Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

GÓP PHẦN tìm HIỂU NGUỒN gốc BỆNH KINH NGHIỆM CHỦ NGHĨA TRONG cán bộ TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.57 KB, 10 trang )

GĨP PHẦN TÌM HIỂU NGUỒN GỐC BỆNH KINH NGHIỆM CHỦ NGHĨA TRONG CÁN BỘ TA
Khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong cán bộ ta là vấn đề có ý nghĩa lý luận cũng
như thực tiễn hết sức to lớn. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được
những thành tựu đáng kể, song cũng còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn địi hỏi phải được giải
quyết trên tầm trí tuệ mới, chứ không thể chỉ bằng hành trang của tư duy cũ. Muốn vậy, phải khắc
phục những yếu kém trong tư duy của cán bộ ta, trong đó có bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Để
khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả căn bệnh này, cân pải hiểu rõ nguồn gốc của nó, bởi lẽ chỉ
trên cơ sở đó chúng ta mới đề ra được những biện pháp phù hợp.
Theo chúng tôi, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong cán bộ ta có những nguồn gốc chủ yếu
sau đây:
1. Trình độ tư duy lý luận của cán bộ ta nói chung thấp.
Có thể nói trình độ lý luận thấp là một trong những tác nhân trực tiếp làm nảy sinh bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa trong cán bộ ta, cịn trình độ tư duy lý luận thấp là một trong những nguồn gốc
sâu xa của căn bệnh này. Tư duy lý luận, còn gọi là tư duy lơ-gích trừu tượng, là kiểu tư duy tiến
hành chủ yếu trên cơ sở không phải của hành động thao tác thực tiễn trực tiếp hay của hình ảnh
cảm tính trực quan mà của những quy tắc lơ-gích giúp cho con người phải ánh những mối liên hệ
bản chất của sự vật hoặc những mối quan hệ nhân quả sâu sắc nhất giữa các sự vật, hiện tượng
của thế giới khách quan. Ở đây, phải huy động khơng phải những hình ảnh cảm tính, kinh nghiệm
mà các khái niệm, phạm trù, quy luật về thế giới tự nhiên hay xã hội. Trình độ tư duy lý luận cao
hay thấp sẽ dẫn đến lý luận có trình độ cao hay thấp, khoa học hay không khoa học và lý luận đó
tất nhiên sẽ tác động trở lại ở những mức độ khác nhau tới thực tiễn và tới chính tư duy. Nếu trình
độ lý luận thấp thì nó khơng đóng được vai trị chỉ đạo, định hướng, dẫn đường cho hoạt động
thực tiễn, và do đó dễ làm cho người ta buộc phải dựa dẫm một cách máy móc vào kinh nghiệm là
điều dễ hiểu. Nhưng để có lý luận thì phải có tư duy lý luận, hơn nữa nếu khơng có trình độ tư duy
lý luận khoa học và sáng tạo thì khơng thể tiếp thụ, trau dồi lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chủ trương chính sách của Đảng một cách sâu sắc, triệt để, không thể biến những
lý luận sách vở thành vốn tri thức của mình, nghĩa là dù có học thuộc lịng lý luận thì vẫn có thể
mắc phải bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Cho nên, muốn tránh nó nhất thiết phải nâng cao trình độ lý
luận. Song muốn nâng cao trình độ lý luận thì phải nâng cao trình độ tư duy lý luận mà hạt nhân là
phương pháp duy vật biện chứng. Bởi vậy , khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa không phải chỉ
là nâng cao trình độ lý luận tức là thay đổi, bổ sung, hoàn thiện, phát triển những khái niệm, những


phạm trù, quan điểm, mà trước hết và chủ yếu là phải nâng cao phương pháp tư duy khoa học
sáng tạo từ trình độ thấp tới trình độ cao, trên cơ sở đó làm cho trình độ lý luận được nâng lên.
Đây là một q trình khơng có giới hạn, bởi hiện thực ln ln vận động và phát triển.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn coi trọng mở rộng và phát
triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, xây dựng nhân tố con người, động lực trực tiếp và lâu dài cho
sự phát triển của đất nước. Đại bộ phận cán bộ ta đã có được phương pháp tư duy khoa học duy
vật biện chứng ở trình độ nhất định. Nếu khơng có phương pháp tư duy khoa học đó, chúng ta đã


