14:48, 21/10/2022
Tái điều trị với Peginterferon+Ribavirin: niềm hy vọng của những trường hợp không đáp ứng với điều trị
Tái điều trị với Peginterferon+Ribavirin: niềm hy vọng của những
trường hợp không đáp ứng với điều trị
Trường hợp lâm sàng:
Bệnh nhân nam 49 tuổi, người da trắng, thể trọng 79.1 kg được theo dõi đánh giá điều trị.
Bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm viêm gan siêu vi C, genotype 1B năm 1998. Sinh thiết gan tại
thời điểm này cho thấy bệnh lý gan giai đoạn 3, độ 3 với tình trạng viêm gan thối hóa mỡ
(steatohepatitis) mức độ trung bình – nặng, xơ hố quanh tế bào và quanh tĩnh mạch, có trình
trạng viêm hoại tử nhẹ tích tụ các neutrophil, cho thấy tổn thương gan thối hóa mỡ khơng do
rượu. Vào thời điểm chẩn đoán, mức độ RNA HCV > 1 triệu copies / mL, AST=70U/L và ALT=
164U/L.
Bệnh nhân được điều trị với liệu pháp kết hợp interferon+ribavirin ngay sau khi được chẩn đoán.
Sau 3 tháng điều trị men gan giảm về trị số bình thường, khơng có dữ liệu về RNA HCV. Sau 6
tháng, RNA HCV là 62000 copies/mL và ALT=100U/L. Mặc dù RNA HCV có giảm đáng kể nhưng
khơng thể tính được mức độ giảm log do labo làm xét nghiệm đã khơng pha lỗng mẫu thử để có
được trị số của RNA HCV ở thời điểm ban đầu trước khi điều trị. Vào cuối quá trình điều trị, trị số
ALT trong giới hạn bình thường, RNA HCV tiếp tục giảm cịn 20000 copies/mL nhưng khơng hịan
tồn sạch virus. Sáu tháng sau điều trị, RNA HCV tăng trở lên 530.000 copies /mL và ALT tăng lên
112U/L.
Vào thời điểm bệnh nhân được đưa vào theo dõi đánh giá này, RNA HCV > 1 triệu copies /mL.
Bác sĩ điều trị và bệnh nhân thảo luận về khả năng đạt SVR bằng cách tái điều trị với
peginterferon+ribavirin. Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cưú tái điều trị và được bắt thăm ngẫu
nhiên nhận peginterferon alfa 2b 1.0ug/kg và ribavirin 1000 – 1200 mg/ngày. Vào tuần 12, RNA
HCV của bệnh nhân giảm > 2-log, trị số tuyệt đối <1000 copies / mL. Vào tuần 24 RNA âm tính và
tiếp tục âm đến tuần thứ 72 sau điều trị.
Trong quá trình điều trị bệnh nhân có các tác dụng phụ của điều trị kết hợp thuốc như mệt mỏi,
trầm cảm, thiếu máu và nổi mẫn. Bệnh nhân từ chối sử dụng thuốc chống trầm cảm và kết thúc
liệu trình điều trị chỉ với việc giảm liều nhỏ và tạm thời ribavirin do thiếu máu. Sau đó các triệu
chứng của phản ứng phụ thuyên giảm sau khi ngưng điều trị và bệnh nhân cảm giác khỏe suốt
giai đoạn theo dõi sau quá trình điều trị.
Bàn
luận: tái điều trị cho những trường hợp điều trị thất
bại
Một số lớn những trường hợp không đáp ứng với interferon+ribavirin hoặc những trường
hợp tái phát có thể có cơ hội sạch virus với liệu pháp peginterferon+ribavirin nhờ hiệu quả cải
thiện của pegylated interferon. Đã có một số nghiên cứu về tái điều trị với peginterferon+ribavirin
đối với những trường hợp điều trị ban đầu không đáp ứng hoặc tái phát. Những nghiên cứu này
có đặc điểm là khơng đồng nhất trong thiết kế nghiên cứu, đặc biệt ở liều thuốc sử dụng. Những
dữ liệu có được từ những nghiên cứu này cho thấy rõ ràng peginterferon+ribavirin có thể làm sạch
virus trên một số đáng kể những người trước đó khơng đáp ứng với điều trị (25-40%), mặc dù là tỷ
www.drthuthuy.com/reseach/TaiDTPegRiv.htm
1/3
14:48, 21/10/2022
Tái điều trị với Peginterferon+Ribavirin: niềm hy vọng của những trường hợp không đáp ứng với điều trị
lệ SVR thấp. Điều này liên quan với tỷ lệ lớn các trường hợp tái phát sau 12 tháng điều trị, một tỷ
lệ cao hơn tỷ lệ được ghi nhận trong các thử nghiệm lâm sàng lớn điều trị cho những bệnh nhân
chưa được điều trị trước đó. Những kết quả tốt hơn được ghi nhận trong nhóm tái phát với điều trị
kết hợp trước đó.
