Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

DỊCH tể học và VIỆC PHÒNG NGỪA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN b CHÚNG TA ĐANG ở đâu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.94 KB, 7 trang )

14:58, 21/10/2022

DỊCH TỂ HỌC VÀ VIỆC PHÒNG NGỪA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B: CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU ?

Home Page

|

Tài liệu chuyên môn

|

Bạn cần biết
hệ

|

Thông tin hội nghị

|

Liên

 

DỊCH TỂ HỌC VÀ VIỆC PHÒNG NGỪA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN  B:
CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU ?
1. Việc thực hiện đầy đủ chương trình tiêm chủng rộng khắp cho trẻ em đã giảm nhiều
nguy cơ của tỉ lệ người mang bệnh mạn tính. Rồi sau đó nó sẽ làm giảm tỉ lệ bệnh gan
mạn tính và ung thư gan nguyên phát HCC (HCC: hepatocellular carcinoma)



2. Chương trình tiêm chủng hiện tại khơng đạt  được một sử kiểm soát hiệu quả đối
với việc nhiễm virus  viêm gan B. Sự thất bại của chủng ngừa có thể xảy ra ở những
đứa trẻ được sanh bởi những bà mẹ có nồng độ virus trong máu cao hay lây nhiễm
khi mang thai. 1.Những cá thể có tổn thương miễn dịch cũng có thể khơng đáp ứng
với vaccin và dễ bị nhiễm viêm gan virus B ở thời kỳ sau việc chủng ngừa vaccin xin
phổ biến.


3.Những đột biến sẽ biểu hiện sau khi thực hiện chương trình tiêm chủng phổ biến;
tuy nhiên, điều đó thì khơng gây nên một ảnh hưởng báo động tại thời điểm hiện nay.


4.Do không tăng nguy cơ của nhiễm viêm gan virus B mạn ở những trẻ em có miễn
dịch phù hợp, nên chương trình tiêm chủng hỗ trợ phổ biến khơng có chỉ định. Tuy
nhiên, những liều hỗ trợ có thể đem đến một nồng độ tương xứng bởi vì đặc tính qn
của miễn dịch.



Qua hình minh họa này chúng ta thấy địa phương có tỉ lệ nhiễm siêu vi B cao thì tỉ lệ ung thư
gan nguyên phát cao

www.drthuthuy.com/reseach/DichTeHocVGB.html

1/7


14:58, 21/10/2022


DỊCH TỂ HỌC VÀ VIỆC PHÒNG NGỪA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B: CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU ?