không đạt được nhưng kết quả như vừa qua trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước. Từ Đại
hội VI tới nay, trình độ tư duy lý luận cũng như trình độ lý luận của cán bộ ta nói chung cịn khơng
ít những bất cập, “ Lý luận chưa đi sâu, đi sát cuộc sống, chưa ra khỏi tình trạng lạc hâu, chưa
đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn đổi mới”(1). Nhiều vấn đề cơ bản và cấp bách về CNXH, về
thời kỳ quá độ, về thời đại v.v... còn chưa được làm sáng tỏ một cách đầy đủ, có hệ thống và có
sức thuyết phục.
Trình độ tư duy lý luận của cán bộ ta chưa cao thể hiện ở chỗ mặc dù bệnh chủ quan duy ý
chí, lối suy nghĩ bảo thủ đường mịn, giản đơn nóng vội đã được khắc phục ở mức độ nhất định,
song trên thực tế vẫn còn sức sống dai dẳng của nó. Chính vì vậy, khi qn triệt và vận dụng lý
luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đường lối, chủ trương chính sách của Đảng,
cán bộ ta vẫn chưa khắc phục được bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Phải chăng một phần là do
chúng ta chưa nắm vững bản chất, linh hồn sống của phương pháp tư duy duy vật biện chứng và
yếu về năng lực vận dụng phương pháp đó? Do dó, việc nắm vững và trau dồi cách thức vận dụng
phương pháp tư duy duy vật biện chứng cũng là một tiêu chuẩn đánh giá trình độ tư duy lý luận.
Trình độ tư duy lý luận của cán bộ ta chưa cao còn thể hiện ở sự yếu kém về năng lực phân
tích, tổng hợp, khái quá, tổng kết thực tiễn. Do trình độ tư duy lý luận chưa cao nên những kết luận
được rút ra từ tổng kết thực tiễn nhiều khi còn chưa trúng, chưa đạt đến tầm khái quát lý luận.
Không phải ngẫu nhiên mà khi đánh giá về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay, Bộ Chính trị
BCHTƯ Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, đi sâu tổng kết thực tiễn và phát
triển lý luận một cách sáng tạo, trước hết là tổng kết có lý luận những kinh nghiệm cơ bản trong
cơng cuộc đổi mới...”(2).

Trình độ tư duy lý luận như vậy đã làm cho trình độ lý luận của cán bộ ta chưa cao và do đó,
đã tạo ra khoảng trống cho bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa có điều kiện nảy sinh, tồn tại và phát triển.
2. ảnh hưởng của xã hội nông nghiệp cổ truyền phương Đông.
Chủ nghĩa Mác xem tư duy như là sản phẩm của sự phát triển lịch sử của thực tiễn xã hội,
như là hình thức lý luận của hoạt động người, là sản phẩm của hoạt động thực tiễn. Tư duy cũng
không tồn tại ngồi xã hội, ngồi ngơn ngữ, ngồi những kiến thức mà lồi người tích luỹ được.
Ngay những nhiệm vụ mà con người đặt ra để tư duy cũng nẩy sinh từ các điều kiện sống của họ.
Tư duy con người luôn luôn mang bản chất xã hội.
Nền sản xuất nông nghiệp phương Đông cùng với chế độ công xã nông thơn tồn tại hàng
nghìn năm ở nước ta đã ảnh hưởng rất lớn tới phong cách tư duy của người Việt Nam. Đó thực
chất là một nền sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp khép kín, manh mún và phẳng lặng như “mặt nước
ao tù”, cắt đứt các mối liên hệ cả trong nước và thế giới. Chính nền sản xuất đó đã làm cho tầm
nhìn của con người bị hạn hẹp, thiếu nhìn xa trơng rộng, nặng về tư duy kinh nghiệm hơn là tư duy
lý luận. Sản xuát lúa nước với những chu kỳ được lặp đi lặp lại gần như là vĩnh cửu cùng với
những chu kỳ của thời tiết, khí hậu dần dần đã tạo nên cho con người thói quen ỷ lại, dựa dẫn vào
kinh nghiệm cũ, ít địi hỏi phải năng động sáng tạo. Với trình độ sản xuất nơng nghiệp lạc hậu, phụ
thuộc nhiều vào thời tiết khí hậu, địi hỏi nhiều ở sự vận động của cơ bắp hơn là của trí tuệ, trong


khi đó khoa học kỹ thuật lại khơng phát triển thì kinh nghiệ sản xuất đóng vai trị hết sức to lớn.
Đây là một nguyên nhân hình thành một cách tự phát tư tưởng sùng bái kinh nghiệm, tuyệt đối hóa
vai trị của kinh nghiệm. Chúng ta cũng khơng thể không đồng ý với ý kiến của một số nhà nghiên
cứu cho rằng: Cùng với xã hội nông nghiệp cổ truyền phương Đơng, nước ta từ khi chưa thốt
khỏi xã hội nguyên thuỷ đã gặp ngay giặc ngoại xâm từ phương Bắc và nạn ngoại xâm đã đe doạ
thường trực suốt 20 thế kỷ. Hồn cảnh đó bắt ơng cha ta chỉ được nghĩ đến những chuyện thiết
thực trước mắt, ít có thì giờ để lo tính cái lâu dài, phát triển khoa học kỹ thuật và phát triển tư duy
hệ thống chính xác. Trong hồn cảnh đó việc hình thành thái độ tuyệt đối hố kinh nghiệm là điều
khó tránh khỏi(3). Sự đe doạ thường trực của giặc ngoại xâm và của thiên tai đã cố kết cộng đồng
các dân tộc Việt gắn bó chặt chẽ với nhau, từ đó hun đúc nên tâm hồn cốt cách Việt Nam giàu lịng
nhân ái, vị tha, thương u đồn kết, đùm bọc lẫn nhau. Đó là giá trị tinh thần truyền thống dân tộc

