Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử vào giờ dạy nhằm hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.87 MB, 74 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bậc học mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân
có vai trị cực kỳ quan trọng đặt cơ sở nền tảng ban đầu cho việc hình thành và
phát triển nhân cách con người Việt Nam.
Theo Thông tư số: 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo: Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ
em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố
đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình thành và phát
triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính
nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát
triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp
theo và cho việc học tập suốt đời.
Trong đó chương trình giáo dục mẫu giáo nhằm giúp trẻ em từ 3 đến 6
tuổi phát triển hài hòa về các mặt thể chất, nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm, kỹ
năng xã hội và thẩm mỹ, chuẩn bị cho trẻ vào học ở tiểu học.
Ngay từ nhỏ chúng ta đã được làm quen với toán học. Việc hướng dẫn cho
trẻ làm quen với toán ngay từ tuổi mầm non là cơ hội giúp trẻ hình thành khả
năng quan sát, tư duy, so sánh, tìm tịi nhận biết thế giới xung quanh về số lượng,
kích thước, hình dạng, vị trí trong khơng gian giữa các vật so với nhau, đồng thời
giúp trẻ giải quyết được nhiều vướng mắc trong cuộc sống.
Hình thành biểu tượng tốn cho trẻ mẫu giáo là mơn học địi hỏi độ chính
xác cao. Muốn làm tốt việc này trước hết đòi hỏi người giáo viên phải có tâm
huyết với nghề say sưa suy nghĩ, tìm tịi, chu đáo, tỉ mỉ, sáng tạo hướng dẫn trẻ
tham gia vào hoạt động một cách khoa học để trẻ nắm bắt hình thành kĩ năng học
tập đối với mơn làm quen với biểu tượng tốn sơ đẳng.
Hình học là một trong những nội dung cơ bản trong tốn học. Vì vậy, ngay
từ tuổi mầm non trẻ cần được hình thành những biểu tượng ban đầu về hình học.



2

Muốn vậy giáo viên cần cung cấp cho trẻ biểu tượng sơ đẳng về hình hình học,
nhằm trang bị cho trẻ kiến thức cần thiết như: tính diện tích, chu vi của hình hình
học khi bước vào trường phổ thơng.
Hiện nay các trường mầm non có điều kiện đầu tư trang thiết bị ti vi, đầu
video, xây dựng phòng đa năng với hệ thống máy tính và máy chiếu nối mạng
internet. Một số trường còn trang bị thêm máy quay phim, chụp ảnh tạo điều
kiện cho giáo viên mầm non có thể ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào giảng dạy.
Qua đó người giáo viên mầm non khơng những phát huy được tối đa khả năng
làm việc của mình mà còn trở thành một người giáo viên năng động, sáng tạo và
hiện đại, phù hợp với sự phát triển của người giáo viên nhân dân trong thời đại
công nghệ thông tin.
Nếu trước đây giáo viên mầm non phải rất vất vả để có thể tìm hiểu những
hình ảnh, biểu tượng, đồ dùng phục vụ bài giảng thì hiện nay với ứng dụng cơng
nghệ thơng tin giáo viên có thể sử dụng internet để chủ động khai thác tài
nguyên giáo dục phong phú, chủ động quay phim chụp ảnh làm tư liệu cho bài
giảng điện tử.
Chỉ cần vài cú “nhấp chuột” là hình ảnh những con vật ngộ nghĩnh, những
bơng hoa đủ màu sắc, những hàng chữ biết đi và những con số biết nhảy theo
nhạc hiện ngay ra với hiệu ứng của những âm thanh sống động ngay lập tức thu
hút được sự chú ý và kích thích hứng thú của trẻ vì được chủ động hoạt động
nhiều hơn để khám phá nội dung bài giảng.
Dựa vào đặc điểm nhận thức của lứa tuổi mầm non là chóng nhớ mau
quên trẻ lĩnh hội kiến thức là nhờ phương pháp truyền đạt của cơ song để tạo ấn
tượng cho trẻ thì phải thông qua giáo án điện tử.
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận vào thực tiễn, chúng tơi quyết định chọn đề
tài: “Thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử vào giờ dạy nhằm hình thành biểu
tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo” làm đề tài nghiên cứu cho mình.



3

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận về việc thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử vào
giờ dạy nhằm hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo.
- Xác định rõ cơ sở khoa học của việc thiết kế bài giảng điện tử vào giờ
dạy nhằm nâng cao hiệu quả hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Thiết kế một số giáo án điện tử nhằm nâng cao hiệu quả hình thành biểu
tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo.
- Đề tài là tài liệu tham khảo cần thiết cho sinh viên ngành Giáo dục mầm
non và giáo viên mầm non quan tâm đến vấn đề thiết kế giáo án điện tử nhàm
nâng cao hiệu quả hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử vào giờ dạy nhằm hình thành biểu
tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn và lí luận của đề tài.
- Thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử vào giờ dạy nhằm hình thành biểu
tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
-Thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử vào giờ dạy nhằm hình thành biểu
tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử
vào giờ dạy nhằm hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo tại Trường

Mầm Non Hùng Vương - Thị xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ.


4

6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
- Nhóm phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp nhằm đưa ra vấn đề
nghiên cứu một cách tổng quát nhất.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát
- Quan sát hiệu quả việc giáo vên sử dụng bài giảng điện tử vào giờ dạy
nhằm hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo.
6.2.2. Phương pháp đàm thoại
- Đàm thoại với giáo viên để điều tra những khó khăn, hạn chế mà giáo
viên gặp phải trong việc thiết kế cũng như sử dụng bài giảng điện tử vào giờ dạy
nhằm hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo.
- Đàm thoại với trẻ để tìm hiểu việc nắm được các biểu tượng hình dạng
qua việc giảng dạy bằng bài giảng điện tử của giáo viên.
6.2.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu anket
Bằng hệ thống câu hỏi điều tra nhận thức của giáo viên, cán bộ quản lí
mầm non về thực trạng thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử vào giờ dạy nhằm
hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo.
6.2.4. Phương pháp thử nghiệm sư phạm
Sử dụng phương pháp thử nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra tính đúng đắn,
khoa học của việc thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử vào giờ dạy nhằm hình
thành biểu tượng hình dạng.