Jacobson và cộng sự thực hiện một nghiên cứu tái điều trị những bệnh nhân hoặc không đáp ứng
hoặc tái phát sau điều trị interferon+ribavirin cũng như cho một nhóm nhỏ bệnh nhân khơng đáp
ứng với đơn trị liệu interferon. Bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên hoặc điều trị bằng
peginterferon alfa 2b 1.0ug/kg QW với ribavirin 1000 – 1200 mg /ngày hoặc peginterferon alfa 2b
1.5ug/kg QW với ribavirin 800 mg /ngày. Mọi bệnh nhân được điều trị 48 tuần và theo dõi 24 tuần.
Nghiên cứu thực hiện trên 321 bệnh nhân, dữ liệu SVR có được trên 306 bệnh nhân.
Kết quả được Jacobson trình bày ở hội nghị hàng năm AASLD Boston lần thứ 53 (1-5 tháng 11
năm 2002) cho biết các bệnh nhân nhiễm genotype 1 (n=198) không đáp ứng với điều trị kết hợp
trước đó đã đạt được tỷ lệ đáp ứng cao với liều peginterferon cao hơn. Tuy nhiên vào cuối giai
đoạn theo dõi 24 tuần, tỷ lệ bệnh nhân đạt SVR thấp, khơng có sự khác biệt thống kê giữa nhóm
peginterferon alfa 2b 1.0ug/kg và peginterferon alfa 2b 1.5ug/kg (5% so với 9% tương ứng) . Tỷ lệ
9% với peginterferon liều cao tương tự kết quả của các nghiên cứu khác đã làm trước đây.
Những người không đáp ứng bị nhiễm genotype khơng phải 1 (n=17) cũng có tỷ lệ SVR thấp: kết
quả chính xác là 25% đối với liệu pháp peginterferon liều thấp và 13% đối với liệu pháp
peginterferon liều cao. Các dữ liệu này xác định rằng các genotype 2 và 3 có sự đề kháng thực
sự, trong nhóm đánh giá tiêu biểu sự nhạy cảm đối với điều trị.
Đối với tất cả các genotypes, trị liệu kết hợp áp dụng cho những người bị tái phát (n=49) đạt tỷ lệ
SVR khá hơn. 44% các trường hợp bệnh nhân được cho liều cao peginterferon đã đạt được SVR,
so với nhóm bệnh nhân được cho liều thấp peginterferon là 35% đạt được SVR (P=NS). Tỷ lệ đạt
SVR của những bệnh nhân không đáp ứng với đơn trị liệu interferon (n=42) là thấp nhất: kết quả
chính xác là 24% các trường hợp bệnh nhân được cho liều thấp peginterferon và 14% các trường
hợp bệnh nhân được cho liều cao peginterferon (P=NS).
Một vài nghiên cứu khác về tái điều trị cũng được trình bày ở hội nghị hàng năm AASLD Boston
lần thứ 53. Krawitt và cộng sự trình bày các số liệu cho biết tỷ lệ SVR là 16% ở những người
khơng có đáp ứng ban đầu nhiễm genotype – 1 và 51% ở những người tái phát nhiễm genotype –
1 tái điều trị với peginterferon alfa 2b 100ug (<75kg) hoặc 150ug (>75kg) QW kết hợp với ribavirin
1000mg/ngày Trong số những người không có đáp ứng ban đầu với tái điều trị interferon/ribavirin
điều trị với peginterferon alfa 2b 1.5ug/kg kết hợp với ribavirin 1000mg – 1200mg/ngày trong 12
tuần, được điều trị tiếp sau đó bằng peginterferon alfa 2b 1.0ug/kg kết hợp với ribavirin 800mg
/ngày trong 36 tuần, Lawitz báo cáo rằng tỷ lệ SVR là 9% (EJ Lawitz, personal communication;
November, 2002) tương tự với báo cáo của Jacobson và cộng sự trên những người khơng có đáp
ứng ban đầu được tái điều trị với peginterferon alfa 2b 1.5ug/kg kết hợp với ribavirin 1000mg –
1200mg/ngày trong 12 tuần, rồi sau đó tiếp tục bằng peginterferon alfa 2b 1.0ug/kg kết hợp với
ribavirin 800mg /ngày trong 36 tuần. Một ý tưởng quan trọng mà nghiên cứu này tìm ra được là đối
với những người khơng có đáp ứng ban đầu mà có giảm HCV RNA > 1-log trong giai đoạn khởi
