Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề độc tập dân tộc giá trị lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.6 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP
DÂN TỘC - GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :
Mã sinh viên
:
Nhóm tín chỉ
:
Mã đề tài
:

Phan Văn Toản
Lê Thị Thắm
22A4010628
Nhóm 56
Chủ đề 03

Hà nội, ngày 21 tháng 06 năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
1, Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................... 1
2, Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................1


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu............................................. 2
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài................................................... 2
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC.....3
1.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân
tộc........................................................................................................................3
1.2. Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.5
1.3. Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để7
1.4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ................ 8
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ GIÁ TRỊ THỰC TIỄN CỦA TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC....................................9
2.1. Giá trị lý luận........................................................................................9
2.2. Giá trị thực tiễn.................................................................................. 12
KẾT LUẬN......................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................19


MỞ ĐẦU
1, Tính cấp thiết của đề tài
Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, là tấm gương mn đời sau
cịn ghi nhớ. Cả cuộc đời Người đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng dân tộc. Vì vậy mà vấn
đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc được Người quan tâm, nung nấu suốt
cả cuộc đời. Người đã từng nói: “Cái tơi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi
được tự do, Tổ quốc tơi được độc lập,…”, “Khơng có gì q hơn độc lập tự
do”. Là người dân mất nước, nhiều lần được chứng kiến tội ác dã man của
chủ nghĩa thực dân đối với đồng bào mình và nhân dân các dân tộc bị áp bức
trên thế giới, Người thấy rõ một dân tộc khơng có quyền bình đẳng chủ yếu là
do dân tộc đó mất độc lập. Vì vậy, theo Người, các dân tộc thuộc địa muốn có
quyền bình đẳng thực sự phải tự đứng lên đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành

lại độc lập thật sự, độc lập hồn tồn cho dân tộc mình.
Độc lập dân tộc là một trong những tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc. Vấn đề dân tộc ở đây không phải là vấn đề dân tộc nói chung mà
thực chất đó là vấn đề dân tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vơ sản, là
vấn đề giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của
nước ngồi, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ sự áp bức bóc lột thực dân, thực
hiện quyền dân tộc tự quyết và thành lập nhà nước dân tộc độc lập dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân với đội tiên phong là Đảng cộng sản. Bất kì
dân tộc nào cung quan tâm đến vấn vấn đề độc lập, tự do. Và vì thế, độc lập,
tự do là nội dung quan trọng nhất, chủ yếu nhất trong vấn đề dân tộc.
2, Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích quan điểm của Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc, từ đó rút ra giá trị lý luận và thực tiễn. Giúp cho mọi
người hiểu rõ hơn tầm quan trọng của độc lập dân tộc.

1


Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt mục đích đó đề tài tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
+ Từ những quan điểm đó để rút ra giá trị lý luận và thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Những quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc được thể
hiện trong bài nói, bài viết, tác phẩm của Hồ Chí Minh…
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, của tư tưởng Hồ Chí Minh, quán
triệt tinh thần các Nghị quyết của Đảng.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng

các phương pháp: phương pháp so sánh, phân tích - tổng hợp, lơgíc - lịch sử,
khái quát hoá, trừu tượng hoá và các phương pháp khác.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Đề tài đã góp phần phân tích, làm rõ hơn quan điểm
của Hồ Chí Minh về tư tưởng độc lập dân tộc, từ đó rút ra giá trị lý luận và
thực tiễn.
Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên khi học tập các môn khoa học Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu và làm rõ tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh giúp chúng
ta có cái nhìn sâu sắc về một khía cạnh trong tư tưởng chân thật mà vĩ đại của
Người. Để từ đó xác định mục tiêu phát triển đất nước với những chính sách
xây dựng kinh tế xã hội đúng đắn, giữ vững độc lập chủ quyền, đưa nước ta
trở thành quốc gia ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, ngày càng có vị
thế trên trường châu lục và quốc tế.

2


CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
1.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân
tộc
Độc lập dân tộc là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa.
Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến của các dân tộc bị mất
nước, chịu sự đè nén, thống trị của ngoại bang. Trong điều kiện cuối thế kỷ
XIX Chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị
trường, thực hiện áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nơ dịch về văn hóa
đối với các dân tộc thuộc địa từ đó, đã tạo ra sự bất bình đẳng lớn trong lịch
sử nhân loại. Hồ Chí Minh phê phán và lên án chủ nghĩa thực dân đã chà đạp
và thủ tiêu quyền dân tộc, kìm hãm sự phát triển của các dân tộc thuộc địa.
Cách tiếp cận độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh xuất phát từ quyền con

người.
Quyền con người là một giá trị được thừa nhận và đề cao trong các bản
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Pháp. Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ: “Tất
cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hố cho họ những quyền khơng
ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”1. Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền 1791 của Pháp: “Người ta sinh ra có quyền tự do và bình đẳng về
quyền lợi và ln ln phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi” và khẳng
định: “Đó là những lẽ phải khơng ai chối cãi được”2.
Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những nhân tố có giá trị trong hai bản Tun
ngơn bất hủ đó và nâng lên thành quyền dân tộc : “Tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cung có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”. Với việc tiếp cận vấn đề độc lập dân tộc từ quyền con
người tức, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc Hồ
1
2

Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,t.3, tr.555
Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.1

3


Chí Minh đã đặt nền tảng cho một pháp lý quốc tế mới về quyền dân tộc và sự
bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc.
Ý trí quyết tâm đấu tranh giành và bảo vệ độc lập tự do được thể hiện
xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến
nay gắn liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Điều đó nói lên một khát khao to lớn của dân tộc ta là: ln mong muốn có

được một nền độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và đó cung là một giá
trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ của dân tộc mà Hồ Chí Minh là hiện thân cho
tinh thần ấy. Người nói rằng, cái mà tơi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được
tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.
Năm 1919 vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết Nguyễn Ái Quốc thay
mặt những người Việt Nam yêu nước gửi tới Hội nghị Vecxây Bản Yêu sách
tám điểm đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân An Nam. Bản Yêu sách
tập trung vào hai nội dung cơ bản: Địi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho
người bản xứ Đơng Dương xố bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế vào
đó bằng đạo luật; Đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân (tự do ngơn
luận, báo chí, hội họp, cư trú). Đây là hình thức thử nghiệm đầu tiên của Hồ
Chí Minh sử dụng pháp lý tư sản, đấu tranh bằng phương pháp hồ bình. Bản
u sách khơng mang tính chất cải lương, vì nó gắn chặt mục tiêu đấu tranh
giành quyền dân tộc tự quyết với yêu sách cụ thể đòi quyền tự do, dân chủ.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh cung xác
định mục tiêu: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm
cho nước Nam được hoàn tồn độc lập”3.
Cách mạng Tháng Tám thành cơng Người khẳng định “Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do, độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập.

3

Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1.

4


Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”4.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, trong lời kêu gọi toàn quốc kháng

chiến: “Không, chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
không chịu làm nô lệ”5.
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam: ồ
ạt đưa quân viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược
“Chiến tranh cục bộ" và gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hồn cảnh
khó khăn, chiến tranh ác liệt đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại,
một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế
giới “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”6. Với tư tưởng trên của Hồ Chí
Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dung chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ
xâm lược, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Paris, cam kết tôn trọng các
quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập tự do là một mệnh đề hành động gắn
với cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng giải phóng dân tộc, giai cấp, con
người.
1.2. Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân.
Người đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và
tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Và bằng lý lẽ
đầy thuyết phục, trong khi viện dẫn bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền” của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng
về quyền lợi, và phải ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi”7. Hồ Chí

Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.4
Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.480
6
Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.108
7
Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.1
4
5


5


Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cung phải được tự do và
bình đẳng về quyền lợi. “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được” 8.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng. Người cung đã xác định rõ ràng
mục tiêu của đấu tranh của cách mạng là “Làm cho nước Nam được hoàn toàn
độc lập... dân chúng được tự do thủ tiêu hết các thứ quốc trái... tháo hết ruộng
đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cây nghèo,… Bỏ sưu
thuế cho dân cày nghèo… thi hành luật ngày làm 8 giờ"9. Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được độc lập và một lần nữa Hồ
Chí Minh khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người từng nói: “Nước độc
lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cung chẳng có nghĩa lý
gì”10.
Độc lập phải gắn với hạnh phúc của nhân dân. Ngay sau thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong hoàn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ...
Hồ Chí Minh u cầu: "Chúng ta phải....
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Lâm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành.” 11
Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hổ Chí
Minh, Người ln coi độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc cho nhân dân,
như Người từng bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được

Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.1.
Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1,2.
10

Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,t.4, tr.64.
11
Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.175.
8
9

