thẳm, mập mờ, thấp thoáng, trống rỗng, huyền diệu,
nhìn không thấy, nghe không được, không nắm được, không nếm được, không
ngửi được, không sáng, không tối… Nói chung, Đạo không thể cảm giác, không
thể diễn tả dưới bất cứ hình thức nào. Nó là cái năng động tự sinh sôi, tự biến
hóa.
Trong khi đó, Đức là phạm trù triết học thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của đạo, là
hình thức để vạn vật được định hình, phân biệt, là cái lý để nhận biết vạn vật,
phân biệt chúng với nhau. Lão Tử quan niệm rằng "Thượng Đức bất Đức thị dĩ
hữu Đức". Khi dùng hai chữ “đạo đức”, tức là vừa nói tới mặt bản thể của “đạo”
nói chung vừa nhấn mạnh thêm mặt dụng của đạo. Khi Đạo ở dạng “thể” thì
không có tên, nhưng đến “dụng” (đức) thì có tên. Vạn vật nhờ “đức” mà có tên,
phân biệt, lễ nghĩa…
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 6
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Quan điểm “Vô vi” - nhân sinh quan của Lão Tử
Khái niệm vô vi trong Đạo Đức kinh không có nghĩa là không làm gì mà là
phải tiến hành các hoạt động một cách tự nhiên, thuần phác, không làm trái với
Đạo, không cố gắng hoạt động mang tính giả tạo, gượng ép, thái quá, bất cập,
làm mà như không làm. Vô vi là hành động theo tự nhiên, là làm mà không có
tâm riêng, cũng như đói thì phải ăn, khát thì phải uống. Nói chung vô vi là sống,
hành động hợp lẽ tự nhiên, thuần phác.
Ngược lại, hữu vi là thói tư lợi, tham lam, ích kỷ, nó sẽ chỉ làm cho mọi vật
xáo trộn, làm cho tự nhiên hiền hòa mất đi. Điều này dẫn đến làm mất bản tính tự
nhiên của con người từ đó mất luôn cả đạo. Khi nào từ bỏ được hữu vi thì mới
nhận thấy đạo, chỉ khi nhận thấy đạo thì mới có thể vô vi được.
Từ quan niệm vô vi, ô cho rằng khi bỏ tư lợi, sẽ thấy đạo, và còn người từ đó
có thể sống vô vi, tức là từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung. Lão Tử
khuyên tri nhân giả trí, tự tri giả minh, nghĩa là biết người khác chỉ mới là trí,
nhưng tự biết mình thì mới là sáng. Như vậy ông chú trọng đến việc tự chinh
phục bản thân hơn là chinh phục kẻ khác, nên bằng lòng với cái mình có, biết đủ
thì đủ và lúc nào cũng đầy đủ cả, biết nhàn thì nhàn và lúc nào cũng nhàn cả.
Quan niệm biện chứng về thế giới
Thứ nhất, nhờ đức, tức là dụng hay thể hiện của đạo, mà đạo trong vạn vật
luôn biến hóa, vạn vật được sinh ra từ đạo, mất đi thì lại quay trở về với đạo. Đạo
là cái vô, từ cái vô sinh ra cái hữu, từ hữu sinh ra van vật, vạn vật mất đi thì quay
về với đạo.
Thứ hai, vạn vật vũ trụ luôn vận động biến đổi theo hai quy luật chính là luật
quân bình và luật phản phục. Luật quân bình (luật bù trừ), nói về thế cân bằng,
trung dung trong trời đất, là trạng thái trời đất giao hòa, vũ trụ vạn vật vận động
biến đổi theo một trật tự điều hòa, tự nhiên, không có gì thái quá hay bất cập như
“gãy thì liền, cong thì thẳng, trống thì đầy, cũ thì mới, ít thì được, nhiều thì mất”.
