Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án hình sự và thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa -Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.99 KB, 45 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Bố cục của đề tài
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái quát về thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân.
1.1.1.Khái niệm Viện kiểm sát nhân dân.
1.1.2 Lịch sử về nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
1.2. Chức năng của VKSND
1.2.1 Chức năng thực hành quyền công tố
1.2.2. Chức năngKiểm sát hoạt động tư pháp
1.2.3. Thực tiễn thực hiện chức năng của Viện kiểm sát.
1.3. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ,VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA TỈNH BẮC GIANG
2.1. Quy định của pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
trong kiểm sát hoạt động tư pháp.
2.1.1. Quy định pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong
kiểm sát các hoạt động tư pháp.
2.1.2 .Quy định pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện trong thực hành quyền công tố.


2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân
dân Huyện Hiệp Hịa trong giải quyết các vụ án hình sự.
2.2.1. Tổng quan về viện kiểm sát nhân dân Huyện Hiệp Hịa
2.2.1.1 Cơng tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Hiệp Hòa Bắc Giang.
2.2.1.2.Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân Huyện Hiệp Hịa tỉnh Bắc Giang
2.2.1.3 .Thực hành quyền Cơng Tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
2.2.1.4.Kiểm sát việc bắt tạm giam,tạm giữ và thi hành án dân sự của Viện

1

Trang
01
01
01
01
02
02
03
04
04
04
04
07
07
10
13
15
17


17
17
19
20
20
30
31
32
32


kiểm sát ND Huyện Hiệp Hịa tỉnh Bắc giang.
2.2.1.5.Cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, kinh doanh,
thương mại, lao động, các vụ án hành chính của Viện KSND Huyện Hiệp
Hịa tỉnh Bắc Giang.
2.2.1.6.Cơng tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và kiểm sát
việc giải quyết khiếu nại , tố cáo trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhân dân Huyện Hiệp Hịa tỉnh Bắc giang.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM
QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1 Định hướng hồn thiện pháp luật về hoạt động tư pháp.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của viện kiểm sát
nhân dân trong giải quyết các vụ án hình sự.
3.2.1. Giải pháp thứ nhất là thực hiện đúng quy định của pháp luật , của
Nghành về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát
xét xử các vụ án hình sự.
3.2.2. Giải pháp thứ hai là phát huy vai trò trách nhiệm của người lãnh đạo

quản lý, điều hành trong việc giải quyết án hình sự.
3.2.3.Về công tác nhân sự.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Huyện Hiệp Hịa trong giải quyết các vụ án hình sự.
3.3.1. Giải pháp về trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra.
3.3.2. Giải pháp về tăng cường kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra.
3.3.3. Giải pháp về nâng cao chất lượng quản lý thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự.
KẾT LUẬN
A. PHẦN MỞ ĐẦU

34

34

36

36
36
36

37
38
39
40
40
41
44


1. Lý do chọn đề tài
Viện kiểm sát là cơ quan có vị trí quan trọng trong Bộ máy Nhà nước. Viện kiểm sát
thực hiện hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp , đây là
chức năng hiến định và được quy định cụ thể trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
2014, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Nếu
như thực hành quyền công tố là căn cứ vào các quy định của pháp luật để quyết định việc
khởi tố,bắt, tạm giữ, truy tố người phạm tội và buộc tội bị cáo tại phiên tịa xét xử hình sự,

2


thì kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm việc xử lý các vụ án về hình sự, dân sự
… và thi hành án của các cơ quan tư pháp theo đúng quy định của pháp luật. Trong phạm
vi nghiên cứu lý luận và thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân Huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc
Giang, cần làm rõ hơn về chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát và đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Hiệp Hòa tỉnh
Bắc giang trong thời gian tới vì vậy em lựa chọn đề tài: “Thẩm quyền của Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án hình sự và thực tiễn tại Viện kiểm
sát nhân dân huyện Hiệp Hòa -Bắc Giang” để làm đề tài thực tập tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành liên quan trực tiếp
đến vấn đề thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện giải quyết các vụ án hình sự
và thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, với mục đích nghiên cứu của đề tài
nhằm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất và nội dung của quy định thẩm Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện trong giải quyết các vụ án hình sự, nêu ra những tồn tại, hạn chế, trong
thực thi pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, từ đó đưa ra
những đề xuất, phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm của Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là các quy định hiện hành liên quan trực tiếp đến

vấn đề thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án
hình sự, đặc biệt là Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và những văn bản có
liên quan.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu các quy định pháp luật về thẩm quyền
của Viện kiểm sát nhân dân. Ngoài lý luận chung về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện, phạm vi nghiên cứu chủ yếu tập trung vào quy định của pháp luật về thẩm
của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: phân tích quy phạm, so sánh, quy nạp, diễn giải....
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài được
chia thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân.

3


Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân
dân và thực tiễn áp dụng tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hịa, Bắc Giang
Chương 3: Một số giải pháp hồn thiện pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát
trong giải quyết các vụ án hình sự

4


B. PHẦN NỘI DUNG
Lý luận chung về chức năng của Viện kiểm sát.
Cơ sở nền tảng cho tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát chính là luận điểm của
Lênin về phát chế thống nhất, về vai trò của pháp luật và pháp chế trong nhà nước kiểu
mới, đó là Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà nền tảng là chế độ dân chủ nhân dân. Trong tác

phẩm “Nguyên tắc song trùng lãnh đạo và vấn đề pháp chế” V.I.Lê nin cho rằng, tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa địi hỏi phải có được phát huy tốt nhất. Tuy nhiên, trở
ngại lớn nhất đối với việc xây dựng chế độ pháp trị chính là sự can thiệp của địa phương
xuất phát từ động cơ tư lợi hoặc cục bộ địa phương chủ nghĩa. Muốn đấu tranh có hiệu quả
chủ nghĩa cục bộ địa phương nhất thiết phải thành lập Viện kiểm sát và cơ quan Viện kiểm
sát có quyền và phận sự làm một việc là “Bảo đảm cho pháp chế được hiểu biết thống nhất
và thông suốt trong tồn nước cộng hịa, bất kể những đặc điểm của địa phương và sự can
thiệp của nhà chức trách địa phương”
Ở các quốc gia mà quyền lực nhà nước tổ chức theo nguyên tắc phân quyền các
nhánh quyền lực hoạt động trong thế đối trọng nhau, quyền lực kiểm sốt quyền lực thì
khơng cần đến một cơ quan chun trách thực hiện chức năng giám sát. Chính vì vậy các
nước này theo đuổi mơ hình viện cơng tố chỉ tập trung vào quyền công tố mà thôi. Tuy
nhiên nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước ta không đặt vấn đề tạo thế cân bằng quyền lực
trên cơ sở kiềm chế đối trọng và xác định quan hệ phân công, phối hợp quyền lực trên cơ
sở quyền lực nhà nước là thống nhất. Do vậy việc tồn tại một hệ thống cơ quan chuyên
trách thực hiện giám sát, có bộ máy từ trung ương đến địa phương là điều hết sức cần
thiết.Điều này tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa chức năng Viện kiểm sát và viện công tố.
Hơn nữa đối với Nhà nước, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam - Nhà nước mà trong đó đề cao Hiến pháp, và pháp luật bảo đảm theo hiến pháp và
pháp luật được tôn trọng và tuân thủ tuyệt đối - là một nhiệm vụ quan trọng .Để bảo đảm
tính Thượng tơn pháp luật tất yếu những phạm vi pháp luật cần phải được phát hiện và xử
lý, với loại vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất (đã đến mức trở thành tội phạm) thì càng
phải có sự trừng phạt nghiêm khắc nhất đó chính là bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chịu
hình phạt( kết quả thực hành quyền cơng tố). Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng
phải bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người, loại bỏ mọi hành vi vi phạm quyền con
người trong các hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nướcđặt ra yêu cầu bức thiết phải tăng
cường các hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp.