vơ cùng q báu nhưng chính nó lại là nguyên nhân nảy sinh lối tư duy thường nặng về tình hơn
về lý, làm hạn chế sự phát triển tư duy lý luận.
Cùng vớinhững ảnh hưởng trên, sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn phương Đông ở
nước ta cũng tạo nên sự kìm hãm đối với tư duy lý luận, thúc đẩy tư duy kinh nghiệm phát triển.
Khác với công xã phương Tây cổ đại, công xã nôngthôn Việt Nam với chế độ sở hữu chủ yếu là
đất công chứ không phải là sở hữu tư nhân đã kìm hãm q trình phân cơng lao động xã hội cũng
như hình thành các đơ thị để sản sinh ra một tầng lớp lao động trí óc. Hơn nữa, cũng phải thấy
rằng do chưa trải qua cuộc cách mạng tư sản nên có thể nói đất nước ta cũng chưa trải qua cuộc
cách mạng về tư duy theo hướng phát triển tư duy lý luận. Tất cả những yếu tố trên đã tạo nên
những điều kiện thuận lợi cho tư duy kinh nghiệm và bệnh kinh nghiệm nảy sinh.
3. Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản.
Chế độ phong kiến đã đè nặnglên đời sống tinh thần của xã hội nước ta hàng nghìn năm
bằng các học thuyết của Nho-Phật-Lão. Các học thuyết này đã ảnh hưởng rất lớn tới mỗi người
Việt Nam, đặc biệt là Nho giáo. Do nhu cầu củng cố chế độ phong kiến tập quyền, từ thế kỷ XV,
Nho giáo đã chiếm được vị trí độc tơn trong xã hội phong kiến Việt Nam. Tất nhiên nó đã để lại
những tác động tích cực nhất định. Song, ở đây chúng ta chỉ xem xét khía cạnh tác động, ảnh
hưởng của nó tới việc làm nảy sinh và phát triển thực tiễn tư duy kinh nghiệm, bệnh kinh nghiệm
chủ nghĩa ở nước ta.
Có thể nói tác động rõ nét nhất của Nho giáo tới tư duy kinh nghiệm là tinh thần phục cổ thái
q của nó. Mặc dù ơng tổ của Nho giáo khuyên răn người ta rằng “ôn cổ tri nhi tân, khả dĩ vi sư
dã” (ôn việc cũ để biết cái mới, thì có thể làm thầy mọi người), nhưng lại ln ln khẳng định
“thuật như bất tác, tín nhi hiếu cổ” (tơi chỉ thuật lại chứ khơng sáng tạo gì cả, tôi tin và yêu cái cổ).
Tôn trọng quá khứ là cần thiết và đáng trân trọng, song cái quan trọng hơn là phải biết rút ra
những bài học lịch sử. Nhưng Nho giáo lại dạy người ta chỉ biết suy nghĩ và hành động theo kinh
nghiệm của người xưa, điều gì trái với cổ nhân, khơng có trong sách “Thánh hiền” thì khơng phải
chân lý. Chính lối tư duy đó dễ dẫn người ta tới chỗ hồi nghi cái lạ, dè dặt với cái mới, sùng bái
kinh nghiệm cũ, chỉ biết làm theo kinh nghiệm. Tinh thần “trọng cổ khinh kim” ấy đã tạo nên cho


người ta thói quen chỉ biết phê phán nhưng gì trái với cổ nhhân, trái với lời dạy của “Thánh hiền”,