I.CHƯƠNG TRÌNH TIÊM CHỦNG MỞ RỘNG CHO TRẺ
EM
Chương trình tiêm chủng quốc gia một cách phổ biến viêm gan virus B rộng khắp toàn
quốc lần đầu tiên cho trẻ em đã được thực hiện ở Đài Loan vào tháng 7, 1984. việc
chủng ngừa bao gồm cả những trẻ mới sinh có mẹ mang HBsAg từ tháng 7, 1984 đến
tháng 6 năm 1986, áp dụng cho tất cả những trẻ mới sinh từ tháng 7 năm 1986, và
sau đó đến những trẻ trước khi đến trường từ tháng 7 năm 1987 đến tháng 6 năm
1988. Nó đã được mở rộng hơn nữa đến những trẻ em đã đến trường, trẻ thiếu niên,
và sau đó áp dụng cho cả người trưởng thành từ 1988 đến 1990. Từ 1991, chương
trình tiêm ngừa ghi nhận những trẻ em tiểu học đã được theo dõi và những em không
chủng ngừa hay những em không chủng ngừa đầy đủ được chủng ngừa HBV lại.
Trước tháng 7 năm 1992, 4 lần của vắc xin có nguồn gốc huyết thanh (Hevac B;
Pasteur Me rieux, Lyon, Pháp, hay …, vắc xin viêm gan B Lifeguard; Hsin- Chu, Đài
Loan) được sử dụng ở thời điểm 0, 1, 2 và 12 tháng tuổi. Sau tháng 7 năm 1992, ba
liều vắc xin tái tổ hợp H-B – Vax II (5 cmg/ 0,5 ml; Merck Sharp & Dohme, Rahway,
NJ) hay Engerix- B (20 cmg/ 1 ml; SmithKline Beecham, Rixensart, Bỉ) được sử dụng
tại thời điểm dưới 1 tuần tuổi, 1 tháng và 6 tháng. Thêm vào đó là miễn dịch chủ động
của vắc xin HBV, miễn dịch thụ động với globulin miễn dịch viêm gan virus B (HBIG)
có thể trung hịa HBV bị lây truyền từ mẹ sang trong giai đoạn sinh. HBIG 0,5 ml (100
IU) phải dùng trong 24 h sau sinh. HBIG được dùng trong 24h sau sinh đối với trẻ sơ
sinh bị viêm gan virus B có kháng ngun e dương tính (HBe Ag) hay mức độ cao
HBsAg (nồng độ qua lại > 1:1256 bởi kiểm tra hemagglutination thụ động đảo ngược)
mà những bà mẹ mang khi bắt đầu của chương trình này.
Ba phương pháp chính về miễn dịch phịng bệnh phổ biến được dùng trên toàn thế
giới hiện nay, phụ thuộc vào tỉ lệ nhiễm HBV và các nguồn kinh phí của các nước. (1)
những phụ nữ mang thai không được sàng lọc về HBsAg và HBeAg huyết thanh. Tất
cả những đứa trẻ được nhận 3 liều (tại thời điểm 0, 1 và 6 tháng tuổi) vắc xin HBV tái
tổ hợp. Đây là một chương trình cung cấp một hiệu quả vừa phải với một chi phí thấp.

Thái Lan là một nước có tỉ lệ nhiễm viêm gan virus B thấp/ vừa phải, là một thí dụ cho
việc áp dụng kế hoạch này. (2) những phụ nữ mang thai đã được sàng lọc về huyết
thanh HBsAg. Những đứa trẻ có mẹ ở nguy cơ cao với HBeAg (+) được nhận HBIG
trong 24h sau sinh cộng thêm việc chích ngừa vắc xin. Tất cả trẻ em được n hận 3 liều
(lúc 0, 1, và 6 tháng tuổi)vắc xin HBV tái tổ hợp. Tất cả những vắc xin và HBIG dùng
cho những trẻ em được sự chi trả bởi chính phủ. Kế hoạch này bảo vệ giá trị sàng lọc
HBeAg ở người mẹ nhưng gia tăng sự đắt tiền của HBIG mà nó thì đắt hơn nhiều so
với vắc xin. Kế hoạch này được áp dụng thích hợp ở Mỹ, nơi là một đất nước giầu có
với tỉ lệ mắc HBsAg thấp. (3) Để giảm giá tiền, HBIG được dùng đối với những trẻ em
sơ sinh có mẹ có cả HBsAg và HBeAg dương tính ở Đài Loan. Điều này là do Đài
Loan là vùng dịch tể cao và tỉ lệ mang HBsAg ở phụ nữ có thai thì cao khoảng 15%.
Kế hoạch này chỉ đem lại một miễn dịch thụ động cho những đứa trẻ có mẹ có lượng
virus cho máu cao, và kế hoạch này đang đem lại dần dần sự tự chuyển biến tốt lên
đến hiện nay.
www.drthuthuy.com/reseach/DichTeHocVGB.html

2/7


14:58, 21/10/2022

DỊCH TỂ HỌC VÀ VIỆC PHÒNG NGỪA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B: CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU ?