6


hồn tồn tự do, đồng bảo ai cung có cơm ăn áo mặc, ai cung được học
hành”12.
1.3. Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt
để
Độc lập dân tộc của Việt Nam trước đây là độc lập dưới chế độ phong
kiến. Mọi quyền hành đều do giai cấp phong kiến thống trị chi phối, cịn tuyệt
đại đa số nhân dân khơng có quyền tự do, dân chủ, sống dưới thân phận
những người nô bộc.
Trong quá trình đi xâm lược các nước, bọn thực dân đế quốc hay dùng
chiêu bài mị dẫn, chúng reo ảo tưởng về “độc lập tự do” trong nhân dân,
chúng thành lập các chính phủ bù nhìn bản xứ, tun truyền cái gọi là “độc
lập tự do giả hiệu” cho nhân dân các nước thuộc địa nhưng thực chất là nhằm
che đậy bản chất “ăn cướp" và "giết người” của chúng, mọi quyền hành về
chính trị, kinh tế đều nằm trong tay bọn thực dân, đế quốc. Vì vậy, theo
Người phải đấu tranh giành cho được nền độc lập thật sự. Theo Hồ Chí Minh,
độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả các lĩnh
vực. Nền độc lập thực sự, tức là dân tộc đó phải được độc lập về tất cả các
mặt chính trị, kinh tế, tồn vẹn lãnh thổ. Độc lập phải gắn liền với quyền tự
quyết dân tộc. Mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia phải do nhân dân của
dân tộc đó tự quyết định, khơng có sự can thiệp của nước ngoài. Người nhấn
mạnh: độc lập mà người dân khơng có quyền tự quyết về ngoại giao, khơng

có qn đội riêng, khơng có tiền tài chính riêng… thì độc lập đó chẳng có ý
nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hồn cảnh đất nước ta sau Cách mạng
Tháng Tám cịn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc ngồi bao vây
tứ phía, để bảo vệ nền độc lập thật sự mới giành được. Người đã thay mặt
Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp “Hiệp định Sơ bộ” ngày 6-3-1946,
theo đó, “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ là
12

Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.187.

7


một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, qn đội của
mình, tài chính của mình”13.
1.4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng
trước âm mưu chia cắt đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược
nước ta đã chia đất nước ta ra ba kỳ, mỗi kỳ có chế độ cai trị riêng. Sau Cách
mạng Tháng Tám, miền Bắc nước ta thì bị qn Tưởng Giới Thạch chiếm
đóng, miền Nam thì thực dân Pháp xâm lược và sau khi độc chiếm hoàn toàn
Việt Nam, một lần nữa thực dân Pháp lại bày ra cái gọi là “Nam kỳ tự trị"
hòng chia cắt nước ta một lần nữa. Trong hồn cảnh đó, trong bức “Thư gửi
đồng bào Nam Bộ” (1946), Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là
dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mịn, song chân lý đó khơng
bao giờ thay đổi”. Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 được ký kết đất nước Việt
Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu
tranh để thống nhất Tổ quốc. Tháng 2 năm 1958, Người khẳng định: “Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong “Di chúc”, Người cung đã
thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng, vào sự thống nhất

nước nhà: “Dù khó khăn, gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn
toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất
định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang nội dung sâu sắc, triệt
để gắn với cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giai cấp, con người.
Tư tưởng đó khẳng định những căn cứ pháp lý về quyền con người, quyền
dân tộc, có ý nghĩa thời đại sâu sắc và mang tính nhân văn cao cả.

13

Hồ Chí Minh : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.583.

8


CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ GIÁ TRỊ THỰC TIỄN CỦA TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
2.1. Giá trị lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; là sự kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại. Tầm quan trọng và vai trò to lớn của tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với xã hội Việt Nam được quy định bởi yêu cầu phát triển của
lịch sử dân tộc Việt Nam và của cách mạng Việt Nam. Trong hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là một
luận điểm mang tầm chân lý, một chân lý bất hủ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn
và giá trị thời đại sâu sắc. Độc lập dân tộc không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ
sống, là một giá trị to lớn trong học thuyết cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Đó là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của
nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp vĩ đại đấu tranh vì độc lập, tự do, vì sự

tồn tại và phát triển của dân tộc; đồng thời tư tưởng đó cịn là nguồn cổ vu,
động viên to lớn đối với nhân loại tiến bộ, đặc biệt đối với các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh vì cuộc sống và hạnh phúc của
mình.
Ý nghĩa và giá trị to lớn của tư tưởng độc lập dân tộc không phải đến
hôm nay chúng ta mới đưa ra bàn luận, mà giá trị của tư tưởng này đã được
nói đến rất nhiều ở Việt Nam và được đánh giá cao ở nhiều nơi trên thế giới
trong suốt mấy thập kỷ qua. Nó đã được khắc sâu, in đậm vào con tim, khối
óc của mọi người dân Việt Nam, trở thành niềm tin, lẽ sống, mục tiêu và động
lực phấn đấu của toàn thể nhân dân Việt Nam. Tư tưởng độc lập dân tộc có ý
nghĩa thực tiễn lịch sử to lớn và ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Nghiên cứu tư tưởng độc lập dân tộc cần phải đặt trong cả cuộc đời
hoạt động cách mạng cứu nước, cứu dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặt trong
9