5


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm biểu tượng
Biểu tượng là một khái niệm, một phạm trù được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu. Tùy theo góc độ nghiên cứu của các nhà khoa học khác nhau mà
khái niệm “biểu tượng” cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng Mac- Lênin thì biểu
tượng là một hình ảnh của khách thể đã được tri giác, cịn lưu lại trong bộ óc con
người và do một tác động nào đó được tác động, nhớ lại. Từ những tri giác nhận
thức cảm tính chuyển sang nhận thức cao hơn đó chính là biểu tượng.
Theo quan điểm của các nhà tâm lí học thì khái niệm biểu tượng đưa ra
như sau. Biểu tượng là những hình ảnh của sự vật hiện tượng nảy sinh ra trong
óc khi sự vật hiện tượng ấy khơng cịn tác động vào các giác quan của ta như
trước. Các nhà tâm lí học cịn chỉ rõ: Biểu tượng là sản phẩm của q trình trí
nhớ và tưởng tượng. Biểu tượng làm hiện ra trong óc cá nhân một cách nguyên
vẹn hoặc có sáng tạo những biểu tượng của sự vật này hay hình tượng mà tri giác
được trước kia mặc dù khơng có những thuộc tính cụ thể của các sự vật, hiện
tượng đó tác động trực tiếp vào các cơ quan cảm giác. Biểu tượng là kết quả của
sự chế biến và tổng quát những hình ảnh tri giác đã tạo ra.
Từ những khái niệm trên chúng tôi quan niệm: Biểu tượng là những hình
ảnh của sự vật hiện tượng được tái hiện lại trong não bộ của ta khi ta khơng cịn
được tri giác trực tiếp sự vật hiện tượng ấy.
Biểu tượng hình dạng của trẻ mẫu giáo chính là biểu tượng của tri giác. Do
đó: tri giác chính là cơ sở tạo nên những biểu tượng và phải có sự tri giác hình dạng


6


thì mới có biểu tượng hình dạng. Hoạt động tri giác phải được tri giác kĩ lưỡng,
chính xác và tổng thể thì biểu tượng mới được hình thành trọn vẹn và chuẩn xác.
1.1.2. Khái niệm về biểu tượng hình dạng
Hình hình học là một tập hợp các điểm.
Như vậy hình hình học được cấu tạo từ tập hợp các điểm, do đó một điểm
cũng có thể coi là một hình hình học.
Khái niệm về các hình hình học được hình thành nhờ sự trừu tượng đồng
nhất trong đó có cơ sở là quan hệ tương đương. Nhờ quan hệ này tập hợp các
hình hình học, các vật thể được chia ra thành từng lớp tương đương. Bất kì 2
hình nào, 2 vật thể nào thuộc 1 lớp thì có hình dạng giống nhau.
Lớp của các hình, các vật thể đồng dạng về hình gọi là hình dạng.
1.2. Đặc điểm quá trình phát triển nhận thức của trẻ mầm non
1.2.1. Đặc điểm chung của sự phát triển tư duy của trẻ
1.2.1.1. Trẻ 3- 4 tuổi
Ở tuổi ấu nhi, hầu hết trẻ em đều rất tích cực họat động với đồ vật, nhờ đó
trí tuệ, đặc biệt tư duy phát triển khá mạnh. Lúc này trẻ đã bắt đầu giải các bài
toán thực tế, nhưng q trình giải đó khơng diễn ra trong óc mà diễn ra bằng tay
theo phương thức “thử và có lỗi”, được gọi là tư duy bằng tay hay tư duy trực
quan hành động. Nói cho đúng hơn đây chỉ là những hành động định hướng bên
ngoài, làm tiền đề cho sự hình thành những hành động định hướng bên trong, tức
là giúp trẻ giải các bài toán trong óc- tư duy.
Đến tuổi mẫu giáo, tư duy của trẻ có một bước ngoặt rất cơ bản. Đó là sự
chuyển tư duy từ bình diện bên ngồi vào bình diện bên trong mà thực chất là việc
chuyển những hành động định hướng bên ngoài thành những hành động định hướng
bên trong theo cơ chế nhập tâm. Quá trình tư duy của trẻ đã bắt đầu dựa vào


7


những hình ảnh của sự vật và hiện tượng đã có trong đầu, cũng có nghĩa là chuyển
từ kiểu tư duy trực quan- hành động sang kiểu tư duy trực quan- hình tượng.

1.2.1.2. Trẻ 4- 5 tuổi
Giai đọan 4- 5 tuổi là thời kì phát triển mạnh mẽ nhất của tư duy trực quan
hình tượng. Tư duy phát triển mạnh mẽ là do vốn biểu tượng của trẻ tăng lên,
chức năng kí hiệu phát triển mạnh mẽ, lịng ham hiểu biết và hứng thú nhận thức
của trẻ phát triển. Sự phát triển mạnh của tư duy trực quan hình tượng đã giúp trẻ
mẫu giáo giải quyết được nhiều bài toán thực tiễn đơn giản mà trẻ gặp trong cuộc
sống.
Tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh sẽ là điều kiện thuận lợi nhất
giúp trẻ cảm thụ tốt những hình tượng nghệ thuật và tạo ra những tiền đề cần
thiết để làm nảy sinh những yếu tố ban đầu của kiểu tư duy trừu tượng. Chính vì
thế, giáo viên cần cung cấp những biểu tượng phong phú, đa dạng được hệ thống
hóa và chính xác hóa.
1.2.1.3. Trẻ 5- 6 tuổi
Tư duy là một q trình tâm lí phản ánh những thuộc tính của bản chất,
những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật hiện tượng
trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo lớn nhu cầu nhận thức đang phát triển mạnh, xuất
hiện cả ba loại tư duy, đó là: tư duy trực quan hành động, tư duy trực quan hình
tượng, tư duy trừu tượng. Trong đó, kiểu tư duy trực quan hành động chiếm ưu
thế. Đặc biệt là có hình thức tư duy trực quan sơ đồ, đây là bước trung gian của
sự chuyển tiếp từ tư duy trực quan hành động đến tư duy lôgic. Kiểu tư duy này
tạo ra cho trẻ khả năng phản ánh những mối liên hệ tồn tại khách quan là điều
kiện cần thiết để đạt tới tri thức khái qt. Chính vì thế, giáo viên mầm non cần
phải cung cấp cho trẻ những biểu tượng về hình dạng một cách phong phú và đa
dạng được hệ thống và chính xác hóa.



8

1.2.2. Đặc điểm phát triển trí nhớ của trẻ
1.2.2.1. Trẻ 3- 4 tuổi
Trẻ 3- 4 tuổi trí nhớ khơng chủ định chiếm ưu thế nên trẻ dễ nhớ, dễ quên,
ghi nhớ máy móc.
Trí nhớ của trẻ gắn liền với xúc cảm và điều gì gây xúc động mạnh trẻ sẽ
nhớ tốt hơn.
1.2.2.2. Trẻ 4- 5 tuổi
Ở đầu tuổi mẫu giáo, năng lực ghi nhớ và nhớ lại của trẻ phát triển mạnh.
Tuy nhiên ở tuổi này hình thức trí nhớ chủ yếu của trẻ là trí nhớ khơng chủ định.
Đến giữa tuổi mẫu giáo nhỡ, bên cạnh trí nhớ khơng chủ định cịn xuất
hiện một kiểu ghi nhớ đó là ghi nhớ có chủ định. Sự thay đổi này bắt nguồn từ
điều kiện hoạt động của trẻ ngày một phức tạp hơn, người lớn yêu cầu ngày một
cao hơn buộc trẻ không những định hướng vào thực tại mà cả vào quá khứ và
tương lai. Sự phát triển trí nhớ có chủ định có vai trị quan trọng trong việc
chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Vì thế cần phải giúp trẻ bước đầu phát triển trí nhớ
có chủ định.
1.2.2.3. Trẻ 5- 6 tuổi
Trí nhớ là sự ghi nhớ lại, giữ lại và có thể tái hiện lại những gì trẻ đã thu
nhận được trong hoạt động sống của mình. Ở tuổi mẫu giáo, năng lực ghi nhớ và
nhớ lại của trẻ phát triển rất nhanh.
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo lớn lúc này trí nhớ của trẻ đang phát triển mạnh,
chủ yếu là trí nhớ khơng chủ định. Trẻ ghi nhớ những gì chủ yếu gây ấn tượng
mạnh với trẻ. Ở độ tuổi này trí nhớ của trẻ vẫn được đặc trưng bởi trí nhớ hình
ảnh, do đó nếu trẻ tích cực hoạt động thì kết quả ghi nhớ sẽ cao hơn.
1.2.3. Đặc điểm phát triển tri giác của trẻ
1.2.3.1. Trẻ 3- 4 tuổi