Nếu vi phạm luật quân bình, phá vỡ trạng thái vận động cân bằng của vũ trụ, thì
vạn vật sẽ rối loạn, trì trệ và có nguy cơ bị phá hoại. Trong khi đó, Luật phản
phục quan niệm cái gì phát triển đến tột đỉnh thì tất sẽ trở thành cái đối lập với
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 7
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
chính nó. Quy định này cũng khá máy móc, sự vật tuần hoàn bất tận, không tạo
ra cái mới mà lặp lại một cách buồn tẻ như hết ngày đến đêm, hết đêm sang ngày,
trăng tròn lại khuyết, trăng khuyết lại tròn.
Thứ ba, do sự thống nhất, đấu tranh, chuyển hóa lẫn nhau của 2 mặt đối lập
mà sự vật trong vũ trụ tồn tại và biến hóa. Có xấu thì mới có đẹp, có thấp thì mới
có cao, dài và ngắn tựa vào nhau thì mới có hình thể. Các mặt đối lập này không
những thống nhất mà còn đấu tranh, xung đột với nhau, từ đó tạo ra sự thay đổi
trong vạn vật. Tuy nhiên, sự biến hoá, thay đổi này không làm xuất hiện cái mới,
mà là theo vòng tuần hoàn khép kín.
Quan điểm về chính trị - xã hội
Đối với xã hội, nếu ngày càng xa đạo thì xã hội càng có nhiều mâu thuẫn, mà
mâu thuẩn là tai họa của xã hội. Để xóa bỏ tai họa thì cần phải thủ tiêu mâu
thuẩn. Để thủ tiêu mâu thuẫn trong xã hội thì chỉ có cách hoặc là đẩy mạnh một
trong hai mặt đối lập để tạo ra sự chuyển hóa (dựa theo luật phản phục) hay cắt
bỏ một trong hai mặt đối lập để làm cho mặt kia tự mất đi (dựa theo luật quân
bình). Trong đời sống xã hội, trí tuệ sinh ra giả dối, nước loạn mới xuất hiện tôi
trung, nếu dẹp bỏ trí tuệ thì dân chất phát, nếu không coi trọng của cải thì không
còn trộm cướp. Vì thế Đạo gia chủ trương thực hiện triệt để chính sách ngu dân.
Bởi hiểu biết càng nhiều thì trí xảo càng nhiều, trí xảo càng nhiều thì ham muốn
càng nhiều, càng muốn tranh đoạt và xâm phạm lẫn nhau, làm trái với đạo tự
nhiên.
Về cách trị nước trị dân, hành động hay nhất là không can thiệp đến việc đời,
nhưng nếu phải làm thì hãy làm cái không làm một cách kín đáo, khéo léo. Nếu
bộ máy cai trị vô vi, yên tĩnh thì dân chất phát, hiền lành, còn nếu chính phủ tích
cực làm việc thì dân đầy tai họa. Nước nào chính sự lờ mờ thì dân thuần thục,
nước nào chính sự rành rọt thì dân lao đao.
Với Đạo gia, pháp luật và chuẩn mực đạo đức là nguyên nhân gây ra điều ác
và bất ổn. Mọi chuẩn mực đạo đức và thể chế pháp luật là sự áp đặt, cưỡng chế,
can thiệp vào bản tính tự nhiên của con người. Vì thế, cần xóa bỏ mọi ràng buộc
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 8
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
về đạo đức, pháp luật đối với con người để trả họ về với tự nhiên, bản chất chất
phát hiền lành của họ. Khi đó, xã hội sẽ trở về thời đại mà con người nguyên
thủy chất phát, không tham lam, không ích kỷ, sống vô vi. Do đó, cần phải xóa
bỏ mọi lễ giáo, pháp luật, văn hóa, kỹ thuật, nghệ thuật… Nói chung, bỏ tất cả
những gì do con người sáng tạo ra trái với bản tính tự nhiên thuần phác.