5



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái quát về thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân.
1.1.1.Khái niệm Viện kiểm sát nhân dân.
Viện Kiểm sát Nhân dân thực hành quyền Công Tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp theo quy định của hiến pháp, và pháp luật Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất . Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa phương mình. Các Viện Kiểm sát
Quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của
pháp luật . Trong phạm vi chức năng của mình Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ góp
phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng sức khỏe tài sản,
tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân đều đươc xử lý theo pháp.
1.1.2 Lịch sử về nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 , Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời
đánh dấu cột mốc chói sáng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Trong
giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1958, cơ quan công tố nước ta tiền -thân của Viện kiểm sát
nhân dân chưa được tổ chức thành lập một hệ thống cơ quan độc lập mà được đặt trong
hệ thống cơ quan Tòa án ,được giao thực hiện đồng thời hai chức năng là : thực hành
quyền công tố (chỉ đạo điều tra thực trực tiếp điều tra một số loại tội phạm, quyết định truy
tố, buộc tội trước phiên tòa , kháng cáo bản án) và giám sát các hoạt động tư pháp sư chấp
hành điều pháp luật điều tra xét xử giam giữ cải tạo, thi hành án … Xuất phát từ tình hình
xã hội của nước ta lúc bấy giờ cũng như được đặt trong hệ thống cơ quan Tòa án nên
nhiệm vụ của cơ quan công tố không đề ra cụ thể và được hiểu với nhiệm vụ của cơng an
tịa án lúc bấy giờ là trấn áp, trừng trị những thế lực thù địch, bảo vệ thành quả cách mạng.

Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1981
Ngày 01 tháng 7 năm 1959 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 256TTg quy định về nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố với chức năng và nhiệm vụ sau :
điều tra và truy tố trước Tòa những kẻ phạm tội, giám sát việc chấp hành pháp luật trong

6


công tác điều tra xét xử thi hành các bản án về hình sự dân sự tạm giữ và cải tạo khởi tố
tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước,
của nhân dân ,Điều 1 Nghị định số 256-TTg xác định “ Nhiệm vụ chung của Viện công tố
là giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật Nhà nước truy tố luật theo luật hình
những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân giữ vững an ninh chính trị bảo vệ
tài sản của cơng bảo vệ quyền và lợi ích của người cơng dân bảo đảm theo công cuộc kiến
thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi”
Nhiệm vụ cụ thể của Viện công tố là:
1. Điều tra và truy tố trước tịa án những kẻ phạm pháp về hình sự.
2. Giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của cơ quan điều
tra;
3. Giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc xét xử của tòa án ;
4. Giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc thi hành các bản án về hình sự
dân sự và trong hoạt động của cơ quan giam giữ và cải tạo;
5. Khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng trong đó có
liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân;
Hiến pháp năm 1959 quy định Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan
trong bộ máy Nhà nước ngày 26 tháng 7 năm 1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh số
20/ L/CTN cơng bố Luật tổ chức Viện kiểm sát, ngay từ khi được thành lập, ngành kiểm sát
và hoạt động, vừa xây dựng và phát triển trên toàn miền Bắc thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ III, ngành kiểm sát tập trung phục vụ nhiệm vụ chính trị, cải tạo xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân. Khi Đế quốc Mỹ mở rộng chiến
tranh trên miền Bắc, công tác kiểm sát kịp thời chuyển hướng, phục vụ các yêu cầu của

thời chiến trên cả hai mặt trận sản xuất, và chiến đấu, góp phần bảo đảm sức chiến đấu của
quân đội, và đời sống của nhân dân ,miền Bắc là hậu phương vững chắc trong Việt Nam.
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn từ năm 1981 đến năm 2002
Sau khi giành độc lập, tự do thống nhất đất nước, sự ra đời của Hiến pháp năm 1980
là mốc đánh dấu nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội chấm nhận thức
được sự đổi mới của đất nước trong giai đoạn này Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 1981 đã
làm rõ hơn về chức năng nhiệm vụ của Viện Kiểm sát như sau : “ Viện kiểm sát nhân dân
tối cao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
các Bộ, và các cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng các cơ quan chính quyền địa
phương, tổ chức xã hội, và đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà nước và công dân

7


thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, và thống
nhất các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện Kiểm sát Quân sự kiểm soát sự tuân
theo pháp luật, thực hành quyền cơng tố trong phạm vi trách nhiệm của mình”.Như vậy
trong giai đoạn này nhiệm vụ của Viện Kiểm sát Nhân dân được cụ thể khóa thơng qua các
hoạt động của mình Đây là bước tiến bộ lớn trong cơng cuộc cải cách tư pháp.
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn từ 2002 đến năm 2014.
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 và luật tổ chức Viện kiểm sát năm 1992 sửa
đổi năm 2002 ra đời đã tiếp tục có những quy định mới về nhiệm vụ và quyền hạn của viện
kiểm sát nhân dân đáp ứng nhu cầu thay đổi đặc biệt.Trong giai đoạn này, nước ta đang
trong quá trình cải cách tư pháp.
Trong giai đoạn trên, Mặc dù có những thay đổi lớn về chức năng Viện kiểm sát
nhân dân tuy nhiên vẫn khẳng định nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan “ bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, và quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng tài sản, tự do danh dự và
nhân phẩm của công dân”.
Nhiệm vụ của Viện Kiểm sát Nhân dân giai đoạn từ 2014 đến nay .