9

Ở trẻ 3- 4 tuổi đã làm chủ được tri giác của mình, dưới sự hướng dẫn bằng
lời nói của người lớn trẻ đã biết quan sát nhất là những đồ vật quen thuộc.
Trẻ tự tổ chức được quá trình tri giác của mình. Trong quan sát trẻ rất tị
mị, ham hiểu biết hay đặt câu hỏi. Tri giác của trẻ cịn mang tính tự kỉ. Sự phát
triển tri giác thể hiện ở tính đúng đắn về khối lượng vật thể mà trẻ gọi tên và tri
giác được chúng.
1.2.3.2. Trẻ 4- 5 tuổi
Lên đến mẫu giáo nhỡ trẻ đã được tiếp xúc nhiều với thế giới xung quanh
nhờ đó độ nhạy cảm phát triển, giúp trẻ dễ dàng nhận biết được các dấu hiệu,
thuộc tính bên ngồi của sự vật hiện tượng với mức độ tăng dần, ngày càng
chính xác và đầy đủ hơn. Một số quan hệ không gian, thời gian được trẻ tri giác
chính xác hơn. Khả năng quan sát của trẻ cũng phát triển, không chỉ là số lượng
vật mà các chi tiết dấu hiệu thuộc tính màu sắc cũng được trẻ chú ý đến. Trẻ
cũng bắt đầu xuất hiện khả năng kiểm tra độ chính xác của mình bằng hành động
thao tác như: tháo, lắp, vặn, mở… cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Trẻ ln có nhu cầu sờ mó, khám phá khi nhìn thấy một đồ vật mới. Do đó việc
tổ chức cho trẻ tri giác và hướng dẫn trẻ cùng quan sát cùng với những nhận xét
của cha mẹ, giáo viên giúp cho trẻ các thói quen làm việc có mục đích, có kế
hoạch… chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông sau này.
1.2.3.3. Trẻ 5- 6 tuổi
Cảm giác và tri giác là cấp độ đầu tiên của quá trình nhận thức phản ánh
những thuộc tính bên ngồi của sự vật.
Cảm giác của trẻ mẫu giáo lớn nhạy cảm, chính xác và có tính tự giác hơn,
cảm giác của trẻ đang ngày càng được hoàn thiện và nâng cao.
Đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ bắt đầu có khả năng tri giác có kế hoạch, có hệ
thống những sự vật hiện tượng xung quanh. Trẻ tri giác chính xác hơn và phân
biệt đối tượng nhanh hơn. Tri giác của trẻ thường gắn với chính hoạt động của



10

trẻ, nếu cho trẻ tham gia tích cực vào hoạt động hấp dẫn thì tri giác của trẻ sẽ
ngày càng phát triển và đạt được kết quả tốt.
1.2.4. Đặc điểm phát triển chú ý của trẻ
1.2.4.1. Trẻ 3- 4 tuổi
Ở những trẻ tuổi đầu lên 3, chú ý của trẻ hồn tồn là chú ý khơng chủ
định. Trẻ bị đối tượng trạng thái sinh lí của cơ thể chi phối. Chúng hồn tồn
khơng thể điều khiển chú ý của mình và rất kém chú ý vào lời nói, mà lời nói lại
là điều kiện để có chú ý có chủ định.
Chú ý đã không chủ định, lại thường không ổn định nên trẻ 3- 4 tuổi
thường dễ di chuyển chú ý từ một đối tượng này sang một đối tượng khác rất
nhanh khi có đối tượng chú ý mới, hấp dẫn hơn xuất hiện. Đối tượng mới càng
gây hứng thú nhiều thì càng lơi cuốn chú ý của trẻ nhiều hơn.
Trẻ cuối tuổi lên 3 và đầu tuổi lên 4 đã bắt đầu xuất hiện một vài phẩm
chất của chú ý có chủ định do sự phát triển của ngơn ngữ và tư duy như trẻ sẽ
bền vững hơn với những hoạt động hay đồ vật mà trẻ yêu thích. Tuy nhiên, phải
đến 4- 5 tuổi thì những phẩm chất này rõ nét hơn, thời gian của trẻ cũng lâu hơn.
1.2.4.2. Trẻ 4- 5 tuổi
Khả năng chú ý của lứa tuổi mẫu giáo nhỡ là chú ý không chủ định tuy
nhiên khả năng chú ý có chủ định đã bắt đầu hình thành ở trẻ lứa tuổi này. Trẻ
bắt đầu điều khiển chú ý của mình, biết tự giác hướng chú ý của mình vào những
đối tượng nhất định.
Việc tổ chức các hoạt động cho trẻ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển có chủ định như tổ chức cho trẻ quan sát các sự vật xung quanh, khuyến
khích trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động của trường mầm non. Sự chú ý
một cách có chủ định khơng những gắn liền với những hành động có mục đích
mà cịn gắn liền với việc sử dụng ngơn ngữ để điều chỉnh hành vi của trẻ.



11

Mặc dù trẻ mẫu giáo nhỡ đã bắt đầu hình thành chú ý có chủ định, nhưng
chú ý khơng chủ định vẫn chiếm ưu thế. Trẻ rất khó tập trung vào những hoạt
động mang tính đơn điệu, khơng hấp dẫn. Trong khi đó hoạt động vui chơi là
hoạt động mang tính sáng tạo, đượm màu sắc xúc cảm thường lơi cuốn được trẻ
khá lâu, đây chính là cơ sở để tổ chức các hoạt động cho trẻ và việc luôn ln
thay đổi các hình thức hoạt động duy trì chú ý trẻ vào những đối tượng một cách
bền vững.
1.2.4.3. Trẻ 5- 6 tuổi
Khả năng chú ý phát triển mạnh mẽ ngay từ giai đoạn mẫu giáo bé nhưng
chú ý có chủ định chỉ được bắt đầu hình thành ở trẻ mẫu giáo nhỡ. Ở trẻ mẫu
giáo lớn chú ý có chủ định bắt đầu phát triển mạnh, chú ý của trẻ đã phát triển
bền vững và tập trung hơn thể hiện ở thời gian chơi của trẻ được lâu hơn, trẻ có
thể chú ý vào nhiều đối tượng cùng một lúc, trẻ dễ tập trung vào những đối
tượng sinh động hấp dẫn, cịn đơn điệu thì trẻ dễ chán. Chính đặc điểm này của
trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 5- 6 tuổi nói riêng là một trong những cơ sở khoa
học để giáo viên mầm non tổ chức các hoạt động cho trẻ và việc ln thay đổi
các hình thức hoạt động cho phép duy trì chú ý của trẻ vào những đối tượng một
cách bền vững.
1.2.5. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ
1.2.5.1. Trẻ 3- 4 tuổi
Số lượng từ ngữ trong giai đoạn 3- 4 tuổi khoảng từ 800- 1926 từ. Ngôn
ngữ của trẻ được xây dựng từ câu ngắn đến câu có nhiều âm tiết. Ngơn ngữ của
trẻ thể hiện giọng điệu rõ nét. Ngôn ngữ của trẻ thường kèm theo các hình thức
hoạt động tư duy khác nhau, kích thích hoạt động. Trẻ thường nhắc đi nhắc lại
một từ trong câu trọn vẹn.
Ngôn ngữ màu sắc cảm xúc rõ nét. Ngơn ngữ của trẻ có ưu thế rõ nét thể
hiện hứng thú cá nhân, hoạt động cá nhân của trẻ.