đầu của điều trị thì có khả năng đáp ứng với điều trị kết hợp interferon/ ribavirin cao hơn rất nhiều
so với những người khơng có đáp ứng ban đầu mà giảm HCV RNA < 1-log 47. Tỷ lệ SVR 9%
cũng tương tự như báo cáo của Freilich và cộng sự về những người khơng có đáp ứng ban đầu
được tái điều trị với peginterferon alfa 2b 1.0ug/kg + ribavirin 800mg /ngày + amantadine. Một tỷ lệ
www.drthuthuy.com/reseach/TaiDTPegRiv.htm
2/3
14:48, 21/10/2022
Tái điều trị với Peginterferon+Ribavirin: niềm hy vọng của những trường hợp không đáp ứng với điều trị
gần như vậy, 11% cũng được Shiffman báo cáo ở những người khơng có đáp ứng ban đầu được
tái điều trị với peginterferon alfa 2a 180ug + ribavirin 1000 - 1200mg /ngày. Trong một số các
nghiên cứu, các người tái phát sau điều trị ban đầu đã cho thấy tỷ lệ SVR cao hơn những người
khơng đáp ứng có liên quan với tái điều trị bằng các phác đồ khác nhau có peginterferon
(38%-68%).
Các liều cao hơn của peginterferon/ribavirin có thể làm khả quan hơn kết quả trong nhóm những
người khơng đáp ứng được tái điều trị bằng interferon/ribavirin. Thử nghiệm RENEW so sánh các
phác đồ peginterferon alfa 2b 0.5, 1.5 và 3.0ug/kg QW+ ribavirin 12 - 15mg/kg/ngày. Lý luận cho
nghiên cứu này dựa trên sự phân tích hồi cứu các dữ kiện của những thực nghiệm peginterferon
alfa 2b/ribavirin trên những bệnh nhân chưa được điều trị đã gợi ý cho thấy tương quan hiệu quả
đáp ứng và liều sử dụng điều trị đối với cả hai interferon và ribavirin. Các phác đồ liều thấp cuối
cùng đã chấm dứt khi FDA công nhận liều 1.5ug/kg là điều trị chuẩn cho các bệnh nhân chưa từng
điều trị. Các dữ kiện trước đây được Gross và cộng sự báo cáo cho thấy rằng tỷ lệ đáp ứng sau
24 tuần là 53% đối với phác đồ điều trị 3.0ug/kg peginterferon so với 39% của phác đồ điều trị
1.5ug/kg peginterferon.
Kết luận
Trường hợp lâm sàng này chứng tỏ rằng việc tái điều trị mang lai kết quả khả quan về
virus học đối với các bệnh nhân đã không đáp ứng hoặc thất bại sau điều trị ban đầu. Những bệnh
nhân không đáp ứng với đơn trị liệu interferon và chưa điều trị bằng ribavirin thì nên tái điều trị
bằng peginterferon (tốt hơn là nếu dùng interferon) + ribavirin tuy là chưa đủ cơ sở dữ liệu để so
sánh. Những bệnh nhân bị tái phát sau điều trị kết hợp nên được điều trị bằng
peginterferon/ribavirin căn cứ trên những dữ liệu có triển vọng của việc tái điều trị. Điều quan trọng
nhất, những bệnh nhân không đáp ứng với điều trị kết hợp interferon/ribavirin ban đầu cũng có thể
điều trị bằng peginterferon/ribavirin, nhất là những bệnh nhân có kết quả mơ học xơ gan tiến triển
và/hoặc có giảm lượng virus đáng kể (>1-log) sau điều trị ban đầu. Tuy nhiên cần giải thích cho
các bệnh nhân rằng các dữ liệu nêu trên cho thấy khả năng đạt SVR là thấp, và quyết định về điều
trị đối với từng người cần được xem xét trong suốt thời gian điều trị. > 48 tuần điều trị có thể đủ
cho những bệnh nhân có đáp ứng tốt với điều trị, và nói chung thì thời gian điều trị cịn tùy vào kết
quả nghiên cứu điều trị trong 18 – 24 tháng ở cộng đồng. Liều peginterferon dùng có thể tăng cao
hơn, nhưng việc này cũng tùy vào kết quả của nghiên cứu RENEW.
Ghi chú:
_QW: 1 lần mỗi tuần
_SVR: tỉ lệ đáp ứng virus lâu dài
www.drthuthuy.com/reseach/TaiDTPegRiv.htm
3/3