chỉ thích cái mới trong khn khổ cái cũ. Trong khi đó nho giáo lại củng cố đầu óc bảo thủ bằng tư
tưởng “ nội hạ ngoại di” theo kiểu tự đại tự cao của phong kiến Trung Quốc. Từ đó khơng chịu học
hỏi các dân tộc khác, chỉ biết có mình, tự cho mìh là giỏi, dẫn tới đóng cửa, lạ lẫm trước những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được. Những điều này đã góp phần làm cho tư duy lý luận trở nên
yếu kém, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa có điều kiện nảy sinh và phát triển.
Quả là Nho giáo có đề cao sự hiểu biết, coi trọng việc học và tinh thần ham học, nhưng đối
tượng của sự hiểu biết và sự học lại hết sức hạn hẹp. Tri thức về lao động sản xuất, về thế giới tự
nhiên không phải là đối tượng quan tâm của nhà Nho- người quân tử. Họ chỉ biết học thuộc lịng
“Tứ thư”, “Ngũ kinh”, thuộc lịng nhiều điển tích, những bài thơ, những áng văn hay để mong thi đỗ
làm quan. Học đối với họ là để biết thờ cha và thờ vua, để làm quan chứ không phải để có hiểu
biết, để nâng cao trình độ tư duy của mình(4). Cách học và mục đích học như vậy đã làm cho tư
duy trở nên xa thực tế, thiếu tính sáng tạo, dung dưỡng cho lối tư duy kinh nghiệm và bệnh kinh
nghiệm phát triển.
Cùng với những ảnh hưởng đó, tư tưởng đẳng cấp phong kiến cũng có tác động tiêu cực rất
lớn tới sự phát triển của tư duy lý luận. Tư tưởng này dần dần đã triệt tiêu mất bầu khơng khí dân
chủ, điều kiện quan trọng không thể thiếu cho phát triển của khoa học, cũng như của tư duy lý
luận. Thiếu bầu khơng khí dân chủ thì khơng thể có tranh luận để đi đến chân lý, khơng thể có
sáng tạo khoa học. Trong thực tế đã có khơngít trường hợp chân lý chỉ thuộc về những người có
chức có quyền, chân lý chỉ là kinh nghiệm của một nhóm người, thậm chí đơi khi chỉ là của một
người. Trong khi đó ta lại chưa giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa chính trị và khoa học. Cùng
với những nguyên nhân khác, tư tưởng đẳng cấp phong kiến này đã làm cho bệnh kinh nghiệm
chủ nghĩa thêm trầm trọng và phổ biến.
Cùng với ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, tư tưởng tiểu tư sản cũng có tác động tiêu
cực rất lớn tới sự phát triển của tư duy lý luận của nhan dân ta nói chung và đội ngũ cán bộ nói
riêng, bởi chúng ta có tới 46% đảng viên ở nơng thơn và có tới trên 60% cơng nhân xuất thân từ
nơng dân.
ảnh hưởng trước hết của tư tưởng tiểu tư sản chính là ở tính thiển cận tiểu tư sản. Nếu như
tính thiển cận làm cho nhận thức dừng lại ở kinh nghiệm, ở hiểu biết cũ, thì tính thiển cận tiểu tư
sản lại khiến cho người ta thỏa mãn với kinh nghiệm cũ, với những hiểu biết cũ. Từ đó làm cho
người ta có thói quen lười động não, lười suy nghĩ, ngại phức tạp, ngại khó khăn, làm cho cách

suy nghĩ nông cạn hạn hẹp càng được củng cố. Phải chăng chính tính thiển cận tiểu tư sản đã làm
cho bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trở nên trầm trọng và kéo dài trong cán bộ ta? Cùng với tính thiển
cận, sự ảo tưởng, kiêu ngạo, tư cao tự đại đã dẫn nhiều cán bộ tới chỗ thiếu khiêm tốn trong học
tập để nâng cao năng lực cũng như trình độ tư duy lý luận. Những tư tưởng này đã làm cho nhiều
cán bộ ta quá say sưa với những thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến, thiếu mất sự tỉnh táo tưởng
rằng đã thắng Pháp và Mỹ thì làm gì cũng được. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho


chúng ta đóng cửa về lý luận. Tất cả những cái đó đã trực tiếp hay gián tiếp làm cho bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa nảy sinh, tồn tại và phát triển.
Đó là những nguồn gốc chủ yếu của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong đội ngũ cán bộ nước
ta. Những nguồn gốc này có mối quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau, cùng nhau tạo nên điều
kiện thuận lợi cho tư duy kinh nghiệm và bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa nảy sinh, tồn tại và phát
triển.
Khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong cán bộ ta không phải là chuyện giản đơn một
sớm một chiều, nó địi phải có thời gian và phải có những biện pháp tổng thể. Tuy nhiên, trước mắt
cần phải có những giải pháp cụ thể, nhằm hạn chế ngăn gngừa một cách có hiệu quả. Đảng ta
luôn luôn chú trọng khắc phục căn bệnh này. Từ văn kiện Đại hội lần thứ III tháng 9-1960 cho tới
Nghi quyết 01 của Bộ Chính trị về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay ngày 28-3-1992, Đảng
ta đều có đề cập tới nhiệm vụ khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong cán bộ ta. Song phải
thẳng thắn thừa nhận rằng hiệu quả còn thấp. Đó là vì một phần do chúng ta chưa có cơ chế để
thực hiện có hiệu quả những biện pháp đó. Theo chúng tơi, để khắc phục và ngăn ngừa có hiệu
quả bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong cán bộ ta, trước mắt cần thực hiện một số biện pháp cơ
bản dưới đây:
- Nâng cao trình độ văn hố, khoa học, kỹ thuật cho nhân dân nói chung, cho cán bộ nói
riêng, trên cơ sở đó nâng cao trình độ năng lực tư duy lý luận cũng như trình độ lý luận cho đội
ngũ cán bộ. Thực tế chỉ ra rằng, muốn làm được điều này, trước hết phải nâng cao trình độ của đội
ngũ cán bộ làm cơng tác lý luận, tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin; phải đổi mới công
tác giáo dục đào tạo, công tác thông tin khoa học, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực
này; phải trau dồi hơn nữa phương pháp tư duy duy vật biện chứng. Đối với mỗi cán bộ đảng viên,