Với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh ,dân chủ, nghiêm minh
bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa”. Hiến pháp năm 2013 ra đời đã, có những nội dung rất quan trọng về chế định,
Viện kiểm sát nhân dân bổ sung làm rõ hơn những nguyên tắc mới tiến bộ mới ,đến hoạt
động Viện kiểm sát nhân dân . Để phát huy tinh thần của Hiến pháp năm 2013 ,Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân được tiếp tục sửa đổi với những quy định mới, trong đó đã
xác định rõ hơn vị trí nhiệm vụ, vai trị, và các hoạt động cụ thể, để thực hiện nhiệm vụ
theo đó Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ như sau :
“…Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ hiến pháp ,và pháp luật, bảo vệ
quyền con người ,quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” .
Đây là nhiệm vụ cốt lõi, để ra đối với hoạt động của Viện Kiểm sát trong bộ máy
Nhà nước, vì vậy thông qua các hoạt động của Viện Kiểm sát thể hiện qua hai chức năng
nhiệm vụ Viện kiểm sát sẽ được thực hiện .
.
1.2. Chức năng của VKSND

8


Viện Kiểm sát Nhân dân là một thiết chế Hiến Hiến định trong bộ máy nhà nước khoản 1
điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định Viện Kiểm sát Nhân dân thực hành quyền công tố
kiểm sát hoạt động tư pháp điều 2 luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định
viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố kiểm sát các hoạt động tư pháp
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Như vậy theo Hiến pháp năm 2013 viện
kiểm sát nhân dân có hai chức năng chức năng thực hành quyền Công Tố và chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp về chức năng thực hành quyền Công Tố.
1.2.1 Chức năng thực hành quyền công tố
a. Cơ sở lý luận và thực tiễn .

Nghiên cứu về lịch sử nhà nước và pháp luật cho thấy, chế định cơng tố được hình
thành dần cùng với sự hồn thiện và phát triển của tố tụng hình sự, lúc đầu trong nhà nước
Hi Lạp và La Mã cổ đại, người bị hại, là người buộc tội ,và có nghĩa vụ Chứng minh lời
buộc tội của mình, nhưng do hoạt động của họ rất khó khăn nên sau này việc truy cứu trách
nhiệm hình sự, được chuyển giao cho Nhà nước do các Viên chức của nhà vua tiến hành,
mặt khác nhà nước ra đời, và tồn tại luôn luôn là đại diện chính thức cho xã hội, về mọi
phương diện, ln có trách nhiệm bảo vệ các quan hệ xã hội, liên quan đến lợi ích chung,
đến trật tự xã hội chung, và trừng trị những hành vi vi phạm các quan hệ xã hội xã hội loại
này, nhất là những hành vi mà bị pháp luật coi là tội phạm. Khi một hành vi bị coi là tội
phạm, được thực hiện sẽ làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật giữa một bên là nhà
nước, và bên kia là người phạm tội . Trong quan hệ này nhà nước là chủ thể, sử dụng quyền
lực nhà nước, quyền lực công, để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự, và áp dụng
hình phạt đối với người phạm tội, còn người phạm tội là chủ thểm bị truy cứu trách nhiệm
hình sự,và gánh chịu các chế tài hình sự, do nhà nước quy định và áp dụng..
Trong nhà
nước pháp quyền, có sự hiện diện của pháp luật, và đương nhiên cũng tồn tại các hành vi vi
phạm pháp luật. Để pháp luật được tôn trọng, và chấp hành nghiêm chỉnh cần thiết phải sử
dụng quyền lực nhà nước,nhân danh công quyền thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người có hành vi phạm tội . Điều đó có nghĩa là trong nhà nước pháp quyền có
tồn tại quyền cơng tố. Và tất yếu phải tổ chức một hệ thống, một cơ quan thay mặt nhà
nước thực hiện quyền chức năng này gọi là Viện công tố hay Viện kiểm sát.Điều này cũng
được đồng chí Trường Trinh khẳng định trong cuộc thảo luận về báo cáo công tác của
ngành Kiểm sát: “ công tố là một biện pháp chun chính trong bất kỳ nhà nước nào…
khơng có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành Kiểm sát để sử dụng quyền công tố”

9


Như vậy quyền công tố là một quyền năng tất yếu gắn liền và chỉ thuộc Viện kiểm sát hay
viện công tố

b- Chức năng thực hành quyền công tố qua các thời kỳ
Ở Việt Nam từ thời Pháp thuộc, Viện cơng tố đã được thành lập mơ hình này tiếp tục tồn
tại sau Cách mạng tháng tám 1945 trong cơ cấu hệ thống tổ chức của nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hịa, Hiến pháp năm 1946 tuy khơng đề cập đến Viện cơng tố, nhưng trong cơ
cấu của Tịa án, có các Cơng tố viên làm nhiệm vụ buộc tội nhân danh Nhà nước trước
phiên tòa trong các vụ án hình sự .Sau này sau này hịa bình lập lại ở miền Bắc từ năm
1958, Viện công tố được tách ra khỏi Tịa án nhưng trực thuộc Chính phủ, và hình thành
một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập với Tòa án từ Trung ương tới địa phương. Hoạt
động chủ yếu của Viện công tố vẫn là hoạt động Cơng tố trước Tịa án .Sau này do u cầu
của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, là pháp luật phải được chấp hành
nghiêm chỉnh, và thống nhất, nên theo quy định của Hiến pháp năm 1959 một loại hình cơ
quan Nhà nước mới trong bộ máy Nhà nước được hình thành. Đó là hệ thống cơ quan Viện
kiểm sát Ngồi chức năng cơng tố, Viện kiểm sát các cấp còn thực hiện một chức năng thứ
hai là kiểm sát tuân theo pháp luật, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 tuy có sửa
đổi một số quy định về tổ chức, và hoạt động của Viện Kiểm sát, nhưng chức năng công tố,
vẫn giao cho Viện kiểm sát đảm nhiệm .Đặc biệt Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể Viện
kiểm sát “thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”
C. quy định chức năng về thực hành quyền công tố hiện hành.
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận “Viện Kiểm soát Nhân dân thực hành quyền công tố kiểm
sát hoạt động Tư pháp” và Điều 2 luật tổ chức Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014 cũng quy định “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố kiểm sát
hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” Như vậy, thực hành
quyền công tố, là một trong hai chức năng hiến định Viện kiểm sát nhân dân.
Về bản chất thực hành quyền công tố, là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự, để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội
được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo, về tội phạm kiến nghị khởi tố, và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, vụ án hình sự như vậy vấn đề chúng ta
cần bàn luận, để làm rõ đó là :
Thứ nhất, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự.
Bản chất của thực hành quyền cơng tố, là thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với

người thực hiện hành vi, bị coi là phạm tội . Mà tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội

10


được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự, hoặc pháp
nhân thương mại, thực hiện một cách cố ý, hoặc vô ý xâm phạm đến các quan hệ xã hội,
được Bộ luật hình sự bảo vệ. Do vậy để buộc tội một người, thì phải tuân theo trình tự thủ
tục trong tố tụng hình sự, và chỉ trong tố tụng hình sự mà thôi, không thể xuất hiện chức
năng này trong các lĩnh vực khác .
Thứ hai, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật từ thời điểm nào, đến thời điểm nào, trong quá trình tiến hành tố tụng vụ án hình sự
theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014 thì hoạt động thực
hành quyền cơng tố, của Viện Kiểm sát bắt đầu từ thời điểm khi tiếp nhận tin báo, tố giác,
về tội phạm, và kiến nghị khởi tố, và trong suốt quá trình khởi tố điều tra, truy tố, xét xử,
vụ án hình sự để đảm bảo sự tuân thủ trong suốt quá trình giải quyết vụ án, tùy từng giai
đoạn tố tụng mà Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố cho phù hợp
với quy định của pháp luật.
Thứ 3, nội dung của chức năng thực hành quyền công tố .
Nội dung thực hành quyền công tố, và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng hình sự, để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội khi thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, và
quyền hạn như sau :
- Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố, hoặc không khởi tố vụ án trái pháp
luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị
can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.
- Quyết định phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền
con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo, về tội phạm kiến nghị
khởi tố, và trong việc khởi tố điều tra, truy tố, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình

- Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác, trong việc giải quyết tố giác ,tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
-Khi cần thiết để ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện.
-Yêu cầu cơ quan ,tổ chức cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm
người phạm tội .

11


- Trực tiếp giải quyết tố giác. tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiến hành một số
hoạt động điều tra, để làm rõ căn cứ quyết định buộc tội đối với người phạm tội .
- Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng,
chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật.
- Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra truy tố;
- Quyết định việc truy tố về tội bị cáo Tại phiên tòa;
- Thực hiện nhiệm vụ quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1.2.2. Chức năngKiểm sát hoạt động tư pháp
a- Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Trải qua các thời kỳ, chức năng kiểm sát của Viện Kiểm sát vẫn luôn được chú trọng
và đề cao. Như đồng chí Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm sát “Viện
kiểm sát khơng những chỉ có nhiệm vụ phát hiện cái sai, cái vi phạm mà phải góp phần
làm cho các cơ quan và nhân dân làm đúng pháp luật hơn”
Xét về mặt lý luận, trong một xã hội dân chủ cần có nhiều kênh bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của các chủ thể quan hệ pháp luật . Dù người dân có quyền tự bảo vệ mình trước
pháp luật thì họ cũng khơng có đủ điều kiện để sử dụng triệt để quyền năng này . Do vậy
cần thiết có một lá chắn từ phía bộ máy nhà nước để bảo vệ quyền tự do và lợi ích chính
đáng của người dân . Hồn thiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm

sát chính là tạo một kênh quan trọng một lá chắn hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân và các tổ chức.
Về khía cạnh thực tiễn, trong quá trình thực hiện hoạt động tư pháp các cơ quan
tiến hành tố tụng được pháp luật theo thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố
tụng ( bắt tạm giữ, tạm giam …) Những sai sót vi phạm trong hoạt động tư pháp ln có
khả năng dẫn đến những thiệt hại không thể bù đắp được. Do vậy các hoạt động Tư pháp
phải chịu sự kiểm tra giám sát của nhiều cơ chế khác nhau bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra
bên trong hệ thống và cơ chế giám sát bên ngoài hệ thống cơ chế giám sát trực tiếp và dán
tiếp. Những cơ chế này phải thường xun có tính chun nghiệp cao. Thực tiễn kiểm sát
hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát thời gian qua đạt được những kết quả rất quan trọng
hàng năm Viện kiểm sát các cấp đã phát hiện ban hành hàng nghìn kiến nghị, kháng nghị
yêu cầu các cơ quan Tư pháp khắc phục vi phạm. Thực tiễn đó đã kiểm nghiệm và chứng
minh trong điều kiện cụ thể của nhà nước ta, Viện kiểm sát với chức năng kiểm sát hoạt

12


động tư pháp là cơ chế giám sát tư pháp hữu hiệu và bổ trợ hiệu quả nhất cho chức năng
thực hành quyền công tố.
b- Chức năng kiểm sát hoạt động Tư Pháp qua các thời kỳ.
Ỏ Việt Nam, theo Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 1960, Viện kiểm sát chính thức được thành lập, cơ quan Viện kiểm sát đã ra đời thay
thế cho mơ hình Viện cơng tố, ngồi chức năng thực hành quyền cơng Tố Viện kiểm sát
cịn có những chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ máy cơ quan ngang
bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang, và công dân.
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, vẫn khẳng định Viện kiểm sát là cơ
quan “bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” nhưng phạm
vi hoạt động đã có sự thu hẹp. Từ chỗ là nhân tố chính “bảo đảm theo pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” thì nay hoạt động của Viện Kiểm sát chỉ là “góp

phần” cho q trình đó mà thơi và mơ hình tổ chức cũng có sự thay đổi.
Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) thì vi phạm vi hoạt động của
Viện Kiểm sát chỉ cịn “thực hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”Măc
dù Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về “chiến lược cải cách tư pháp Đến năm
2020” và các đề ra yêu cầu “Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của
Tòa án; Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành viện công tố trong hoạt động điều
tra…” và xuất hiện nhiều quan điểm trái chiều về phạm vi chức năng của Viện Kiểm sát,
nhưng Hiến pháp năm 2013 vẫn tiếp tục ghuy nhận chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
của Viện Kiểm sát .
c . Quy định về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp hiện hành.
Kiểm sát hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của Viện kiểm sát nhân dân
được quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013. Kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong
những hình thức kiểm sát quyền lực tư pháp của nhà nước để kiểm sát tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong hoạt động tư pháp. Ở nước ta
quyền kiểm sát hoạt động tư pháp được Nhà nước giao cho viện kiểm sát thực hiện. Tại
khoản 1 Điều 4 luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định. “Kiểm sát hoạt động
tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các quyết
định, hành vi của cơ quan tổ chức cá nhân hoạt động tư pháp.”
Thứ nhất, về phạm vi kiểm sát hoạt động tư pháp:

13


Kiểm sát hoạt động tư pháp được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự,
trong việc giải quyết hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương
mại, Lao động; việc thi hành án việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp;
các hoạt động tư pháp khác theo quy định của luật .Mặc dù khơng có văn bản quy định cụ
thể hoạt động tư pháp là gì, nhưng thơng qua ngoại diên của nó ta hồn tồn kết luận được
kiểm sát hoạt động tư pháp không chỉ trong nhiều hơn mà phạm vi cũng rộng hơn thực

hành quyền công tố (bao gồm cả giai đoạn thi hành án)
Thứ hai ,khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp về kiểm sốt có nhiệm
vụ và quyền hạn như sau:
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy
định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và
thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát
nhân dân kiểm sốt tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp;
- Trực tiếp kiểm sát; xác minh thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp;
- Xử lý vi phạm; yêu cầu kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc
phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm.
- Kháng nghị bản án, quyết định của Tịa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành
vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt
động tư pháp trong trường hợp hành vi, bản án ,quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người,
quyền cơng dân ,lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Cơ
quan người có thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy
định của pháp luật.
- Kiến nghị hành vi, quyết định của Tịa án có vi phạm pháp luật; trường hợp hành
vi, quyết định của cơ quan ,tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật
ít nghiêm trọng khơng thuộc trường hợp kháng nghị thì Viện kiểm sát nhân dân kiến nghị
cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh người vi
phạm pháp luật; Nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong quá trình quản lý thì kiến nghị cơ
quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và

14


tội phạm.Cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời

kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.
- Kiểm soát giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết khiếu
nại, tố cáo thuộc quyền ;
- Thực hiện nhiệm vụ quyền hạn trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định
pháp luật .
1.2.3. Thực tiễn thực hiện chức năng của Viện kiểm sát.
Có thể nói thực hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp có mối quan
hệ bó chặt chẽ với nhau, kết quả của hoạt động tư pháp tạo những điều kiện cho thực hành
quyền công tố có hiệu quả và ngược lại. Với việc thực hiện công tác kiểm sát các hoạt động
tư pháp sẽ làm tiền đề cho hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện một cách
chính xác, nếu có sai sót ,vi phạm trong việc thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ
kéo theo sự vi phạm pháp luật của các hoạt động thực hành quyền công tố. Cũng chính vì
vậy mà trong Viện kiểm sát khơng thành lập hai bộ phận chuyên biệt cũng phân biệt quá
rạch ròi từng hoạt động thực hiện chức năng gì mà trên thực tiễn luôn đồng thời thực hiện
cả hai chức năng thực hiện quyền cơng tố và kiểm sốt hoạt động tố tụng của cơ quan điều
tra và cơ quan xét xử, nhằm bảo đảm việc khởi tố bắt giam giữ điều tra, truy tố, xét xử
đúng pháp luật.
Trong những năm gần đây thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy
mạnh cải cách tư pháp, viện kiểm sát nhân dân các cấp đã nỗ lực phấn đấu, tập trung đổi
mới sâu rộng về tổ chức, bộ máy, cán bộ và phương thức hoạt động để nâng cao hiệu quả
công tác, nhằm thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của ngành kiểm sát nhân dân trên tất cả
các lĩnh vực, góp phần thiết thực đấu tranh phịng chống tội phạm, bảo vệ Nhà nước chế độ
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.Những nội dung đổi
mới căn bản mà Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã thực hiện theo đúng chủ trương cải
cách tư pháp của Đảng và Nhà nước thể hiện trên các phương diện như sau:
Trên lĩnh vực thực hành quyền Công Tố và kiểm sát việc giải quyết các vụ án hình
sự.
Viện kiểm sát các cấp đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm kiểm soát chặt chẽ việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; tăng cường phối hợp với các cơ
quan bảo vệ pháp luật phát hiện và xử lý nghiêm minh các loại tội phạm đưa ra truy tố

nhiều vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng phức tạp khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm ; bảo
đảm việc phê chuẩn bắt, tạm giữ, tạm giam, việc điều tra truy tố xét xử thi hành án được

15


tiến hành chặt chẽ tuân thủ đúng quy định của pháp luật; các trường hợp đình chỉ điều tra
vì bị can không phạm tội đã giảm đáng kể. Đặc biệt trong năm 2017 chỉ còn ba bị cáo bị
Tòa án tun khơng phạm tội có trách nhiệm của Viện Kiểm sát, giảm 70% so với năm
trước.Viện kiểm sát các cấp đó có biện nhiều biện pháp nâng cao chất lượng tranh tụng Tại
phiên tòa của Kiểm sát viên bảo đảm tranh tụng dân chủ hơn, hạn chế đến mức thấp nhất
các trường hợp oan, sai ;đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án hình sự .
Hoạt động điều tra các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của Viện Kiểm sát
được chú trọng, là công cụ sắc bén trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của
ngành kiểm sát. Viện kiểm sát đã kiểm soát chặt 100% vụ án hình sự từ khi khởi tố, ban
hành gần 57.000yêu cầu điều tra, tăng 8,1% chiếm gần 82% số vụ án mới khởi tố, tham gia
hỏi cung đối với gần 39.000 vụ án chiếm 44,1% số án mới khởi tố, qua đó yêu cầu thay
đổi,bổ sung 105 quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can hủy bỏ 271 quyết định khởi tố bị
can trái pháp luật, yêu cầu khởi tố 450 bị can và trực tiếp khởi tố yêu cầu điều tra đối với 8
bị can. Các vụ án do cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố, việc điều
tra được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật, tiến độ điều tra nhanh; không để
xảy ra trường hợp đình chỉ điều tra do bị can khơng phạm tội hoặc Viện kiểm sát truy tố
nhưng Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội. Qua thực hiện thẩm quyền điều tra, Viện kiểm
sát nhân dân đã góp phần bảo đảm sự trong sạch vững mạnh của các cơ quan tư pháp bảo
đảm hoạt động của các cơ quan Tư pháp tuân thủ đúng quy định và tôn trọng pháp luật.
Trên lĩnh vực kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính và các
việc khác theo quy định của pháp luật, theo số liệu thống kê của ngành kiểm sát trong
3năm ( 2014 - 2015 2016) Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã ban hành 669 bản kháng
nghị, trong đó có 155 bản kháng nghị cấp tỉnh,514 bản kháng nghị cấp huyện; 31 bản
kháng nghị đối với Tòa án nhân dân, 636 bản án đối với Cơ quan thi hành án dân sự, 02

bản đối với các Cơ quan, tổ chức có liên quan. Số bản khác nghị được chấp nhận là 643,
Đạt tỷ lệ 96,11% .
Về kiến nghị trong 3 năm từ 2014 đến 2016, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã ban
hành 5.152 bản kiến nghị trong đó gồm 744 cấp tỉnh, 4.408 cấp huyện, 547 bản đối với tòa
án nhân dân, 4434 đối với cơ quan thi hành án dân sự, 171 đối với các cơ quan ,tổ chức có
liên quan. Trong đó số bản kiến nghị được chấp nhận là 5110, Đạt 99,18% ,27 kiến nghị
được chấp nhận một phần ; 9 kiến nghị không được Cơ quan thi hành án dân sự và các cơ
quan tổ chức liên quan chấp nhận hoặc không trả lời; 4 kiến nghị được Viện kiểm sát nhân
dân cấp trên đồng tình nhất trí; Viện kiểm sát nhân dân rút 02 kiến nghị, chiếm tỉ lệ 0,04% .