12

1.2.5.2. Trẻ 4- 5 tuổi
Ở giai đoạn 4- 5 tuổi, ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh mẽ. Trẻ sử dụng
khá thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt và trong hoạt động hàng ngày. Trẻ sử
dụng được phong phú các từ loại, bắt đầu biết lĩnh hội và tập sử dụng những cấu
trúc ngữ pháp như câu đơn. Cảm xúc ngơn ngữ được hình thành và thể hiện qua
giọng nói, ngữ điệu nhưng đơi khi cịn bị nhầm lẫn hay nói ngọng. Ngơn ngữ của
trẻ cịn gắn liền với tình huống, hồn cảnh và sự việc, hiện tượng đang diễn ra
trước mắt trẻ.
Sự phát triển ngôn ngữ của mỗi trẻ cịn phụ thuộc vào hồn cảnh, mơi
trường sống của trẻ đó. Dựa trên những đặc điểm phát triển của các quá trình
nhận thức của trẻ 4- 5 tuổi chúng ta có thể xây dựng phương pháp, biện pháp,
hình thức tổ chức, phương tiện dạy học phù hợp tạo điều kiện tốt nhất cho sự
phát triển về mọi mặt cho trẻ.
1.2.5.3. Trẻ 5- 6 tuổi
Ở giai đoạn 5- 6 tuổi, ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh mẽ. Trẻ sử dụng
tiếng mẹ đẻ thành thạo trong sinh hoạt và họat động hàng ngày. Trẻ bắt đầu biết
lĩnh hội và tập sử dụng những cấu trúc ngữ pháp như câu đơn, cuối 5 tuổi trẻ có
thể diễn tả đúng các từ chỉ thời gian, kết nối tình huống hiện tại với quá khứ tạo
thành văn cảnh. Đáng lưu ý là ngôn ngữ của trẻ vẫn cịn gắn liền với tình huống,
hồn cảnh, sự việc, hiện tượng đang diễn ra trước mắt trẻ. Tuy nhiên mỗi đứa trẻ
là một cá thể riêng biệt và mơi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển ngơn ngữ của trẻ. Vì thế gia đình và trường mầm non có vai trị quan trọng
trong sự hình thành và phát triển ngơn ngữ cho trẻ nói chung và ngơn ngữ tốn
học nói riêng.
1.3. Đặc điểm nhận thức của trẻ mẫu giáo về hình dạng các vật và các
hình hình học

Một trong các tính chất của các vật trong mơi trường xung quanh là hình
dạng của vật.


13

Ngay từ khi cịn nhỏ tuổi, trẻ đã có khả năng nhận biết về hình dạng các
vật trong mơi trường xung quanh. Hình dạng của bất kì sự vật nào đều có thể quy
về dạng các hình hình học nhất định hoặc được biểu thị như một sự kết hợp một
số hình hình học sắp xếp theo một kiểu nào đó trong khơng gian.
Vì vậy các hình hình học là những mẫu chuẩn trẻ sử dụng chúng để xác
định hình dạng các vật xung quanh và các phần của các vật.
Trẻ em nhận biết hình dạng các vật thể và các hình hình học là nhờ có sự
tham gia tích cực của các giác quan. Sau đó dùng lời nói để khái qt những
nhận biết đó.
Việc nhận biết hình dạng vật thể với việc nhận biết các hình hình học có mối
quan hệ tương hỗ với nhau. Lúc đầu trẻ chưa nhận ra các hình hình học, với trẻ các
hình được coi như các vật bình thường và trẻ gọi tên tương ứng của các vật.

Hình trụ là cái cốc, cái hộp.
Hình tam giác là lá cờ, cánh buồm…
Hình chữ nhật là cửa sổ, cái bảng…
Trên cơ sở nhận biết hình dạng các vật thể dưới sự tác động dạy của người
lớn, nhận thức về các hình hình học được chuyển dần, các cháu không đồng nhất
các vật với các hình mà so sánh: Hình vng giống khăn mùi soa, hình chữ nhật
giống cái bảng, hình tam giác giống mái nhà, hình trụ giống cái cốc… Và cuối
cùng các hình hình học được các cháu khái quát lên nhận thức như là một tiêu
chuẩn. Từ việc nắm vững các biểu tượng hình hình học giúp trẻ củng cố nâng
cao khả năng nhận biết, xác định và phân biệt hình dạng các vật thể.
Trẻ ở các lứa tuổi khác nhau thì khả năng nhận biết về hình dạng vật thể

và các hình hình học cũng khác nhau. Hệ số thụ cảm về hình dạng vật thể và các
hình hình học được tăng theo kinh nghiệm cảm giác của trẻ và nhờ có sự tác
động của các nhà giáo dục.
1.3.1. Đặc điểm nhận thức của trẻ 3- 4 tuổi


14

Trẻ đã có khả năng gọi đúng tên, phân biệt được các hình dạng khác nhau
của các vật thể.
Trẻ có thể nhận biết gọi đúng tên một số các hình hình học nhờ sự tác
động của người lớn và trẻ vẫn thường so sánh hình dạng các hình hình học với
các đồ vật thường gặp hàng ngày. Ví dụ: Hình tròn giống cái bánh xe, cái đĩa…
Việc trẻ nhận biết hình dạng các vật thể và các hình hình học có sự tham
gia tích cực của các giác quan là tay và mắt. Song do hoạt động của tay còn vụng
về, khả năng quan sát của mắt còn hạn chế nên việc hoạt động của tay mới dừng
lại ở việc cầm nắm, chưa có ý thức. Quan sát của mắt chỉ tập trung vào một dấu
hiệu nào đó của vật (hình dạng, kích thước, màu sắc…) chứ trẻ chưa thấy những
dấu hiệu chi tiết đặc trưng cho vật.
Ở lứa tuổi này trẻ chưa có khả năng so sánh, phân biệt các hình hình học,
đặc biệt là các hình có sự khác nhau ít như hình vng và hình chữ nhật.
Cũng ở lứa tuổi này do vốn ngôn ngữ và kinh nghiệm sống cịn ít, việc
diễn đạt cịn gặp nhiều khó khăn và thiếu chính xác nên việc cơ giáo hướng dẫn
trẻ dùng lời nói để khái quát sự cảm giác hình dạng các vật thể và các hình hình
học là điều quan trọng giúp trẻ khắc sâu việc nhận biết các hình.
Vì vậy ngay từ khi cịn nhỏ (2- 3 tuổi) cần cho trẻ được tiếp xúc với các đồ
vật có hình dạng là các hình hình học. Đối với trẻ 3- 4 tuổi phải cho trẻ hoạt
động nhận biết các hình hình học như là một tiêu chuẩn dựa vào đó để tri giác
các sự vật.
1.3.2. Đặc điểm nhận thức của trẻ 4- 5 tuổi