cùng với việc trau dồi phảm chất đạo đức cách mạng, phải không ngừng ra sức học tập, vì trình độ
tư duy lý luận khơng phải người ta sinh ra vốn đã có sẵn mà là kết quả của nhiều yếu tố khác
nhau, trong đó việc học tập bằng những hình thức khác nhau để nâng cao vốn tri thức, cơ sở
không thể thiếu để nâng cao trình độ tư duy lý luận, là vơ cùng quan trọng.
- Tăng cường tổng kết thực tiễn quán triệt sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận vì trau dồi
rèn luyện tư duy lý luận không chỉ thông qua học tập mà cịn phải thơng qua sự vận dụng và trải
nghiệm thực tiễn. Tổng kết thực tiễn thì khơng thể có lý luận. Cùng với tăng cường tổng kết thực
tiễn, phải quán triệt tốt sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận. phải nhanh chóng bồi dưỡng, đào
tạo để hình thành đội ngũ cán bộ vừa có trình độ tư duy lý luận, trình độ lý luận, vừa am hiểu thực
tiễn, bởi lẽ “ có kinh nghiệm mà khơng có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mù”(5), hơn nữa
hoạt động thực tiễn sẽ vòng vo, mị mẫm quanh quẩn, thậm chí mất phương hướng. Xa vời thực
tiễn thì lý luận sẽ trở nên giáo điều, sách vở, trống rỗng.
- Khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ, tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản. Để khắc phục chúng có
hiệu quả, chúng ta phải kết hợp đồng bộ nhiều biện pháp: kinh tế, hành chính, văn hố, giáo dục,
v.v..., trong đó biện pháp kinh tế đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Chỉ có nền sản xuất lớn với quy
trình cơng nghệ sản xuất tiên tiến, cơng cụ lao động tinh vi có hàm lượng trí tuệ cao mới khắc phục


được tâm lý sản xuất nhỏ, cũng như tư tưởng phong kiến, tiểu tư sản. Tuy vậy, ngay từ bây giờ khi
chưa có đủ cơ sở vật chất to lớn ấy, chúng ta phải từng bước tuyên truyền, cải tạo, giáo dục nhằm
hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của chúng tới phong cách tư duy của cán bộ ta. Đồng thời,
phải xây dựng được bầu khơng khí dân chủ trong công tác nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa
học và giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa lý luận và chính trị.
Những giải pháp này phải được thực hiện đồng bộ, song điều quan trọng là phải có được cơ
chế phù hợp, tức là phải có được những chính sách cụ thể được thể chế hố về mặt nhà nước,
tạo điều kiện cho những biện pháp đó được thực thi trên thực tế. Có như vậy chúng ta mới dần
dần khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả được bệnh kinh ngiệm chủ nghĩa, góp phần nâng cao
năng lực trí tuệ của Đảng.
Chú thích:
1.Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị ngày 28-3-1992 về cơng tác lý luận trong giai đoạn hiện

nay, xem phần đánh giá tình hình.
2. Nghị quyết đã dẫn xem phần nhiệm vụ
3. Xem Trần Đình Hượu, “Tư tưởng hay là triết học và nội dung của cách đặt vấn đề đó
trong nghiên cứu ý thức hệ Việt Nam”. Tạp chí Triết học, số 4/1984. Hà Văn Tấn, “Mấy suy nghĩ về
lịch sử Việt Nam và tư tưởng Việt Nam”, tạp chí Triết học, số 4-1984. Vũ Khiêu, “Nền sản xuất nhỏ
Việt Nam và hậu quả của nỏtong tâm lý dân tộc”. Thông báo triết học, số 22-1971.
4. Xem thêm: Trần Đình Hượu, Tập bài giảng về triết học Mác - Lê-nin, phần 1, “Nhập môn
triết học”, Trường Nguyễn ái quốc khu vực I, H., 1991, tr. 133. Luận ngữ, dịch giả Đồn Trung Cịn,
Nhà in Trí Đức Tịng Thơ, Sài Gịn, 1950, quyển 7, chương 13, tiết 4; quyển 9, chương 17, tiết 9;
quyển 1, chương 2, tiết 11.
5. Hồ Chí Minh. Tồn tập, Nxb Sự thật, H.1984,t,4.tr445.
KHẮC PHỤC BỆNH KINH NGHIỆM CHỦ NGHĨA NÂNG CAO NĂNG LỰC TRÍ TUỆ CỦA ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN
Công tác đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã mang lại nhiều thành công trên tất cả
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, song nó cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi
hỏi phải được giải quyết với tầm trí tuệ mới. Một trong những nhiệm vụ cơ bản đặt ra là phải khắc
phục những yếu kém trong tư duy của đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng, trong đó có bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa.
Kinh nghiệm là tri thức mà con người có được do tiếp xúc, quan sát, thực nghiệm trong hoạt
động thực tiễn. Nó là điểm xuất phát, là cơ sở ban đầu không thể thiếu được của quá trình nhận
thức. Kinh nghiện càng phong phú thì càng tạo ra nhiều dữ kiện cho khái quát lý luận khoa học.
Các khoa học phát triển luôn luôn gắn liền với kinh nghiệm. Nếu khơng có tri thức kinh nghiệm thì
nhận thức của nhân loại cũng khơng tiến lên được. Song dù quan trọng đến đâu thì kinh nghiệm
nói chung cũng chỉ mới phản ánh được cái bề ngoài của sự vật, chỉ mới dừng lại ở miêu tả, tường
thuật, ghi chép các tư liệu riêng lẻ, những mối liên hệ ngẫu nhiên. Chính vì vậy mà Ăng-ghen đã
viết: "Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó khơng bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính
tất yếu"(1). Do đó nếu tuyệt đối hố những kinh nghiệm cụ thể, cá biệt, biến chúng thành những
kinh nghiệm phổ biến nhằm áp dụng cho mọi trường hợp thì sẽ mắc bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.