16


Từ số liệu trên có thể cho thấy, tồn ngành Kiểm sát đã chủ động bố trí lực lượng
cán bộ tập trung kiểm soát chặt chẽ về việc giải quyết các vụ án, vụ việc; kháng nghị, kiến
nghị yêu cầu kiểm tra phục vụ nhiều vi phạm pháp luật; tăng cường công tác kiểm tra giám
sát việc thi hành các bản án quyết định của Tịa án một cách có hiệu quả.
Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc như hiện nay
cùng những tác động tích cực của q trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước thì những
khó khăn, thách thức trước mắt đối với ngành Kiểm sát cũng cịn rất lớn. Trong khi đó, tình
hình vi phạm và tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, với sự gia tăng về số lượng, với
nhiều thủ đoạn tinh vi và nguy hiểm trong cả dân sự hình sự, hành chính .
1.3. Vai trị của Viện kiểm sát nhân dân.
- Viện kiểm sát nhân dân được xác lập trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước Cộng hịa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam, được thể hiện thơng qua các nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nói chung, nguyên tắc tổ chức hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng .
- Bộ máy Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân, chủ quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng phối hợp

và kiểm sát giữa các cơ quan, trong việc thực hành thực hiện quyền lập pháp, hành pháp,
và tư pháp.
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện
Kiểm sát Quân sự, là cơ quan thực hành quyền công tố, và kiểm sát các hoạt động tư pháp
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm bãi
nhiệm, theo đề nghị của Chủ tịch nước, nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, theo nhiệm kỳ của Quốc hội Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chịu sự
giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, hoặc trước
Ủy ban thường vụ Quốc hội, và Chủ tịch nước trong thời gian Quốc hội khơng họp.
- Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, và Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng, Viện phó Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân địa phương, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Quân sự trung ương ,Viện
trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát Quân sự quân khu và tương đương,
Viện Kiểm sát Quân sự khu vực, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, và Viện

17


Kiểm sát Quân sự Trung ương, đều do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
- Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, là một hệ thống thống nhất, bao gồm Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện Kiểm sát Quân
Sự, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới, chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương Viện
trưởng Viện Kiểm sát Quân sự các cấp, chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
- Viện kiểm sát nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác là công cụ hữu hiệu

bảo vệ pháp luật, Bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
,bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, và thống nhất góp phần bảo vệ cơng lý, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, tạo mơi trường ổn định cho sự phát triển kinh
tế xã hội ,hội nhập Quốc tế xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

18


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ,VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA
TỈNH BẮC GIANG
2.1. Quy định của pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong
kiểm sát hoạt động tư pháp.
2.1.1. Quy định pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm
sát các hoạt động tư pháp.
Điều 4 luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định về chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp của viện kiểm sát nhân dân như sau:
”1. Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của viện kiểm sát nhân dân để kiểm
sốt tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan tổ chức cá nhân trong hoạt
động tư pháp được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác tin báo ,về tội
phạm, kiến nghị, khởi tố, và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự trong việc giải
quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
Lao động, việc thi hành án việc giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp; các
hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật .
2 .Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm:
- Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị, khởi tố việc
giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính ,vụ việc dân sự, hơn nhân, và gia đình, kinh

doanh, thương mại, Lao động, việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt
động tư pháp, các hoạt động tư pháp khác được thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật.
b- Việc bắt tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù chế độ tạm giữ, tạm giam quản
lý, và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật quyền con
người, và các quyền lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt tạm giữ, tạm giam, người chấp
hành án phạt tù không bị luật hạn chế, phải được tôn trọng và bảo vệ.
c- Bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật, phải được thi hành
nghiêm chỉnh.
d- Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp
thời nghiêm minh;

19


3.-Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư Pháp Viện Kiểm sát Nhân dân có
nhiệm vụ quyền hạn như sau:
a-Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp trong những quy
định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư Pháp thuộc thẩm quyền, và
thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân, cung cấp hồ sơ tài liệu để viện kiểm sát
nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp;
b- Trực tiếp kiểm sát, xác minh thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp;
c- Xử lý vi phạm; yêu cầu kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc
phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ
chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm;
d- Kháng nghị bản án quyết định của Tòa án và có vi phạm pháp luật; kiến nghị
hành vi quyết định của Tịa án có vi phạm pháp luật khác;kháng nghị hành vi quyết định
có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp;
đ- Kiểm soát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết

khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền.
e- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy
định của pháp luật.”
* Trường hợp thẩm quyền của VKSND về giải quyết khiếu nại , tố cáo trong hoạt
động tư pháp.
Cùng với việc kế thừa một số quy định của Quy chế 59/2006 Quy chế mới (Quy chế
số 51) đã bổ sung thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại của cấp
trưởng, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, và giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong kiểm sát thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính tại Tịa án nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật. Để tránh “bỏ
sót” thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết các khiếu nại, tố cáo trong các
hoạt động tư Pháp tại khoản 7 Điều 12 vào khoản 7 Điều 15 Quy chế mới đã nêu theo
hướng “mở” thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp
trong thực hành quyền tông tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; đồng thời đưa thêm chủ
thể bị khiếu nại tố cáo là kiểm tra viên . Đối với khiếu nại, dựa trên nguyên tắc hai cấp giải
quyết (trừ khiếu nại hành vi, quyết định của Viện trưởng chỉ được giải quyết một lần tại
Điều 476 bộ luật tố tụng hình sự); đồng thời quy định trong mọi trường hợp quyết định giải
quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, là quyết định giải quyết có hiệu