Một yếu tố ngun tắc cho một chương trình tiêm chủng thành cơng là tỉ lệ được chích
ngừa. Chúng tơi xem tỉ lệ được chích ngừa vắc xin là tỉ lệ phần trăm trẻ em nhận đủ 3
liều hay nhiều hơn vắc xin HBV. Tiền sử chích ngừa được xác minh bởi việc kiểm tra
thẻ chích ngừa, tiểu sử lấy từ cha mẹ, và những ghi chép từ trung tâm sức khỏe, Đài
Loan thông qua những phương cách trên và những kiểm tra tỉ mỉ bởi hệ thống sức
khỏe cộng đồng nên tỉ lệ chích ngừa đủ vắc xin HBV thì cao khoảng 97% vào thời
điểm hiện nay. Sự thay đổi trong tương lai của vùng châu Á Thái bình dương có thể

nâng quỹ kinh phí đủ để tài trợ cho chương trình tiêm chủng vắc xin rộng khắp cho
các trẻ em và giữ tỉ lệ chích ngừa ở tỉ lệ cao.

II.TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH TIÊM CHỦNG
PHỔ BIẾN
Theo sau việc thực hiện thành công lần đầu tiên trên thế giới về chương trình tiêm
chủng vắc xin HBV phổ biến cho các trẻ em ở Đài Loan 20 năm trước, chúng tối đã
thực hiện những điều tra dịch tể học về huyết thanh để đánh giá sự bảo vệ lâu dài có
đủ khơng đối với vắc xin HBV và để đưa ra những hành động phù hợp cho các kế
hoạch phòng ngừa trong tương lai. Những nghiên cứu này đã được thực hiện mỗi 5
năm từ 1984, trước cả khi bắt đầu chương trình vắc xin phổ biến cho trẻ em. Những
maker huyết thanh của HBV, bao gồm kháng nguyên bề mặt viêm gan virus B (HBsAg)
và kháng thể đối với HBsAg (anti- HBs) và kháng nguyên lõi (anti- HBc), được kiểm tra
từ những trẻ sơ sinh đến người trưởng thành dưới 30 tuổi trong mỗi nghiên cứu. Kết
quả theo nhóm tuổi đã được đánh giá bằng cách so sánh những kết quả của cùng
nhóm tuổi tại những thời kỳ khác nhau giữa những nghiên cứu 1984, 1989, 1994,
1999, và 2004.
Tỉ lệ huyết thanh HBsAg giảm từ khoảng 10% đến 0,6% ở những trẻ em dưới 15 tuổi
tại thành phố Taipei trong suốt 2 thập niên qua. Những tỉ lệ huyết thanh dương tính đối
với HBsAg, anti- HBs và anti- HBc là 1,2%, 50,5% và 3,7%, ở những trẻ được sinh ra
sau chương trình vắc xin (< 20 tuổi) vào năm 2004.
Tỉ lệ nhiễm tồn bộ (ví dụ cả nhiễm mạn tính và cấp tính và được xác định bằng antiHBc dương tính) đã giảm. Huyết thanh dương tính đối với anti- HBc đã giảm từ 38%
xuống cịn 16% và thậm chí sau này còn giảm xuống 4,6% ở những trẻ em được kiểm
tra 15 năm sau chương trình. Chương trình vắc xin đã thật sự giảm cả sự truyền
nhiễm trong quá trình sinh đẻ và sự lây nhiễm ngang của HBV.
Một nghiên cứu phối hợp rộng khắp toàn quốc được thực hiện ở Đài Loan để điều tra
quy luật nhiễm HBV ở những suy gan nặng nề (FHF: fulminant hepatic failure) của trẻ
em sau khi thực hiện việc tiêm chủng HBV phổ biến. Trẻ em một tháng tuổi đến 15 tuổi
và được chẩn đoán là FHF từ 1985 đến 1999. Nhiễm HBV (HBsAg và/ hay IgM antiHBc huyết thanh dương tính) được ghi nhận là 46% trong tất cả những trường hợp
FHF. Tỉ lệ mắc tự nhiên trung bình của FHF ở trong giai đoạn 1985 đến 1999 là 0,053/