Trẻ đã có khả năng nhận biết các hình hình học như là một tiêu chuẩn để
trẻ dựa vào đó để so sánh, cảm giác các vật thường gặp trong cuộc sống hàng
ngày. Trẻ có thể lựa chọn các hình học theo mẫu và theo tên gọi.
Khả năng nhận biết các hình hình học và các vật thể bằng các giác quan
phát triển hơn: Trẻ đã chủ động dùng các ngón tay để cầm nắm, khảo sát hình; sự
hoạt động của mắt đã bắt đầu tập trung quan sát các dấu hiệu riêng đặc trưng cho


15

từng hình. Vì vậy trẻ 4- 5 tuổi có khả năng so sánh phân biệt các hình học phẳng
theo đường bao của chúng nếu được sự hướng dẫn tổ chức của các nhà giáo dục.
Trẻ có khả năng nhận biết được hình dạng của một số hình khối thơng
dụng: Khối cầu, khối vuông, khối chữ nhật.
1.3.3. Đặc điểm nhận thức của trẻ 5- 6 tuổi
Khả năng nhận biết, phân biệt các hình hình học bằng các hoạt động của
tay và mắt của trẻ theo đường bao được tiến triển hoàn thiện:
Trẻ đã chủ động sờ mó vật bằng cả hai tay, cầm nắm vật bằng các đầu
ngón tay biết đưa mắt quan sát theo đường bao của vật, phần chủ yếu đặc trưng
cho hình dạng của vật. Đó chính là điều kiện giúp trẻ khảo sát hình đầy đủ đúng.
Ngơn ngữ của trẻ phát triển hơn, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
thị giác, xúc giác và ngôn ngữ đã tạo điều kiện giúp trẻ thu nhận các kiến thức về
hình dạng chính xác hơn, giúp trẻ củng cố nhớ lâu điều mà mình cảm giác được.
Lời nói cịn giúp cho nhận thức của trẻ được tổng qt hơn.
Trẻ có thể hiểu được các tính chất đơn giản của các hình hình học, có thể
phân biệt được các hình các vật theo các nhóm phù hợp và gọi tên được các
nhóm cơ bản của chúng theo dấu hiệu. Ví dụ: Nhóm có đường bao cong, nhóm
có đường bao thẳng
Có khả năng đối chiếu hình dạng các vật trong thực tế với các hình hình học.


1.4. Vai trị của hình hình học đối với sự hình thành biểu tượng tốn
cho trẻ mẫu giáo
1.4.1. Giúp trẻ có những biểu tượng ban đầu về hình hình học và một
số
đối tượng về hình học
Hình học là một trong những nội dung cơ bản trong việc hình thành các
biểu tượng tốn cho trẻ mẫu giáo, được tổ chức ở các lớp mẫu giáo ở các trường
mầm non và được nâng cao dần về mặt kiến thức từ việc dạy trẻ nhận biết và gọi
tên các hình (khối) đến dạy trẻ khảo sát các hình (khối) và cuối cùng là đến việc
dạy trẻ phân biệt hình (khối).


16

Ngay từ khi cịn nhỏ tuổi trẻ đã có khả năng nhận biết về hình dạng các
vật trong mơi trường xung quanh như cái ơ, quả bóng, cái cốc, cái bảng,… bằng
trực quan của mình trẻ có thể nhận ra hình hình học một cách tổng thể. Khi lên
các lớp trên thì việc nhận biết về các hình dần được hình thành và chính xác hóa
dần thơng qua việc quan sát các vật mẫu, sờ xung quanh các vật mẫu, phân biệt
các hình đó với nhau và qua lời hướng dẫn, giải thích của giáo viên.
Đồng thời ở trường mầm non, trẻ được khám phá khoa học qua các hoạt
động của trẻ, khám phá mơi trường xung quanh thì trẻ đã được làm quen với các
loại hình hình học khác nhau như hình tam giác (lá cờ, biển báo giao thơng, …),
hình chữ nhật (bảng, bàn, …), hình vng (tấm phản vng, …), khối cầu (quả
bóng, …), khối trụ (cái cốc, cái hộp, …), khối vuông, khối chữ nhật (xúc xắc,
hộp phấn, …) nhưng trẻ chưa nhận ra được đặc điểm tốn học của các hình và
khối trên mà chỉ là những biểu tượng sơ đẳng làm nền tảng cho sự hình thành và
phát triển kiến thức về hình hình học ở các cấp học tiếp theo. Song các biểu
tượng tốn học mà trẻ được làm quen thơng qua hoạt động làm quen với môi
trường xung quanh tạo nền tảng ban đầu giúp trẻ mở rộng và nâng cao lên đến

với tốn học nói chung và với hình hình học nói riêng.
Việc hình thành những biểu tượng ban đầu về hình hình học có trong mơi
trường xung quanh có tầm quan trọng đáng kể, vì điều đó giúp trẻ có được
những định hướng đầu tiên trong không gian, gắn liền việc học tập với môi
trường xung quanh và chuẩn bị học tiếp mơn hình học ở các bậc học trên.
1.4.2. Rèn kĩ năng thực hành và phát triển năng lực trí tuệ của trẻ
Khi học về các hình và khối, trẻ được hoạt động với các đồ vật đó là các
hình mẫu và các khối mẫu để trẻ nhận biết được đặc điểm tổng thể và gọi được
tên các hình (khối), phân biệt và so sánh được các hình (khối) với nhau: Theo
từng lứa tuổi mà trẻ làm quen với các hình (khối) mang tính hệ thống từ đơn giản
đến phức tạp. Ví dụ: dạy trẻ lớp 3 - 4 tuổi là dạy trẻ nhận biết dấu hiệu hình dạng
của bốn hình: hình trịn, hình vng, hình tam giác, hình chữ nhật không phụ


17

thuộc vào màu sắc và kích thước của hình. Chẳng hạn: hình tam giác là hình có
ba cạnh, khơng lăn được … Khi học lên lớp trên kiến thức hình học được mở
rộng thêm nhiều như dạy trẻ nhận biết các khối ở lớp 5 - 6 tuổi như khối cầu và
khối trụ qua bề mặt bao khối, khối vuông và khối chữ nhật qua số mặt và hình
dạng các mặt bao khối. Qua việc học tập và rèn các kỹ năng trên trẻ được hình
thành thêm các kỹ năng như phân tích, tổng hợp, dự đốn, … Điều này thể hiện
rõ qua việc dạy trẻ phân biệt hình (khối). Các vấn đề toán học được đưa ra ở mức
độ khá cao địi hỏi trẻ phải suy luận mới có thể tìm ra đúng lời giải của bài tốn.
Ví dụ: dạy trẻ phân biệt khối vuông và khối chữ nhật
- Cô chọn khối, trẻ gọi tên, nêu màu sắc.
- Cô gọi tên, trẻ chọn khối, nêu màu sắc.
- Cho trẻ dùng bàn tay sờ xung quanh khối và lăn khối. Lúc này trẻ dùng
tư duy của mình để phân tích đặc điểm, tính chất của khối (khối vng và khối
chữ nhật có mặt bao phẳng và khơng lăn được,…).