tổng thể toàn bộ tư tưởng của Người. Cách mạng Tháng Tám thành cơng,
ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn độc
lập”, bắt đầu lập luận từ quyền con người, đó là quyền được sống, quyền tự
do và quyền được mưu cầu hạnh phúc, một quyền đã được "tạo hóa" sinh ra
và khẳng định: "Đó là những lẽ phải khơng ai có thể chối cãi được”. Trong
các bức thư và điện văn gửi đến Liên hợp quốc và chính phủ các nước sau khi
Cách mạng Tháng Tám thành công, Người cung trịnh trọng tuyên bố: "Nhân
dân chúng tơi rất thành thật mong muốn hịa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi
cung kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ quyền thiêng liêng nhất: toàn
vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho nước nhà". Với ý chí "Khơng có gì
q hơn độc lập, tự do", nhân dân Việt Nam đã anh dung, kiên cường chiến
đấu hy sinh đánh thắng hai đế quốc lớn giành độc lập cho dân tộc. Tư tưởng
độc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra bốn nội dung cơ bản có ý
nghĩa lý luận rất sâu sắc:

Thứ nhất, có độc lập dân tộc thì sẽ có tất cả; đất nước không thể phồn
vinh, dân tộc không thể phát triển, nhân dân khơng thể có cơm no, áo ấm và
cuộc đời hạnh phúc nếu khơng có được độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc;
quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc trong một đất nước độc lập,
tự do là vô cùng quý giá và thiêng liêng. Khơng ai có thể tự cho mình cái
quyền can thiệp, có quyền xâm phạm độc lập, tự do của các quốc gia dân tộc
khác, càng khơng thể có quyền thực hiện sự can thiệp đó bằng bom đạn.
Thứ hai, muốn có độc lập dân tộc thì các dân tộc bị áp bức không thể
ngồi yên chờ đợi, càng không thể trông chờ vào sự "ban ơn" của các thế lực
đế quốc, thực dân. Muốn có cuộc sống ấm no, hạnh phúc thực sự thì vấn đề
quyết định trước hết là phải giành cho được độc lập dân tộc, phải vùng lên
xố bỏ mọi xiềng xích, mọi sự áp bức, nơ dịch, thốt khỏi kiếp "trâu ngựa".
Một dân tộc khơng thể có được độc lập, tự do, nếu dân tộc ấy khơng tự đứng
lên để giải phóng cho mình, nếu dân tộc ấy khơng biết tự cứu lấy mình, khơng

10


có con đường đấu tranh đúng. Độc lập, tự do của các quốc gia dân tộc là một
giá trị cao q và thiêng liêng, là "khơng có gì q hơn", là kết quả đấu tranh
liên tục, bền bỉ của cả dân tộc, của nhân dân các quốc gia dân tộc bị áp bức
trên tồn thế giới. Với tinh thần "Khơng có gì q hơn độc lập, tự do", nhân
dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã vùng lên
làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, giành lấy tự do, độc lập
và đứng lên làm chủ vận mệnh, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
chính mình. Cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam để giành
lấy độc lập, tự do đã thực sự nằm trong phạm trù của cách mạng vơ sản.
Trước đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định, muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng có con đường nào khác là con đường cách mạng vơ sản.
Người cịn chỉ rõ: "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải

phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên tồn thế giới
khỏi ách nơ lệ".
Thứ ba, khi độc lập, tự do bị xâm phạm thì cả dân tộc phải kiên quyết
đứng lên chiến đấu đến cùng để giữ vững và bảo vệ nền độc lập và tự do ấy.
Thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do trong những ngày đầu kháng
chiến chống xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Khơng! Chúng ta thà
hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ". Để bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc, nhân dân Việt Nam đã chiến đấu
kiên cường, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng với tinh thần "quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh"; với ý chí quyết chiến quyết thắng, nhân dân Việt
Nam "quyết khơng sợ", hễ cịn một tên xâm lược trên đất nước, thì phải chiến
đấu "quét sạch nó đi". Ý chí phải giành được độc lập dân tộc đã thực sự là
động lực tinh thần to lớn thôi thúc lớp lớp các thế hệ người Việt Nam lên
đường chiến dấu chống kẻ thù của độc lập, tự do, làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ "chấn động địa cầu", làm nên Đại thắng mùa Xuân vĩ đại năm 1975,
giang sơn về một mối, giành hoàn toàn độc lập, tự do cho dân tộc, tạo tiền đề
đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
11