100.000 trong nhóm này và 1,29/100.000 ở những bệnh nhân này mà dưới 1 tuổi. Xấp
xỉ 61% của tất cả các trường hợp FHF là < 1 tuổi, trong đó 74% của những bệnh nhân
bị FHF có HBV dương tính đã được tiêm chủng. Trong 15 năm đầu của việc tiêm
www.drthuthuy.com/reseach/DichTeHocVGB.html

3/7


14:58, 21/10/2022

DỊCH TỂ HỌC VÀ VIỆC PHÒNG NGỪA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B: CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU ?

chủng phổ biến, HBV đã trở nên một nguyên nhân hiếm của FHF ở trẻ em > 1 tuổi
nhưng vẫn là một nguyên nhân có ý nghĩa gay FHF ở những trẻ nhỏ (< 1 tuổi). FHF
liên quan đến HBV có xu hướng phát triển ở những trẻ được sinh ra ở những bà mẹ
mang HBsAg và có HBeAg âm tính; những đứa trẻ này khơng nhận được HBIG theo
chương trình tiêm chủng ở Đài Loan. Tỉ lệ tử vong ở những trẻ em FHF đã giảm từ
5,1/ 100.000 ở những trẻ được sinh ra trước chương trình tiêm chủng xuống cịn 1,71/
100.000 ở những trẻ sinh sau chương trình tiêm chủng ở Đài Loan.
Để đánh giá hiệu quả của chương trình trong việc diễn tiến của ung thư gan nguyên
phát (HCC), chúng tối đã nghiên cứu tỉ lệ mắc HCC ở trẻ em ở Đài Loan từ 1981 đến
1994. Tỉ lệ mắc bệnh tự nhiên trung bình của HCC ở trẻ em từ 6 đến 14 tuổi đã giảm
từ 0,70/ 100.000 trẻ từ giữa năm 1981 đến 1986 xuống còn 0,57 từ giữa 1986 đến
1990 và xuống còn 0,36 từ giữa 1990 đến 1994 (P< 0,01). Tỉ lệ mắc HCC ở trẻ em từ
6 đến 9 tuổi giảm từ 0,52/ 100.000 ở những trẻ sinh từ giữa 1974 và 1984 xuống còn
0,13 ở những trẻ sinh giữa 1984 và 1986 (P< 0,001). Sau cùng, chúng tôi mở rộng
đến giai đoạn sau đến năm 2000. Tỉ lệ mắc HCC trên 100.000 trẻ em giảm từ 0,54
xuống còn 0,20 ở những trẻ được sinh trước và sau chương trình tiêm chủng vắc xin
(R.R.= 0,36). Điều này đã xác minh việc tiêm chủng vắc xin HBV phổ biến đã giảm
được tỉ lệ mắc HCC ở trẻ em.