- Qua đó trẻ có thể suy luận và tổng hợp được về sự giống và khác nhau
giữa khối vuông và khối chữ nhật (khối vng và khối chữ nhật đều có mặt bao
phẳng, không lăn được nhưng các mặt của khối vng đều là hình vng cịn các
mặt của khối chữ nhật là hình chữ nhật).
1.4.3. Tích lũy những hiểu biết trong đời sống sinh hoạt và học tập
Các kiến thức hình hình học ở mầm non được thơng qua hoạt động thực
hành là hoạt động với đồ vật để tích lũy những hiểu biết cho trẻ, song những kiến
thức, kỹ năng hình học được hình thành ở trẻ qua con đường thử nghiệm rất cần
thiết cho cuộc sống (ví dụ như trẻ có thể hình dung được ngơi nhà có mái dạng
hình tam giác, trần nhà có dạng hình chữ nhật hoặc hình vng) và hữu ích cho
việc học tập các tuyến kiến thức khác trong mơn tốn học sơ đẳng ở trường mầm
non như biểu tượng về tập hợp, số và phép đếm, kích thước, định hướng trong
khơng gian và thời gian, … cũng như các hoạt động khác ở trường mầm non.


18

Ngồi ra các yếu tố hình học giúp trẻ phát triển năng lực trí tuệ rèn luyện
những đức tính và phẩm chất tốt như: cần cù, cẩn thận, chu đáo, khéo léo, chính
xác, … Nhờ vậy mà trẻ có thêm tiền đề để tiếp thu các hoạt động học tập ở
trường mầm non và học mơn tốn ở bậc học phổ thông.
1.5. Đặc điểm phát triển các biểu tượng về hình dạng vật thể và các
hình hình học ở trẻ mầm non
1.5.1. Trẻ 3- 4 tuổi
Ở lứa tuổi mẫu giáo 3- 4 tuổi sự tri giác của trẻ ngày càng trở nên phong
phú, biểu tượng hình dạng của trẻ ngày càng đa dạng và chính xác. Trẻ đã có khả
năng phân biệt và nói đúng hình dạng của các vật quen thuộc như: cái đĩa có
hình trịn, ơ gạch có dạng hình vng… Trẻ ba tuổi vẫn thường bị lơi cuốn bởi
các thao tác với đồ vật hơn là việc nhận biết hình dạng của vật. Vì vậy trẻ thường
chỉ thực hiện nhiệm vụ lựa trọn vật theo hình dạng cho trước sau khi đã thỏa mãn

những hứng thú khác của trẻ. Tuy nhiên trẻ ba tuổi có khả năng hiểu và thực hiện
nhiệm vụ tìm vật theo hình dạng mà khơng cần kiểm tra bằng mắt.
Với các hình hình học, những quan sát thực tiễn cho thấy trẻ nhỏ khơng tri
giác chúng như những hình chuẩn, mà thường coi chúng như những đồ chơi
thơng thường, và nếu những hình đó giống với những đồ chơi quen thuộc với trẻ
thì trẻ sẽ gọi chúng bằng tên gọi của đồ chơi đó, như: hình ơ van trẻ gọi là quả
trứng, khối chữ nhật- cái hộp, hình vng- cái khăn… Dưới tác động dạy học
của người lớn trẻ bắt đầu không đồng nhất các hình hình học với đồ vật nữa, mà
chỉ so sánh chúng với các đồ vật quen biết. Ví dụ: hình ơ van như là quả trứng,
hình trịn như là cái vòng… Và dần dần trẻ bắt đầu lĩnh hội các hình hình học
như những hình mẫu để sử dụng khi xác định hình dạng của các vật. Ví dụ: cái
vịng, cái đĩa có dạng hình trịn, cửa sổ có dạng hình chữ nhật…
Trẻ ba tuổi bắt đầu nhận biết chính xác các hình hình học mà khơng phụ
thuộc vị trí sắp đặt của chúng trong khơng gian. Tuy nhiên do trẻ thường tri giác
qua loa chúng nên trẻ hay nhầm lẫn các hình tương đối giống nhau, như: hình ơ


19

van là hình trịn, hình vng là hình chữ nhật… ngay cả khi các hình đó ở trước
mặt trẻ, nhưng trẻ lại phân biệt và lựa trọn các vật theo hình mẫu khá chính xác
nếu đó là những hình rất khác nhau như: hình trịn và hình vng, hình trịn và
tam giác.
Trong quá trình hình thành những biểu tượng về các hình hình học, việc
khảo sát các hình hình học đóng một vai trị quan trọng. Vì vậy ngay từ bé cần
hồn thiện các biện pháp khảo sát hình dạng vật thể dựa trên cơ sở cảm giác- vận
động cho trẻ. Trong quá trình khảo sát hình dạng, sự phối hợp giữa các giác quan
như: thị giác, xúc giác và lời nói có tác dụng thúc đẩy sự tri giác và nhận biết
hình dạng của vật một cách chính xác. Tuy nhiên mức độ khảo sát của trẻ 3- 4
tuổi cịn rất thấp, trẻ cịn chưa biết nhìn vật liên tục theo đường bao quanh vật mà

khơng nhìn kĩ càng hình dạng của vật. Vì vậy trẻ chỉ nhận biết được những đặc
điểm bên ngồi của hình như: màu sắc, kích thước, các góc… mà khơng nắm
được hình dạng chung của tồn bộ vật. Trong q trình khảo sát hình dạng các
thao tác của tay trẻ đóng một vai trị to lớn trong việc nhận biết hình dạng của
vật, nhưng trẻ 3- 4 tuổi cịn chưa biết tìm hiểu hình dạng của vật bằng chuyển
động của các đầu ngón tay dọc theo đường bao quanh vật, trẻ thường dùng cả
lòng bàn tay để nắm bắt và thực hiện các thao tác khác nhau với vật. Vì vậy cần
dạy trẻ các biện pháp khảo sát hình dạng của vật và các hình hình học theo
đường bao quanh của chúng. Mặt khác cần dạy trẻ phân biệt, nhận biết và nắm
được tên gọi của một số hình hình học, sử dụng chúng như các hình chuẩn để so
sánh và xác định hình dạng của các vật có xung quanh trẻ.
1.5.2. Trẻ 4- 5 tuổi
Biểu tượng về hình dạng vật thể và các hình hình học của trẻ mẫu giáo 4-5
tuổi đã chính xác và phong phú hơn, các biện pháp khảo sát hình dạng của trẻ
ngày càng được hồn thiện. Trẻ khơng cịn đồng nhất các hình hình học với các
đồ vật giống chúng, mà đã biết sử dụng các hình hình học như những hình chuẩn
để so sánh, lựa chọn, xác định hình dạng của mọi vật xung quanh, khả năng phân