Xã hội lý tưởng của Đạo gia là xã hội nguyên thủy chất phác, tự nhiên. Mẫu
hình xã hội lý tưởng của Lão Tử là “nước nhỏ, dân ít, có gươm giáo nhưng
không dùng, bỏ văn tự, chỉ nên chăm chú vào việc ăn no, mặc ấm, ở yên, vui với
phong tục của mình, nước này không qua lại với nước kia, sống khép kín, biệt
lập”. Xã hội đó phải được cai trị bằng cách không cai trị, không cai trị mà coi
như đã được cai trị.
Con người trong xã hội lý tưởng của Đạo gia sống tự nhiên thuần phác, bỏ
mọi ham muốn dục vọng, không cần đến cả tri thức, văn hóa hay bất cứ sự tiến
bộ xã hội nào. Mẫu người lý tưởng là người tinh tế, nghiêm kính, không ham
sống, không sợ chết, ra không vui, vào không sợ, thản nhiên đến, thản nhiên đi.
Quan điểm trong phương châm xử thế
Sau đây là một số quan điểm trong phương châm xử thế của đạo gia:
• Xây dựng xã hội bình đẳng, không phân biệt người với ta, không xích mích
với ai, không làm thiệt hại ai.
• Con người cần có 3 đức: Từ, Kiệm, Khiêm, đề cao sự dung dị trong con
người. Nếu bỏ Từ, Kiệm, Khiêm và theo con đường cậy mạnh tranh khôn,
xa hoa phù phiếm, hống hách kiêu căng, chắc sẽ đi đến tử vong.
• Có khuynh hướng về đạo xuất thế, lấy đạo làm chủ thể cả vũ trụ dạy ta nên
lấy thanh tĩnh vô vi nơi yên lặng.
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 9
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
2. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
1.3. Những giá trị của Đạo gia
Giá trị trong hoạt động nhận thức
Thứ nhất, Đạo gia đã cung cấp cho chúng ta một số quan điểm cơ bản khá hợp
lý về sự tồn tại, vận động và biến đổi không ngừng của thế giới khách quan, độc
lập với ý thức con người. Tư tưởng biện chứng của Đạo gia một phần nào đó đã
vẽ lên bức tranh muôn hình vạn trạng, đa dạng và phong phú về vũ trụ vạn vật,
với các mặt đối lập, vô vàn các mối liên hệ phổ biến và sự vận hành thống nhất
của Đạo. Thế giới trong quan điểm của Đạo gia tự sinh thành và hoạt động theo
những quy luật tự nhiên vốn có. Nhờ vậy, trong hoạt động nhận thức, con người
cần tránh lối tư duy gán ghép, máy móc, siêu hình, áp đặt chủ quan đối với mọi
sự vật hiện tượng tự nhiên, mà phải nhận thức cái khách quan, cái bản tính tự
nhiên thuần phác, vốn có của nó.
Thứ hai, thông qua luật quân bình và luật phản phục, Đạo gia đã cung cấp
nhân sinh quan và nghệ thuật sống mang tính nhân văn sâu sắc, có tác dụng an ủi
con người hài lòng và hạnh phúc với những gì mình có trong cuộc sống, không
nên ham muốn, mơ tưởng hão huyền.
Thứ ba, Đạo gia đã hé lộ cho chúng ta những khát vọng chân chính về một xã
hội công bằng, bình đẳng, xóa bỏ mọi bất công, áp bức, bóc lột, không còn chế
độ tư hữu và nhà nước, con người được sống tự do. Nó khiến chúng ta liên tưởng
tới và rất có thể nó chính là nguồn gốc lịch sử gián tiếp cho những tư tưởng xã
hội chủ nghĩa không tưởng ở Tây Âu xuất hiện sau này.
Cuối cùng, trong nhận thức, nếu chúng ta biết rút ra bài học từ những hạt nhân
tư tưởng tích cực và tiến bộ của Đạo gia thì nó sẽ cung cấp cho chúng ta những
cơ sở quan trọng để xây dựng và phát triển quan điểm duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, chống lại chủ nghĩa duy tâm, quan điểm siêu hình.