Người kinh nghiệm chủ nghĩa thường bằng lòng với kinh nghiệm cũ của mình và cho rằng với cái
vốn kinh nghiệm đó có thể giải quyết được mọi vấn đề. Từ đó họ hạ thấp vai trị của lý luận, coi
thường việc học tập nâng cao trình độ lý luận khoa học, có thái độ khơng đúng đối với những
người làm cơng tác lý luận nói riêng, đội ngũ trí thức nói chung.
Cùng với những căn bệnh khác, bệnh kinh nghiện chủ nghĩa là một tác nhân lợi hại tạo ra
những sai lầm khuyết điểm trong hoạt động thực tiễn và hoạt động tư tưởng, lý luận của nhiều cán
bộ đảng viên.
Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong đội ngũ cán bộ đảng viên ở nước ta có những biểu hiện chủ
yếu sau đây:
- Biểu hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong phong cách tư duy là lối suy nghĩ giản đơn,
đại khái, phiến diện, thiếu tính lơ-gích biện chứng và tính hệ thống, hướng vào quá khứ là chủ yếu,
lấy những kinh nghiệm cũ làm tiêu chuẩn, thước đo chân lý. Kết quả của lối tư duy này là làm cho
lý luận trở lên trì trệ, bảo thủ, lạc hậu. Nó đã để lại những dấu ấn khá rõ nét trong quán triệt, thực
hiện và phát triển sáng tạo đường lối quan điểm của Đảng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
- Biểu hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong hoạt động thực tiễn là kiểu làm việc mị
mẫm, tuỳ tiện, thiếu tính kế hoạch, lấy kinh nghiệm của cá nhân, của ngành hay của đại phương
làm cơ sở chỉ đạo thực tiễn. Chính vì vậy mà trong chỉ đạo thực tiễn những cán bộ mắc bệnh kinh
nghiệm thường thiếu dự kiến, chỉ thấy việc trước mắt không thấy việc lâu dài, thấy cục bộ, bộ phận
không thấy tổng thể, thấy cái riêng không thấy cái chung, chấp hành chỉ thị nghị quyết của cấp trên
thiếu chủ động sáng tạo. Trước những sự việc đổi mới, họ bỡ ngỡ lúng túng, mất phương hướng.
- Biểu hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong công tác tổ chức cán bộ thể hiện ở chỗ lấy
những tiêu chuẩn cán bộ thời kỳ lịch sử đã qua áp dụng cho việc xem xét, đánh giá, đề bạt cán bộ
của thời kỳ mới khi mà điều kiện lịch sử đã có nhiều thay đổi, nhiệm vụ của cách mạng đã có
những yêu cầu khác trước... Dĩ nhiên là cần tôn trọng lịch sử và hết sức trân trọng những kinh
nghiệm tốt của quá khứ, song yêu cầu của thực tiễn cuộc sống đã thay đổi thì những kinh nghiệm
cũ trong cơng tác tổ chức cán bộ cũng cần phải được tiếp thu và phát triển có chọn lọc.
Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong đội ngũ cán bộ đảng viên nước ta có nhiều ngun nhân
khác nhau. Theo chúng tơi, trước hết là do những nguyên nhân sau đây:
- Trình độ văn hố, khoa học hạn chế.

- Trình độ và năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ đảng viên thấp.
- ảnh hưởng của chiến tranh kéo dài.
- ảnh hưởng tiêu cực của nền sản xuất nhỏ.
Tất cả những yếu tố này quyện vào nhau và tạo nên những điều kiện thuận lợi cho bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa nảy sinh, tồn tại và phát triển.