20

biệt, nhận biết các hình hình học của trẻ đã ở mức cao hơn, trẻ ít nhầm lẫn giữa
hình trịn và hình ơ van, giữa hình vng và chữ nhật…
Càng lớn hoạt động nhận biết của trẻ càng phát triển. Đồng thời việc phức
tạp và mở rộng dần nội dung dạy trẻ làm tăng những yêu cầu đối với hoạt động
trí tuệ của trẻ. Đa số trẻ thực hiện đúng nhiệm vụ tìm những vật có dạng hình
trịn hay hình vng, hoặc tìm dấu hiệu chung của các vật. Việc thực hiện các
nhiệm vụ này đòi hỏi trẻ em phải thực hiện các thao tác tư duy phức tạp như: so
sánh, phân tích, khả năng tách dấu hiệu chung của các vật ra khỏi những dấu
hiệu khác, hiểu từ “hình dạng” như một khái niệm khái quát.

Như vậy, biểu tượng hình dạng được hình thành từ những nội dung quen
thuộc với trẻ sẽ có một chất lượng mới- như một dấu hiệu chung cho nhiều vật
xung quanh trẻ. Trong quá trình tìm hiểu vật, trẻ 4- 5 tuổi đã tích cực sờ nắn vật
bằng một tay, nhưng các đầu ngón tay của trẻ vẫn chưa tham gia vào quá trình sờ
nắn vật. Hơn nữa trẻ vẫn chưa biết nhìn lần lượt theo đường bao quanh vật. Vì
vậy trẻ vẫn chưa nhận biết chính xác hình dạng của vật.
1.5.3. Trẻ 5- 6 tuổi
Những biểu tượng hình dạng của trẻ 5- 6 tuổi ngày càng phát triển, càng
lớn thì quá trình tri giác của trẻ ngày càng hoàn thiện. Nhờ vậy mà trẻ nhận biết
hình dạng cùng những chi tiết của nó ngày càng chính xác hơn. Hơn nữa, nội
dung nhận biết càng phức tạp thì trí tuệ của trẻ càng phải hoạt động tích cực hơn.
Vì vậy óc suy luận của trẻ mẫu giáo lớn càng phát triển, nhiều trẻ đã có khả năng
tạo ra sự thay đổi hình dạng, khả năng tạo hình mới từ những hình đã biết. Ví dụ:
trẻ biết chắp ghép từ những hình đã biết thành ngôi nhà khác nhau…
Nếu trẻ mẫu giáo bé và nhỡ chỉ dễ dàng thực hiện các nhiệm vụ lựa chọn
vật theo hình mẫu, thì trẻ mẫu giáo lớn hồn tồn vừa sức để thực hiện các
nhiệm vụ dạng này chỉ theo lời hướng dẫn của giáo viên và dựa trê n những biểu
tượng đã có về hình dạng của các vật khác nhau. Ví dụ: cơ nói tên hình và u
cầu trẻ nói tên những vật có hình dạng tương tự. Điều đó chứng tỏ


21

trẻ đã có vốn biểu tượng hình dạng khá phong phú, mặt khác kĩ năng so sánh,
ghi nhớ, tái tạo, ứng từ- khái niệm với những từ phản ánh những biểu tượng cụ
thể ở trẻ đã phát triển.
Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn 5- 6 tuổi trình độ khảo sát hình dạng của trẻ đã
cao hơn, điều này cho phép trẻ tìm hiểu hình dạng của vật một cách có trình tự
và có hệ thống bằng hai tay, các đầu ngón tay và mắt trẻ đã tích cực chuyển động
lần lượt theo đường bao quanh vật, theo các cạnh và trên bề mặt vật dường như

mơ hình hóa hình dạng của vật, điều đó có tác dụng giúp trẻ nhận biết hình dạng
vật một cách chính xác. Trong ý thức trẻ lớn đã có sự tách rời các hình hình học
khỏi các đồ vật, và trẻ đã sử dụng chúng như những hình chuẩn để xác định hình
dạng của các vật xung quanh.
Trong quá trình hình thành những biểu tượng hình dạng cho trẻ, lời nói
của giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong việc hướng trẻ chú ý tới những
khía cạnh cơ bản của vật nghiên cứu. Lời nói đúng lúc và chính xác của giáo viên
trong q trình tri giác vật có tác dụng làm sâu sắc hơn những biểu tượng về vật của
trẻ và giúp trẻ ghi nhớ những điều quan sát. Bằng lời nói giáo viên hướng dẫn trẻ tự
đưa ra những kết luận cần thiết trong quá trình nghiên cứu vật và diễn đạt chúng
bằng lời. Lời nói có tác dụng nâng sự tri giác cảm nhận hình dạng vật của trẻ lên
mức độ khái quát. Vì vậy trong quá trình trẻ tìm hiểu vật, tuyệt đối giáo viên không
nên vội vã tách lời nói với sự tri giác cảm giác, mà cần hướng dẫn trẻ thực hiện
trình tự các thao tác khảo sát vật, giảng giải chúng cho trẻ và thông qua hệ thống
câu hỏi giáo viên giúp trẻ diễn đạt bằng lời nói những điều nhận biết được trong q
trình khảo sát và giúp trẻ tự đưa ra những kết luận khái quát.

Sự phát triển các biểu tượng hình dạng ở trẻ nhỏ là một quá trình phức tạp.
Việc trẻ nắm và sử dụng được các hình chuẩn cho thấy mức độ phát triển trí tuệ
của trẻ mầm non. Việc phát triển ở trẻ khả năng nhận biết hình dạng, phân tích
hình dạng của các vật, nhóm vật theo hình dạng, nắm được các hình hình học và
có khả năng sử dụng các hình chuẩn vào việc xác định


22

hình dạng của các vật trong mơi trường xung quanh là những chỉ số cho sự phát
triển trí tuệ của trẻ, điều đó góp phần tích cực chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ
thơng.
Việc làm quen trẻ với hình dạng vật thể nhằm giúp trẻ thấy được sự phong

phú, đa dạng và vẻ đẹp của thế giới xung quanh trẻ, hơn nữa những kiến thức về
hình dạng vật thể là phương tiện giúp trẻ định hướng dễ dàng hơn trong mơi
trường xung quanh trẻ.
1.6. Nội dung và phương pháp hình thành biểu tượng hình dạng cho
trẻ mẫu giáo
1.6.1. Nội dung hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo
1.6.1.1. Nội dung hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ 3- 4 tuổi
- Nhận biết, gọi tên các hình: hình vng, hình tam giác, hình trịn, hình
chữ nhật và nhận dạng các hình đó trong thực tế.
- Sử dụng các hình học để chắp ghép
1.6.1.2. Nội dung hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ 4- 5 tuổi
- So sánh sự khác nhau và giống nhau của các hình: hình vng, hình tam
giác, hình trịn, hình chữ nhật.
- Chắp ghép các hình hình học để tạo thành các hình mới theo ý thích và
theo u cầu.
1.6.1.3. Nội dung hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ 5- 6 tuổi
- Nhận biết, gọi tên khối cầu, khối vuông, khối chữ nhật, khối trụ và nhận
dạng các khối hình đó trong thực tế.
- Chắp ghép các hình hình học để tạo thành các hình mới theo ý thích và
theo u cầu.
- Tạo ra một số hình hình học bằng các cách khác.
1.6.2. Phương pháp hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo
1.6.2.1. Trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi


23

Trước khi dạy trẻ cô cho trẻ chơi với các đồ chơi có hình dạng vng,
trịn, tam giác, chữ nhật, trong các đồ chơi mà cơ có thể giới thiệu tên gọi các
hình cho trẻ biết.