III.VIỆC THẤT BẠI CỦA TIÊM CHỦNG
Tình trạng HbsAg của người mẹ dương tính đã được tìm thấy ở 89% những cá thể có
huyết thanh dương tính với HbsAg được sanh sau chương trình tiêm chủng. HbsAg
của người mẹ được tìm thấy dương tính ở 97% ở những trẻ bị FHF có nhiễm HBV.
Mặc dù thành cơng trong việc tạo miễn dịch đối với viêm gan virus B, nhưng HCC ở
trẻ em vẫn khơng có khả năng được loại bỏ hồn tồn bởi chương trình tiêm chủng
phổ biến. Việc truyền nhiễm HBV từ mẹ sang con thì là một yếu tố quan trọng của việc
phát triển HCC. Điều này đã được chứng minh bằng tỉ lệ rất cao HbsAg huyết thanh
dương tính ở những đứa trẻ của chúng tơi bị HCC (97%) và mẹ của chúng (96%).
Một lượng virus cao trong máu người mẹ có thể là một nguyên nhân cho việc thất bại
của vắc xin, đặc biệt đối với việc lây truyền trong quá trình sanh đẻ. Một vài nghiên
cứu trong quy mô nhỏ đã thử hủy bỏ việc lây truyền từ mẹ sang con bằng cách sử
dụng những chất chống virus ở tam cá nguyệt thứ ba của thai kỳ. Tuy nhiên, kết quả
thì khơng chắc được giải quyết. Nó cũng đem rất nhiều tranh cãi do đưa cho một phụ
nữ có thai một loại thuốc khơng được chứng minh an tồn. Một vấn đề khác là chúng
tơi khơng có khả năng xác định được “lượng virus máu cao”. Thế nào là mức báo
động về lượng virus trong máu của người mẹ để nguy cơ đứa trẻ mới sinh dễ có khả
năng bị trở thành là một người mắc bệnh mạn tính? Khi chúng tơi thiết lập được một
mức báo động về lượng virus trong máu của sản phụ thì chúng tơi sẽ xử lý chúng như
thế nào? Những câu hỏi then chốt này vẫn chưa có được trả lời tại thời điểm này.
Những trẻ mới sinh có kháng nguyên HbsAg trong máu thì được coi như đã bị nhiễm
trong thời gian mang thai. những đứa trẻ này được sinh ra ở những bà mẹ với lượng
virus trong máu cao, nó được đại diện bằng HbeAg dương tính. Từ 1984 đến 1993,
www.drthuthuy.com/reseach/DichTeHocVGB.html

4/7


14:58, 21/10/2022


DỊCH TỂ HỌC VÀ VIỆC PHÒNG NGỪA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B: CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU ?

665 trẻ mới sinh được sinh ra từ những bài mẹ mang HbeAg dương tính đã được
tuyển chọn cho nghiên cứu về sau. Những đứa trẻ mới sinh ra này đã được kiểm ntra
HbsAg ngay sau sinh, trước khi sử dụng HBIG. Tất cả những đứa trẻ mới sinh được
nhận HBIG trong 24 h sau sinh cộng thêm vắc xin viêm gan virus B theo sau. Vẫn có
2,4% (16/665) cá thể có huyết thanh dương tí với HbsAg lúc sanh, và tất cả đều bị
nhiễm HBV mạn tính. Kế hoạch phịng bệnh bằng miễn dịch hiện tại khơng bảo vệ
hồn tồn cho những trẻ có nguy cơ cao đối với việc nhiễm từ trong tử cung mẹ (trong
quá trình mang thai) và hậu quả là ln nhiễm HBV mạn tính.
Tỉ lệ hiện hành và ý nghĩa thống kê lâm sàng của đột biến ở chuỗi xác định (amino
acids 121 -149) của HbsAg thì chưa được hiểu rõ, đặc biệt ở thời đại sau tiêm chủng.
Có thể một chương trình tiêm chủng phổ biến đã trở nên một động lực đẩy cho một
đột biến như thế biểu hiện không? Chúng tôi đã nghiên cứu những đột biến này ở
những đứa trẻ mang HbsAg trước và những trẻ 5 tuổi, 10 tuổi, 15 tuổi sau thời kỳ tiêm
chủng vắc xin phổ biến ở Đài Loan. Tỉ lệ hiện hành của đột biết chuỗi xác định ở
những trẻ HBV- DNA dương tính là 7,8% (8/103) vào 1984, đã gia tăng có ý nghĩa
thống kê lên 19,6% (10/51) vào năm 1989, đỉnh của nó là 28,1% (9/32) vào năm 1994,
và vẫn tồn tại là 23,1% (3/13) vào năm 1999; nó thì cao hơn ở những trẻ được tiêm
chủng đầy đủ so với những trẻ không được tiêm chủng (15/46 so với 15/53; p< 0,001).
Tuy nhiên, số lượng đột biến gây ra ở trẻ em từng nghiên cứu thì là ổn định ở giai
đoạn đầu từ 5- 10 năm nhưng giảm từ 10- 15 năm sau tiêm chủng vắc xin. Những đột
biến cịn lại có xu hướng xảy ra thường xuyên hơn ở vùng với vị trí ưa nứơc hơn
(140- 149) ở những trẻ đã tiêm chủng nhiều hơn những trẻ không tiêm chủng với sự
gây nhiễm khác nhau. Một chuỗi xác định thay đổi thì có một cơ hội thuận lợi cho việc
gây ra sự thất bại miễn dịch ở trẻ em nhưng không đe doạ đối với những kế hoạch
tiêm chủng vắc xin HBV hiện nay.
Một nhóm khác những cá thể, những trẻ dễ bị thất bại trong việc tiêm chủng là những
trẻ đã bị tổn thươg hệ miễn dịch. Thí dụ, những bệnh nhân chạy thận nhân tạo (renal