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 10
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Giá trị trong hoạt động thực tiễn
Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia đã góp phần chỉ ra cho chúng
ta là trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải tôn trọng quy luật khách quan,
nắm vững và vận dụng phù hợp các quy luật tự nhiên vào cuộc sống, nếu không
sẽ phải trả giá và chuốc lấy hậu quả khôn lường. Tư tưởng đạo gia đã khuyên con
người không được làm trái quy luật tự nhiên, không được cải tạo tự nhiên theo
những toan tính lợi ích tầm thường của mình. Điều này có tính thời sự đặc biệt và
sâu sắc trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay, với thiên tai và dịch
bệnh luôn đe dọa nghiêm trọng. Nó khuyên con người cần phải biết quý trọng
mọi sự sống nói chung, gắn với quý trọng môi trường tự nhiên, không được tàn
sát sinh vật và hủy hoại môi trường một cách tùy tiện.
Với việc chỉ ra luật quân bình và luật phản phục, Đạo gia đòi hỏi con người
cần tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy ý chí, mà phải luôn
luôn tạo dựng sự cân bằng, hợp lý, tự nhiên, khách quan nhưng không ỷ lại, thụ
động trước các điều kiện khách quan, không nên “cầm đèn chạy trước ô tô”…
vv…
Đạo gia còn dạy con người phải biết sống khiêm tốn, giản dị, mà vẫn ung
dung, tự tại, không lo sợ, không đau buồn trước mọi biến động xảy ra trong đời.
Con người của Đạo gia sẽ không tham lam, vụ lợi, giả dối, không đấu tranh,
giành giật, không đua đòi, bon chen, đố kỵ, mà cần phải sống hòa nhã, trung
dung, ngay thẳng, tự nhiên thuần phác. Đạo gia giúp con người từ bỏ thói tư lợi,
tham lam, ích kỷ, bởi nó sẽ chỉ làm cho mọi vật xáo trộn, tự nhiên hiền hòa sẽ
mất đi. Đồng thời, con người sẽ trở nên hiền hòa, lương thiện, sống có đạo, có
đức. Không những thế, chủ trương bất tử, tức là quan niệm lúc chết, sự sống con
người được thay đổi chứ không bị mất đi, cho nên con người có một thái độ tích
cực đối với thân phận chính mình.
Thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, Đạo gia còn cung
cấp cho chúng ta nghệ thuật sống vô cùng phong phú, tinh tế và đáng vận dụng
như: Lấy mềm thắng cứng, lấy tĩnh chế động, lấy mặt đối lập để khống chế mặt
đối lập, tôn trọng sự khác biệt… Từ đó, ông cha ta đã đúc kết nên những thành
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 11
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
ngữ và phương châm ứng xử trong hoạt động thực tiễn, như: Lạt mềm buộc chặt,
lấy nhu thắng cương, lấy ít địch nhiều, lấy độc trị độc, dĩ bất biến ứng vạn biến,
không ai giàu ba họ không ai khó ba đời, lá rụng về cội…vv…
Về tư tưởng quốc gia lý tưởng của Đạo gia, tuy rằng những chủ trương của
Đạo gia chỉ là lý tưởng (thậm chí có cả tính không tưởng) nhưng vẫn đóng góp
đáng kể vào sự phát triển của tư tưởng phương Đông cũng như của Trung Quốc.
Không chỉ dạy con người trở về với gốc Đạo, huyền đồng cùng vũ trụ, nó còn
đóng góp rất nhiều cho nền văn minh Trung Quốc. Rất nhiều sinh hoạt độc đáo
của người Trung Quốc đã lan truyền khắp thế giới, trong đó có Việt Nam như :
• Khuynh hướng hội họa của dòng tranh "Thủy mặc" hay còn gọi là tranh sơn
thủy, thể hiện sự cân bằng tuyệt hảo giữa Âm - Dương.