20


pháp luật.Đối với tố cáo: thẩm quyền giải quyết dựa trên nguyên tắc một cấp giải quyết;
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi, vi
phạm, của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới, và phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới,
trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Như vậy Quy chế mới không điều chỉnh việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý hành chính của Viện kiểm sát nhân dân ;đồng thời
cũng không điều chỉnh việc tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
số của Viện Kiểm sát .
2.1.2 .Quy định pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện

trong thực hành quyền công tố.
Tại khoản 1 điều 107 Hiến pháp năm 2013 có quy định : “Viện Kiểm sát Nhân dân
thực hành quyền công tố kiểm sát hoạt động tư pháp” và Điều 2 luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014 quy định : :”Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công
tố kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” Như vậy
thực hành quyền công tố là một trong hai chức năng hiến định Viện kiểm sát nhân dân. Về
bản chất thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện
ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong suốt quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự (Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014.)
Nội dung thực hành quyền cơng tố; trong q trình tố tụng hình sự hoạt động thực
hành quyền cơng tố bao gồm: khởi tố bị can: Để có được quyết định khởi tố bị can, cơ quan
công tố phải khởi tố vụ án, điều tra, xác minh ,truy tố bị can ra trước Tòa trên cơ sở kết quả
điều tra vụ án và chứng minh được người phạm tội. Buộc tội bị cáo và bảo vệ sự buộc tội
trước phiên tòa bằng cách công bố bản cáo trạng, tham gia xét hỏi, trình bày lời luận tội và
tranh luận trước phiên tòa sơ thẩm ; nếu vụ án bị kháng cáo hoặc kháng nghị thì có mặt để
tham gia xét hỏi và trình bày lời kết luận về kháng cáo, kháng nghị trước phiên tòa phúc
thẩm.
Về phạm vi thực hành quyền công tố
Tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 xác định : “Thực
hành quyền công tố và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực
hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội được thực hiện ngay từ khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều

21


tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” . Theo đó Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền cơng
tố của mình trên những lĩnh vực cơ bản như sau

- Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
Thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn truy tố tội phạm. Thực hành quyền cơng tố trong
giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Điều tra một số loại tội phạm Thực hành quyền công tố
trong giai đoạn trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự. Từ bản chất, nội dung, phạm
vi hoạt động thực hành quyền công tố nêu trên chúng ta có thể thấy cơng tác thực hành
quyền cơng tố của viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải
được khởi tố, điều tra, và xử lý kịp thời không để lọt tội phạm,và người phạm tội, không
làm oan người vô tội, không để người nào bị khởi tố, bị bắt tạm giữ, tạm giam ,bị hạn chế
các quyền cơng dân Vì xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm một cách trái pháp luật. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn
cứ và đúng pháp luật. Như vậy Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền cơng tố góp phần
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, qua đó bảo đảm bảo
vệ Hiến pháp và pháp luật bảo vệ quyền con người, quyền công dân .
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
Huyện Hiệp Hòa trong giải quyết các vụ án hình sự.
2.2.1. Tổng quan về viện kiểm sát nhân dân Huyện Hiệp Hòa
Hiệp Hòa là Huyện Trung du miền núi nằm ở phía tây của tỉnh Bắc Giang tiếp giáp
với các quyền Phú Bình, Huyện Phổ Yên tỉnhThái Nguyên, Huyện Sóc Sơn thành phố Hà
Nội, Huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh và Huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang có tổng diện tích
tự nhiên là 201,54 km2, dân số là trên 22 vạn người, có hệ thống giao thông đường bộ
đường thủy thuận lợi giúp kết nối thông thương với các địa phương lân cận. Đảng bộ
Huyện Hiệp Hịa hiện có 8.539 Đảng viên sinh hoạt tại 52 chi, đảng bộ trực thuộc (Gồm 26
đảng bộ xã, thị trấn; 04 đảng bộ cơ quan và 22 chi bộ cơ sơ). Chi bộ trực thuộc các đảng
bộ cơ sở có 411 chi bộ. Ban Thường vụ Huyện ủy khóa XXIII, nhiệm kỳ 2015-2020 có 13
đồng chí, độ tuổi trung bình là 50 tuổi; 100% có trình độ Đại học trở lên và trình độ cao
cấp, cử nhân chính trị. Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,dưới
sự quan tâm lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân tỉnh Bắc Giang, sử hỗ trợ giúp đỡ của các
Sở ban ngành Đoàn thể của Tỉnh. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hiệp Hịa đã phát huy
truyền thống anh hùng Cách mạng, đoàn kết, sáng tạo, nỗ lực vượt qua khó khăn phấn đấu


22


hồn thành tốt các nhiệm vụ chính trị và Nghị quyết đại hội Đảng các cấp đã đề ra; Tính
đến nay tồn Huyện đã có 10/25 xã về đích Nơng thơn mới.
Viện kiểm sát nhân dân Huyện hiệp Hịa là đơn vị hành chính sự nghiệp đóng trên
địa bàn Huyện tại Khu 2 thị trấn Thắng Huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang. Hàng năm Cơ
quan Viện kiểm sát đều được Huyện ủy, Ủy ban nhân Huyện, Viện kiểm sát Cấp trên đánh
giá cao trong công tác thực hành quyền công tố, và kiểm sát các hoạt động tư pháp trên địa
bàn Huyện Hiệp Hòa.
Viện kiểm sát nhân dân Huyện Hiệp Hịa hiện nay có 14 biên chế; trong đó có 05
Kiểm sát viên, 01 Kiểm tra viên, 01 Kế toán và các nhân viên chuyên môn khác . Chức
danh lãnh đạo quản lý gồm 01Viện trưởng và hai Phó Viện trưởng; Tất cả cán bộ trong
Viện đề có trình độ Đại học trở lên.
Về thuận lợi : Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các Cấp ủy Đảng
chính quyền địa phương ;và sự chỉ đạo của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang ,sự phối
hợp của các cơ quan hữu quan, cùng với sự đồng thuận cố gắng vươn lên của cán bộ, công
chức trong đơn vị .
Về khó khăn : Hiện nay tệ nạn xã hội nhiều, tình hình tội phạm xảy ra ngày càng gia
tăng; số vụ án phải thi hành ngày một tăng cả về số lượng, và mức độ phức tạp, trong khi
đó chất lượng cán bộ khơng đồng đều, có cơng chức năng lực chun mơn cịn có hạn chế
nhất định. Mặt khác nhận thức về pháp luật của nhân dân trên địa bàn chưa cao, cịn có một
số bộ phận cán bộ công chức ở cấp xã cũng nhận thức về cơng tác về pháp luật chưa đầy
đủ; đó là những khó khăn rất lớn tác động đến hiệu quả công tác đối với Viện kiểm sát
nhân dân huyện Hiệp Hòa.
Kết quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân Huyện hiệp Hịa trong giải quyết
các vụ án hình sự..
Trong những năm qua dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân Huyện và sự
chỉ đạo trực tiếp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang, công tác Viện kiểm sát nhân

dân trên địa bàn Hiệp Hịa đã đạt được những kết quả đáng khích lệ góp phần vào việc
hồn thành và ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trên địa bàn Huyện.
Đội ngũ cán bộ thường xuyên được tăng cường cả về số lượng, và chất lượng, cơ sở vật
chất, trang thiết bị phục vụ nhu cầu trong cơng tác kiểm sát của Viện ngày càng được hồn
thiện, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân đã từng bước
được chú trọng, sự phối kết hợp giữa các cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, với các Cơ quan
lien quan trong công tác được tăng cường, kết quả công tác Viện kiểm sát nhân dân có