Từ Đại hội lần thứ III tháng 9-1960 cho tới Hội nghị Trung ương lần thứ 9 ( khoáVII) vừa qua,
trong các văn kiện, Đảng ta rất coi trọng việc lãnh đạo khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa
trong đội ngũ cán bộ đảng viên. Song, phải thừa nhận rằng kết quả khắc phục căn bệnh này còn
thấp so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Trước mắt, để khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong cán bộ đảng viên, cần thực hiện những biện pháp cơ bản sau:
1. Nâng cao trình độ văn hố, khoa học, trình độ và năng lực tư duy lý luận cho cán bộ
đảng viên.
Đảng và Nhà nước ta đã làm khơng ít việc để mở rộng và phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng
cao trình độ dân trí và trình độ tư duy khoa học. Đại bộ phận cán bộ đảng viên đã có được trình độ
học vấn và phương pháp tư duy khoa học duy vật biện chứng ở trình độ nhất định. Nhữnh thành
tựu quan trọng chúng ta giành được trong công cuộc đổi mới vừa qua cũng là kết qủa của định
hướng tư duy khoa học đúng đắn. Nhưng bên cạnh những mặt tốt, chúng ta cũng nhận thấy rằng
vốn tri thức cũng như trình độ và năng lực tư duy của cán bộ ta nói chung cịn thấp.
Để nâng cao trình độ, năng lực tư duy lý luận cho cán bộ đảng viên, trước hết cần phải nâng
cao trình độ văn hố, khoa học, kỹ thuật, vốn hiểu biết nói chung cho họ. Thực trạng trình độ văn
hố của đội ngũ cán bộ đảng viên cho thấy số cán bộ có trình độ trung học và đại học ở cấp
huyện, quận mới đạt 46,7%, ở cấp xã, phường là 12,9%. Trình độ văn hoá thấp đã cản trở cán bộ
đảng viên chúng ta rất nhiều trong việc trau dồi năng lực tư duy lý luận và kỹ năng sử dụng
phương pháp duy vật biện chứng. Từ đó, tư duy lý luận bị hạn chế, dễ mắc phải bệnh giáo điều và
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Vì vậy, cần phải có một chiến lược tổng thể nhằm nâng cao trình độ
lý luận cũng như trình độ văn hố, khoa học, kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ đảng viên nói riêng, cho
nhân dân nói chung.
Thực tế chỉ ra rằng, muốn làm được điều đó trước hết phải nâng cao năng lực và trình độ của

đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận, tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phải đổi mới
công tác giáo dục, đào tạo, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này. Mỗi cán bộ Đảng
viên cùng với việc trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng thì phải khơng ngừng nâng cao vốn tri
thức của mình. Cần nhanh chóng khắc phục tình trạng cịn có nhiều đảng viên thối thác học tập lý
luận; một số đảng viên đi học tại chức song chất lượng và hiệu quả chưa cao; một số khác chỉ
muốn học nghề, học văn hố chứ khơng muốn học lý luận.
Cùng với việc nâng cao trình độ lý luận, trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật, cán bộ đảng viên
chúng ta phải trau dồi hơn nữa phương pháp duy vật biện chứng. Trong nghiên cứu khoa học và
trong nhận thức lý luận, tổng thể thực tiễn có thể và cần phải sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau và chúng đều có những tác dụng tích cực nhất định. Song chưa có phương pháp tư duy
riêng biệt nào thay thế được phương pháp duy vật biện chứng mà chỉ góp phần làm sáng tỏ hơn
những khía cạnh biểu hiện cụ thể và bổ sung thêm cho phương pháp duy vật biện chứng mà thôi.
Cho nên, nắm được bản chất linh hồn sống của phương pháp duy vật biện chứng và trau dồi kỹ
năng sử dụng nó phải trở thành một tiêu chuẩn đánh giá trình độ và năng lực tư duy lý luận của
cán bộ ta.


2. Tăng cường tổng kết thực tiễn, quán triệt sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận.
Trau dồi rèn luyện tư duy lý luận không chỉ thông qua việc học tập mà cịn phải thơng qua việc
phân tích, tổng kết các kinh nghiệm thực tiễn. Trên cơ sở đó mà rút ra những kết luận có tầm lý
luận khoa học. Tổng kết thực tiễn có vai trị hết sức to lớn trong việc phát triển lý luận, khắc phục
chủ nghĩa giáo điều cũng như chủ nghĩa kinh nghiệm. Không có tổng kết thực tiễn thì lý luận khơng
thể phát triển được. Nhưng trong tổng kết thực tiễn nên phải hết sức chủ động tránh chủ quan duy
ý chí, khắc phục bệnh thành tích và chủ nghĩa hình thức. Cần khắc phục tình trạng tổng kết nặng
về mơ tả, liệt kê, kể lể tình hình, kể lể thành tích... có như vậy tổng kết thực tiễn mới không rơi vào
chủ nghĩa kinh nghiệm.
Để tổng kết thực tiễn có hiệu quả cần bảo đảm những yêu cầu cơ bản sau:
- Phải khách quan, trung thực. Đây là yêu cầu cơ bản trong tổng kết thực tiễn. Nếu tổng kết
thực tiễn thiếu khách quan thì việc hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách hoặc sẽ bị chủ
nghĩa chủ quan, hoặc sẽ bị chủ nghĩa kinh nghiệm chi phối. Thực tế cho thấy, tổng kết theo kiểu