Trên giờ học: Dạy trẻ nhận biết các hình vng, trịn, tam giác, chữ nhật,
cơ giáo tổ chức hướng dẫn theo trình tự sau:
- Cho trẻ chọn hình theo mẫu
- Gọi tên hình
- Yêu cầu trẻ chọn hình theo tên gọi
- Luyện tập nhận biết các hình bằng tay sờ đường bao hình (khơng nhìn).
- Luyện tập nhận biết các hình trên trong các hình có màu sắc, kích thước
khác nhau
Ngồi giờ học: trong các hoạt động khác cô tiếp tục cho trẻ luyện tập nhận
biết gọi tên mỗi hình trong các hình có màu sắc kích thước khác nhau cơ cho trẻ
nhận biết tên gọi những đồ vật có hình dạng đã học.
1.6.2.2. Trẻ mẫu giáo nhỡ 4- 5 tuổi
* Dạy trẻ cách phân biệt các hình vng, trịn, tam giác, chữ nhật chủ yếu
bằng các dấu hiệu nổi bật về đường bao hình.
- Dạy trẻ phân biệt hình trịn với các hình vng, tam giác, chữ nhật bằng
cách cô cho trẻ chơi lăn hình, sờ xung quanh đường bao hình để phát hiện sự
khác nhau giữa chúng.
- Hình trịn lăn được, sờ xung quanh thấy nhẵn, cong. Các hình kia khơng
lăn được vì sờ thấy khơng cong, khơng nhẵn vì có góc.
- Dạy trẻ phân biệt giữa các hình vng, hình chữ nhật và tam giác bằng
cách thông qua đặc điểm của mỗi hình. Cơ cho trẻ dùng que tính chơi xếp các
hình qua đó nhận xét giống, khác nhau giữa các hình về số cạnh, về mối quan hệ
độ dài các cạnh trong mỗi hình.
Ngồi giờ học :


24

Dạy trẻ phân biệt hình vng, trịn, tam giác, chữ nhật trong các hoạt động
vui chơi hoặc hoạt động khác.

Ví dụ : Tìm xung quanh lớp có các đồ vật có hình dạng đã học, hoặc trị
chơi ghép hình, gấp hình ....
* Dạy trẻ phân biệt các khối vng, cầu, trụ, khối chữ nhật.
Trong q trình này cơ sẽ giới thiệu tên khối
- Trong các giờ học dạy trẻ nhận biết khối, cơ hướng dẫn trẻ theo trình tự
sau: + Chọn khối theo mẫu
+ Gọi tên các khối đã chọn
+ Tìm các khối theo tên gọi
+ Luyện tập nhận biết khối bằng cách sờ xung quanh
- Ngoài giờ học : Cơ cho trẻ luyện tập nhận biết các hình khối trên ở các
trò chơi lắp ghép xây dựng, cho trẻ luyện tập gọi tên những đồ vật có hình dạng
các khối đã học.
1.6.2.3. Trẻ mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi
* Cô tiếp tục cho trẻ luyện tập nhận biết hình khối qua chọn hình theo
mẫu, gọi tên hình đã chọn, tìm khối theo tên gọi. Cho trẻ luyện tập nhận biết các
khối với các màu sắc, kích thước khác nhau, nhận biết các dạng khối ở đồ vật
xung quanh trẻ.
* Dạy trẻ phân biệt các khối cầu, khối vuông, khối trụ, khối chữ nhật qua
dấu hiệu của các bề mặt bao khối : Về số lượng và các hình dạng bao khối.
- Dạy trẻ phân biệt khối cầu và khối trụ, cô cho trẻ chơi và lăn 2 khối này
từ đó trẻ thấy khối cầu lúc nào cũng lăn được cịn khối trụ có lúc chỉ đứng mà
khơng lăn được.
- Sờ tay vào thì khối cầu ln trịn, cịn khối trụ khơng trịn (có 2 đầu bẹt).
- Hoặc cơ cho trẻ đặt chồng 2 khối cầu và trụ lên nhau từ đó trẻ thấy 2
khối cầu khơng đặt được lên nhau còn 2 khối trụ đặt được lên nhau.


25

- Để trẻ thấy rõ hơn sự khác nhau của 2 khối này cô cho trẻ nắm khối cầu

và khối trụ.
- Dạy trẻ phân biệt khối vuông và khối chữ nhật bằng cách cho trẻ:
+ Quan sát phân biệt dấu hiệu các bề mặt bao khối (đều có 6 mặt nhưng 6
mặt đều vuông - 6 mặt chữ nhật ).
+ Tổ chức cho trẻ chơi dán kín các mặt của từng khối để trẻ nhận biết,
phát hiện là khối vuông muốn dán kín dùng 6 mặt hình vng. Khối chữ nhật
muốn dán kín phải dùng 6 hình chữ nhật.
- Ngồi giờ học trong các giờ hoạt động tạo hình xây dựng cơ cho trẻ tạo
các đồ vật có hình dạng các khối đã học.
+ Tiếp theo cho trẻ tìm đồ vật xung quanh có hình dạng các khối đã học
1.7. Thực trạng thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử nhằm hình
thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo
1.7.1. Mục đích điều tra
Tìm hiểu thực trạng việc hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu
giáo ở trường mầm non hiện nay, trên cơ sở đó thiết kế một số giáo án diện tử
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hình thành biểu tượng này ở trẻ.
1.7.2. Vài nét khách thể điều tra
Điều tra được tiến hành trên 6 giáo viên dạy trẻ ở các lớp 3 độ tuổi tại
trường mầm non Hùng Vương- Thị xã Phú Thọ- Tỉnh Phú Thọ.
Trường Mầm non Hùng Vương nằm trên địa bàn phường Hùng VươngTX Phú Thọ. Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp Ủy
Đảng, chính quyền địa phương. Sự chỉ đạo trực tiếp về chun mơn nghiệp vụ
của phịng GD&ĐT thị xã Phú Thọ. Sự ủng hộ nhiệt tình của hội cha mẹ học
sinh trong mọi hoạt động của nhà trường.
Cơ sở vật chất của nhà trường nhìn chung đầy đủ, sạch đẹp đáp ứng cho
100% các cháu được sinh hoạt bán trú tại trường, đảm bảo được yêu cầu của
chương trình giáo dục mầm non.


×