• Là nguồn gốc của Thuật Phong thủy, một thuật chỉ rõ cách chọn hướng,
cách thiết kế môi trường xây dựng theo một hệ thống phối hợp các yếu tố
quan trọng của không gian và thời gian nhằm mang lại sự hài hòa tối đa
trong mọi tương tác giữa con người và thiên nhiên.
• Là nền tảng của các môn võ thuật khí công của các phái đạo gia khí công và
môn Thái Cực Quyền với nguyên tắc "mềm như nước" nhưng hết sức hiệu
quả, giúp cho con người giải tỏa những tắt nghẽn sinh lực, đưa thân thể trở
về trạng thái cân bằng, vừa hài hòa thể lý lẫn tinh thần mà ngày nay rất phổ
biến.
• Đạo gia cũng là nguồn gốc của phương pháp châm cứu và bấm huyệt được
xem là cách trị bệnh rất hiệu quả hiện nay.
1.4. Những hạn chế của Đạo gia
Trong nhận thức
Đạo gia đã trình bày một yếu tố duy nhất sinh thành và chi phối mọi hoạt động
của vũ trụ vạn vật, đó là “đạo”, tồn tại độc lập với ý thức con người, vừa là thực
thể vật chất vừa là thực thể tinh thần. Đây là quan điểm không đúng trong thời
điểm hiện tại.
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 12
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Với quan điểm “vô vi” về chính trị - xã hội, tư tưởng Đạo gia mong muốn
quay ngược bánh xe lịch sử trở về chế độ công xã nguyên thủy ở giai đoạn cuối,
không phù hợp với lịch sử và sự phát triển của xã hội.
Đạo gia đã đề cập đến nguồn gốc, cách thức và khuynh hướng của sự vận
động biến đổi, nhưng còn hết sức đơn giản, tuần tự khép kín, chuyển hóa hình
thức, không có sự thâm nhập và phủ định biện chứng. Tư tưởng biện chứng đó về
cơ bản nó vẫn còn chất phác, ngây thơ, trực quan cảm tính, tiên nghiệm. Nó chưa
có sơ sở để vạch ra cái bản chất, tất yếu bên trong của sự vật hiện tượng. Vạn vật
chỉ vận động tuần hoàn, lặp đi lặp lại một cách buồn tẻ mà không có sự ra đời
của cái mới, nghĩa là không có sự phát triển.
Trong hoạt động nhận thức, tư tưởng Đạo gia sẽ dẫn chúng ta đến với chủ
nghĩa duy tâm thần bí về “đạo”, tư tưởng biện chứng tuần hoàn thô thiển, chủ
nghĩa khách quan tuyệt đối, thuyết bất khả tri.
Trong tư tưởng biện chứng và chính trị xã hội
Với Đạo gia, mâu thuẫn trong xã hội được thủ tiêu bằng cách đẩy mạnh một
trong hai mặt đối lập để tạo ra sự chuyển hóa thoe quy luật phản phục (quay trở
lại cái ban đầu), hay cắt bỏ một trong hai mặt đối lập để làm cho mặt đối lập kia
tự mất đi theo quy luật bình quân (cân bằng nhau). Quan niệm này đôi khi khiến
con người không có động lực phấn đấu, xã hội không phát triển và con người trở
nên dửng dưng trước thời cuộc.
Với tư tưởng “vô vi” về chính trị xã hội, Đạo gia chủ trương xây dựng một xã
hội phi thể chế, phi nhà nước, phi giáo dục, phi khoa học kỹ thuật, chẳng cần văn
hóa với văn minh, một cộng đồng ít dân ngu đần ấu trĩ, sống bằng săn bắn hái
lượm gắn với trồng trọt và chăn nuôi tự cấp tự túc, khép kín hoàn toàn, không
trao đổi qua lại với bên ngoài. Đây là tư tưởng lạc hậu và thụt lùi về quan điểm
chính trị - xã hội.