"tô hồng" hay "bôi đen" sớm muộn sẽ dẫn người ta tới chủ quan, ảo tưởng, xa rời thực tế, ấu trĩ
hay bi quan tiêu cực. u cầu khách quan địi hỏi người làm cơng tác tổng kết thực tiễn phải trung
thực, dám nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng sự thật, đánh giá đúng sự vật như nó vốn có. Có như
thế, tổng kết thực tiễn mới đạt đến tầm lý luận khopa học.
- Phải có tính khái qt cao. Nếu khái qt thực tiễn chưa đến tầm lý luận thì chúng sẽ bị bệnh
kinh nghiệm chủ nghĩa chi phối. Tính khái quát trong tổng thể thực tiễn được thể hiện ở chỗ cần
tìm ra mối liên hệ bên trong của nhiều sự kiện, nhiều dữ kiện và nhiều hiện tượng để từ đó tìm ra
bản chất của sự vật, tìm ra cái chung có tính quy của các sự kiện; những kết luận được rút ra phải
có tính phổ biến và có giá trị thực tiễn, tức là chúng phải có tác dụng định hướng, dẫn đường, chỉ
đạo hành động cách mạng tiếp theo có hiệu quả. Tất nhiên, tính khái qt của những kết luận cụ
thể được rút ra từ tổng thể thực tiễn cũng được giới hạn bởi pham vi và quy mô của thực tiễn
được tiến hành tổng kết.
- Phải được định hướng rõ ràng vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa, vì sự phát triển của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Khơng qn triệt tốt u cầu này thì tổng kết thực tiễn khó
bảo đảm được tính khách quan và do đó khơng thể có tính khái quát cao. Tổng kết thực tiễn phải
phục vụ cho mục đích đó chứ khơng phải phục vụ cho một ý đồ hay nguyện vọng, lợi ích của một
nhóm hay một cá nhân nào. Thực tế cho thấy, mọi biểu hiện xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa đều
bị chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại... làm cho công tác tổng kết biến dạng
nghiêm trọng.
- Phải quán triệt tốt sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận. Yêu cầu này được thể hiện ở chỗ,
việc tổng kết các hoạt động thực tiễn cần được định hướng bởi các quan điểm lý luận cơ bản, cần
được soi rọi bởi ánh sáng của lý luận khoa học; và ngược lại những kết luận lý luận khoa học cần
được tiếp tục kiểm nghiệm trong hoạt động thực tiễn thông qua việc thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng. Thiếu sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì trong hoạt động
cách mạng sớm muộn cán bộ, đảng viên ta sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm.


3. Đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Đây là giải pháp cơ bản có tính quyết định để khắc phục triệt để lối tư duy của người sản xuất
nhỏ. Nền sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán đã sinh ra những con người có tầm nhìn hạn hẹp, chỉ

biết hành động theo thói quen và những kinh nghiệm cũ, an phận, kém chí tiến thủ vươn lên.Nền
sản xuất nhỏ với những công cụ thủ công là chủ yếu và dựa vào những kinh nghiệm sản xuất
được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, đòi hỏi sự vận động của cơ bắp, sự cần cù chịu
khó nhiều hơn là sự vận động của trí óc đã làm cho tư duy lý luận chẳng những khơng được phát
triển mà cịn trở nên yếu kém.
Người sản xuất nhỏ bị bó hẹp trong mối quan hệ làng xã khép kín, khơng được tiếp xúc với
nền cơng nghiệp hiện đại và những thành tựu văn hoá, khoa học kỹ thuật tiên tiến nên họ thường
hạn chế về tầm nhìn, cách suy nghĩ, dễ trở nên bảo thủ, trì trệ, cục bộ, bản vị địa phương, phường
hội, gia trưởng, v.v.. Tất cả những điều này đã cản trở tư duy phát triển có tính hệ thống, chặt chẽ
về lơ-gích, nhưng lại thúc đẩy tư duy kinh nghiệm, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa nảy sinh, tồn tại và
phát triển. Cho nên muốn khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa thì
cùng với việc thực hiện những biện pháp khác cần phải đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố để đưa đất nước đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Chỉ có nền sản xuất lớn hiện
đại với quy trình cơng nghệ tiên tiến, những cơng cụ lao động có hàm lượng trí tuệ cao, thì mới
khắc phục được căn bản và triệt để những hậu quả của nền sản xuất nhỏ để lại. Chính quy trình
cơng nghệ sản xuất tiên tiến với những cơng cụ lao động có hàm lượng trí tuệ cao này địi hỏi
những người sản xuất phải có trình độ văn hố, trình độ chun mơn nghiệp vụ nhất định thì mới
đáp ứng được yêu cầu của sản xuất và quản lý. Nền sản xuất như vậy sẽ tạo ra những điều kiện
vật chất thích ứng người sản xuất phải động não, phải biết tư duy sáng tạo trong lao động sản
xuất, dám nghĩ, dám tìm tịi cái mới, v.v..



×