dialysis), những bệnh nhân ung thư máu (leukemia) đang điều trị hoá chất, những
bệnh nhân đã ghép với việc dùng thuốc ức chế miễn dịch trong thời gian dài. Tất cả
những trẻ này cần một phương pháp mạnh hơn và kiểm soát kỹ về nồng độ kháng thể
của chúng thậm chí với sự bao quát của chương trình tiêm chủng thích hợp ưu tiên.

IV.VIỆC HỖ TRỢ CĨ CẦN THIẾT KHÔNG?
Thế nào là sự bảo vệ bền vững của chương trình tiêm chủng vắc xin HBV ở trẻ em
phổ biến? Một liều nhắc lại thì cần thiết khơng? Chúng tôi đã đo lường anti- HBc,
HbsAg, và nồng độ anti- HBs trước và sau liều hỗ trợ 15 năm sau khi tạo miễn dịch ở
trẻ em lần đầu tiên với những vắc xin HBV có nguồn gốc huyết thanh ở 2 cohort của
những trẻ em 15 tuổi. Nhóm A bao gồm 78 trẻ, những trẻ được sinh ra với những bà
mẹ mang HbeAg dương tínhvà đã có được mức bảo vệ phát triển của anti- HBs (>=
10 mIU/ml). Nhóm B bao gồm 113 trẻ, gồm những trẻ có nồng đồ anti- HBs sau tiêm
chủng không được biết. Anti- HBs khơng được tìm thấy ở 29,9% ở nhóm A và 62,4%
ở nhóm B (p< 0,001). Sau một liều nhắc lại của vắc xin HB, 2,7% ở nhóm A và 3,3% ở
www.drthuthuy.com/reseach/DichTeHocVGB.html

5/7


14:58, 21/10/2022

DỊCH TỂ HỌC VÀ VIỆC PHÒNG NGỪA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B: CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU ?

nhóm B vẫn cịn anti- HBs âm tính. Một liều nhắc lại đã làm tăng đáp ứng huyết thanh
ở hầu hết các cá thể thậm chí cả 15 năm sau khi đã được tiêm chủng.
Đáp ứng miễn dịch đối với một vắc xin hỗ trợ HBV đã được đánh giá ở 872 học sinh
trung học, những trẻ có huyết thanh âm tính. Nồng độ anti- HBs và xét nghiệm đánh
dấu miễn dịch qua enzym để phát hiện HbsAg đặc hiệu, những tế bào đơn nhân tiết ra
interferon- (NFN- ) hay interleukin (IL)- 5 đã được đo 4 tuần sau khi có liều hỗ trợ. Sau