Đạo gia chủ trương con người không nên tăng cường các hoạt động sáng tạo,
không cần mở mang trí tuệ, chấm dứt cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội, mà quay
về sống như thời nguyên thủy, đúng với bản tính tự nhiên thuần phác của một
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 13
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
loài động vật bậc cao được sinh ra từ “đạo”. Tư tưởng này đã phủ nhận mọi hoạt
động thực tiễn của con người.
Về đường lối trị nước an dân, chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ thành chất
phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai họa, chủ trương xóa bỏ hết mọi
ràng buộc về mặt đạo đức, pháp luật. Đây là quan điểm không phù hợp với sự
phát triển xã hội hiện nay, khi mà luật pháp cần được tôn trọng bật nhất để giữ
vững trật tự an ninh và chính trị xã hội của một quốc gia.
Nhìn chung, nếu như Đạo gia đã đạt được những bước tiến bộ vượt bậc so với
tư tưởng đương thời về một số quan điểm duy vật và biện chứng bao nhiêu, thì
lại lạc hậu và thụt lùi về quan điểm chính trị - xã hội bấy nhiêu. Hay nói cách
khác, so với các trường phái triết học đương thời thì, về mặt “triết học tự nhiên”,
Đạo gia đã đạt được nhiều thành tựu lớn, vượt lên hàng đầu trong số các tư tưởng
triết học đương thời, ngược lại, về mặt “triết học xã hội”, Đạo gia không đạt
được thành tựu đáng kể.
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 14
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
3. KẾT LUẬN
Đạo gia là một trong những trường phái triết học lớn. Với những tư tưởng triết
học lấy Đạo làm chủ, lấy tự nhiên làm gốc của mình, Đạo gia đã, đang và sẽ còn
có tác động ảnh hưởng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị,
văn hóa, nghệ thuật, tín ngưỡng - tôn giáo, đạo đức, y học, tâm lý học, sinh học,
v.v… ở nhiều nước trên thế giới.
Những tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia tuy đã được xây dựng cách đây
hơn hai ngàn năm, và tất nhiên có không ít hạn chế, nhưng đến nay vẫn còn ý
nghĩa thiết thực về mặt phương pháp luận, gợi mở cho chúng ta nhiều điều cả
trong hoạt động nhận thức lẫn trong hoạt động thực tiễn. Mặt dù tư tưởng triết
học cơ bản của Đạo gia về nhận thức luận và nhân sinh quan muốn ngăn cản tính
năng động, sáng tạo của ý thức con người cả trong quá trình hoạt động nhận thức
lẫn trong hoạt động thực tiễn, song vượt lên tất cả, với tinh thần cầu thị và tôn
trọng lịch sử, chúng ta vẫn có thể rút ra rất nhiều bài học có giá trị cả trong nhận
thức lẫn trong thực tiễn trước bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công
nghệ đương đại. Trong đó có các quan điểm về phát triển bền vững, phát triển hài
hòa, bảo vệ môi trường, cân bằng đời sống vật chất và tinh thần, cân bằng giữa tự
nhiên và xã hội.
Ngày nay, mặc dù tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã thay đổi vượt bậc, song
những tư tưởng triết học của Đạo gia vẫn có sức sống và tác động đáng kể đối
với đời sống con người, đặc biệt ở những nước vốn chịu sự ảnh hưởng truyền
thống của nó, trong đó có Việt Nam.
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 15
TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành triết học), Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2006.
(2) Triết học Phần I (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành triết học), TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên), LHNB, Trường ĐH
Kinh tế TPHCM, 2010.
(3) Bài giảng PowerPoint môn Triết học (Cao học), TS. Bùi Văn Mưa, 2011.
(4) Tư tưởng đạo gia, Hàn Sinh Tuyền, Lê Anh Minh dịch, NXB Tam Giáo
Đồng Nguyên, 2008
(5) Website: www.vi.wikipedia.org
(6) Website: www.hoivankhoa.com
(7) Website: www.nhipcaugiaoly.com
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN KHOA – MSHV: CH1101016 Page 16