23


nhiều chuyển biến tích cực tỷ lệ giải quyết các công việc của Viện kiểm sát nhân dân cả về
số việc và số án tồn đọng giảm nhiều, các vụ việc phức tạp tồn đọng kéo dài đã được giải
quyết dứt điểm đảm bảo các quyền, và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể ,và công dân
theo quy định của pháp luật; hiệu lực quản lý nhà nước ngày càng được củng cố tăng
cường góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế -xã hội trên địa bàn tồn Huyện.
Về cơng tác xây dựng nghành; Trên cơ sở chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, và kế hoạch công tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang; đơn vị
đã chủ động xây dựng kế hoạch công tác tháng, q, năm gắn với tình hình và nhiệm vụ
chính trị của địa phương; phân công lãnh đạo phụ trách, các Kiểm sát viên thực hiện từng
khâu công tác, lãnh đạo thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo nhiệm vụ đối với cán bộ, Kiểm sát
viên rong quá trình thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao. Tăng cường và đổi mới
phương pháp quản lý, chỉ đạo điều hành phù hợp với năng lực, sở trường của từng cán bộ,
nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác.Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật
nghiệp vụ, thực hiện nghiêm các Quy chế nghiệp vụ vào sự lãnh đạo của Viện Kiểm sát cấp
trên, và Cấp ủy địa phương, thường xuyên chú trọng công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện
về phẩm chất chính trị, tư tưởng cho cán bộ, Kiểm sát viên. Tổ chức tốt phong trào thi đua
xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp
luật. Công tâm, và bản lĩnh kỷ cương và trách nhiệm nên khơng có cán bộ vi phạm kỷ luật;

duy trì tốt chế độ họp, giao ban cơ quan, giao ban liên ngành, công tác tham mưu tổng hợp
xây dựng các loại báo cáo công tác. Báo cáo chuyên đề nghiệp vụ theo quy định của ngành,
của cấp ủy, chính quyền địa phương ;thực hiện nghiêm túc chất lượng, việc ứng dụng Công
nghệ thông tin vào công tác được đẩy mạnh, phục vụ tốt cho công tác chuyên môn nghiệp
vụ, và khai thác thông tin; tổ chức tốt việc thực hiện Luật thực hành tiết kiệm chống lãng
phí, Luật phịng chống tham nhũng quy chế dân chủ trong ngành kiểm sát nhân dân; thực
hiện nghiêm chế độ cơng khai tài chính trong đơn vị, quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn
kinh phí, tài sản trang thiết bị hiện có .Thực hiện chi tiêu đúng chế độ, chính sách, tiết kiệm
khơng để xảy ra thất thốt, lãng phí, tiêu cực, quan tâm chăm lo đời sống cán bộ, công chức
trong đơn vị; thực hiện nghiêm chế độ trực nghiệp vụ theo quy định, tích cực tham mưu
cho cấp ủy, chính quyền trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh
tế xã hội; nhất là cơng tác phịng chống tội phạm, duy trì ổn định tình hình an ninh chính trị
trật tự an toàn xã hội ở địa phương .

24


+.Kết quả cơng tác kiểm sát
Từ năm 2013 ;,tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trên địa bàn Huyện
Hiệp Hịa vẫn được duy trì và ổn định. Tuy nhiên tội phạm trên một số lĩnh vực vẫn gia
tăng và diễn biến phức tạp; có phụ tính chất, hậu quả rất nghiêm trọng , và đặc biệt nghiêm
trọng trong năm qua, cơ quan điều tra đã phát hiện khởi tố 125 vụ án trên 335 bị cáo, tăng
11 vụ và 56% so với năm trước. Cụ thể là : tội phạm về ma túy 21vu/24 bị can, phát hiện
và khởi tố 22 vụ trên 31 bị can tội phạm về chức vụ, đã phát hiện khởi tố 4/12 bị can tăng 2
vụ / 5 bị can về các tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ. lạm quyền
trong khi thi hành công vụ, và tham ô tài sản. Đáng chú ý là tình trạng cán bộ thơn tự ý bán
đất ,chi tiêu sai nguyên tắc, đã và đang diễn ra ở một số xã trong Huyện; tội phạm về kinh
tế đã phát hiện 4 vụ, trong đó đã khởi tố 3vụ/ 3 bị can xử lý hành chính 01 vụ tăng một
vụ :đã phát hiện và khởi tố 24vụ /30 bị can; tội phạm về trật tự an toàn xã hội đã phát hiện
khởi tố 70 vụ . Tình hình tội phạm nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên

nhân trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác đấu tranh phịng chống tội phạm của cấp ủy
chính quyền số xã, thị trấn hiệu quả chưa cao, chưa hiểu được đầy đủ sức mạnh tổng hợp
các lực lượng tham gia, và cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm; công tác quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội của các cơ quan Nhà nước các cấp chính quyền trên một số lĩnh vực
chưa chặt chẽ; việc tổ chức tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật; giáo dục hiệu quả
chưa cao, ý thức chấp hành pháp luật của bộ phận cán bộ, nhân dân còn hạn chế .
Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
Viện kiểm sát đã chủ động phối hợp tốt với Tòa án tổ chức các phiên tòa xét xử theo
tinh thần cải cách tư pháp; tiếp tục thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự . Đề cao trách nhiệm của Kiểm sát viên
trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, chuẩn bị tốt nội dung cần thẩm vấn, tranh tụng tại phiên
tòa để làm sáng tỏ vụ án, trên cơ sở đó đề xuất mức hình phạt phù hợp với hành vi của tội
phạm của bị cáo vào quy định của pháp luật. Đi sâu nghiên cứu phát hiện vi phạm trong
các bản án, quyết định sơ thẩm .Trong năm đã kháng nghị 01,bản án báo cáo Viện kiểm sát
tỉnh kháng nghị 02 bản án, ban hành 01 văn bản kiến nghị yêu cầu khắc phục tồn tại, thiếu
sót trong hoạt động xét xử. Phối hợp với Tòa án tổ chức 06 phiên tòa rút kinh nghiệm; đưa
09 vụ án đi xét xử lưu động nhằm tuyên truyền giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân
trong toàn Huyện .

25


×