khi hỗ trợ, anti- HBs vẫn không phát hiện thấy ở 28,7% (158/551) cá thể đã được tiêm
chủng vắc xin HB đủ 4 liều lúc cịn nhỏ. Chúng tơi ước đốn có 10,1% trong tổng dân
số đã mất vắc xin HB của họ- việc đáp ứng của liều hỗ trợ cần cần bàn bạc. HbsAg
đặc hiệu, những tế bào đơn nhân tiết IFN- hay IL-5 vẫn âm tính ở 27,2% cá thể
(25/92) sau khi tiêm hỗ trợ.
Tuy nhiên, không có sự gia tăng HbsAg huyết thanh dương tính ở những tuổi khác
nhau trong cùng những nhóm tuổi được sanh sau chương trình tiêm chủng vắc xin có
ngụ ý là khơng có nguy cơ gia tăng việc nhiễm HBV mạn tính theo tuổi. Hơn nữa
những nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng nguy cơ để trở thành người mang
mầm bệnh mạn tính sau khi nhiễm HBV thì giảm một cách ấn tượng theo tuổi: 25% ở
những trẻ em trước khi đi học và 2,7% ở những sinh viên đại học. Tất cả những dữ
liệu trên cho thấy rằng một liều vắc xin hỗ trợ phổ biến có thể khơng cần thiết sau khi
đã tiêm chủng ban đầu.

V.SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHỮNG VẮC XIN MỚI
Bổ sung cho những vắc xin có nguồn gốc từ huyết thanh và những vắc xin tái tổ hợp
có nguồn gốc từ men đã có sẵn trên thị trường, có nhiều vắc xin mới đang trong phát
triển: bao gồm như sau: (1) những vắc xin tiền S/S có nguồn gốc từ tế bào CHO hay
nguồn gốc từ men: những báo cáo đầu tiên cho thấy một triển vọng những kết quả,
đặc biệt đối với những người đáp ứng thấp hay không đáp ứng với những vắc xin hiện
nay. (2) vắc xin từ DNA: điều này có thể khơng chỉ phát triển để gia tăng tính sinh
kháng thể mà còn dùng cho điều trị. (3) tạo miễn dịch bằng đường uống: như một
phương pháp tạo ra loại vắc xin dễ sử dụng hơn. Nhưng kết quả hiện nay cho thấy nó
khơng được hiệu quả như việc tiêm chủng thường quy. Tuy nhiên, điều này là một vấn
đề được xem xét. (4) nhiều vắc xin khác. Những vắc xin mới này có mục đích tạo tính
kháng ngun nhiều hơn để khắc phục vấn đề đối với những người không đáp ứng và
những cá thể bị tổn thương miễn dịch. Cho đến nay, vẫn chưa có những ứng dụng với
phạm vi rộng cho những vắc xin mới này.

VI.KẾT LUẬN

Tiêm chủng HBV phổ biến đem lại sự bảo vệ trong thời gian dài đến 20 năm, và một
việc nhắc lại hỗ trợ phổ biến thì khơng có chỉ định đối với những người tiêm chủng vắc
xin HBV ban đầu trước tuổi trưởng thành. Việc truyền từ mẹ sang con là nguyên nhân
đầu tiên đối với việc thất bại của chủng ngừa vắc xin và cần khắc phục trong những
chương trình tiêm chủng vắc xin trong tương lai. Điều này có thể bao gồm một kế
www.drthuthuy.com/reseach/DichTeHocVGB.html

6/7


14:58, 21/10/2022

DỊCH TỂ HỌC VÀ VIỆC PHÒNG NGỪA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B: CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU ?

hoạch sử dụng immunoglobulin viêm gan virus B thích hợp cho những trẻ nhỏ có nguy
cơ cao và địi hỏi cả những cố gắng giảm thiểu sự không đáp ứng. Sựi biểu hiện của
đột biến tự nhiên không đưa ra bất cứ một nguy cơ gia tăng nào về việc nhiễm mạn
tính tại thời điểm này. Thế hệ mới của những vắc xin chủng ngừa HBV thì có khả năng
tính kháng ngun cao hơn những vắc xin hiện nay và thuận lợi cho những người
không đáp ứng tốt với những vắc xin hiện nay.

Home Page

|

Tài liệu chuyên môn

|

Bạn cần biết


|

Thông tin hội nghị

|

Liên hệ

Copyright © 2005 Dr. Phạm Thị Thu Thủy - Khoa gan - Trung tâm Y khoa Tp. Hồ Chí Minh

www.drthuthuy.com/reseach/DichTeHocVGB.html

7/7



×