Thứ tư, khi đã có độc lập, tự do thì phải quan tâm chăm lo đến đời sống
vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, làm cho nhân dân ngày càng
hạnh phúc. Giá trị thực sự của độc lập, tự do chính là ở chỗ đó. Làm cách
mạng là để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc thì đồng thời cung phải đem lại
tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; xây dựng chủ nghĩa xã hội là đưa nhân
dân lao động lên làm chủ, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế,
là làm cho mỗi người và cả dân tộc đều "sung sướng" và "tự do". Người cung
đã từng nhấn mạnh: "Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét, thì tự do, độc lập cung khơng làm gì". Trong Di chúc, trước lúc
đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn tiếp tục nhắc nhở Đảng Cộng sản Việt Nam

cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
2.2. Giá trị thực tiễn
Ý nghĩa thực tiễn to lớn của độc lập dân tộc không phải chỉ thể hiện
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong chiến tranh chống xâm lược,
bảo vệ Tổ quốc, mà còn thể hiện rất sâu sắc trong quá trình tổ chức xây dựng
xã hội mới. Khi đã có độc lập, tự do thì điều quan trọng là phải làm cho giá trị
của độc lập, tự do trở nên có ý nghĩa thực sự hơn, đó là cơm ăn, áo mặc, việc
làm, học hành, quyền làm chủ, quyền con người, cuộc sống thường ngày của
mọi người dân.
Thứ nhất, tuân theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thực tiễn
Đảng và Nhà nước Việt Nam không ngừng quan tâm chăm lo nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần, chăm lo đến việc học hành, miếng cơm, tấm áo,
việc làm, quyền làm chủ, cuộc sống tự do và hạnh phúc của các tầng lớp nhân
dân.
Điều đó được thể hiện ở các chủ trương, chính sách về phát triển kinh
tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong gần 35 năm đổi mới đã luôn hướng
tới mục tiêu không ngừng “nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
12


dân” như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khẳng định. Theo đó, đời sống
nhân dân tiếp tục được cải thiện; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, cơng
bằng xã hội đạt được những kết quả tích cực; cơng tác bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe nhân dân được chú trọng... Chính phủ đề ra Chương trình Mục tiêu quốc
gia giảm nghèo bền vững (giai đoạn 2016 - 2020) với số vốn từ ngân sách
trung ương là 41.449 tỷ đồng. Ngồi ra, Nhà nước cịn bố trí 44.214 tỷ đồng
để thực hiện chính sách giảm nghèo thường xuyên, hỗ trợ người nghèo về y tế,
giáo dục, nhà ở, tín dụng…; 70% người dân Việt Nam đã được bảo đảm về
mặt kinh tế, trong đó, 13% thuộc tầng lớp khá giả theo chuẩn thế giới,... chính

là những con số “biết nói”, góp phần từng bước đặt nền móng cho sự phát
triển bền vững của Việt Nam trong tương lai.
Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh COVID - 19, vừa qua, Đảng, Chính
phủ đã quyết định nhiều chính sách hỗ trợ dành cho đối tượng người nghèo,
các hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội là những người có thu
nhập thấp 1 triệu đồng/tháng trong vịng 3 tháng, từ tháng 4 đến tháng 6 2020, với tổng số tiền hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là 62 nghìn tỷ đồng. Qua
đó khơng những bảo đảm cuộc sống của người dân, giúp họ khắc phục những
khó khăn do đại dịch COVID - 19 gây ra mà còn thể hiện chính sách đầy nhân
văn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, sự chăm lo kịp thời đối với người nghèo,
người lao động mất việc làm, thể hiện được bản chất tốt đẹp của xã hội. Đảng
và Nhà nước ta đã có những chính sách đúng đắn và kịp thời để thực hiện
mục tiêu kép: vừa cải thiện tình hình đất nước trước dịch bệnh, vừa ổn định
kinh tế và đời sống nhân dân để không bị phụ thuộc quá nhiều vào sự giúp đỡ,
viện trợ của nước ngoài. Nhờ sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cùng với sự
đồng lòng, giúp sức của nhân dân, Việt Nam trở thành một trong những quốc
gia độc lập, tự chủ có nền kinh tế tăng trưởng dương và chống dịch hiệu quả
nhất trên thế giới. Không chỉ nhân dân trong nước mà Nhà nước ta còn bảo hộ,
hỗ trợ hiệu quả cho cơng dân Việt Nam đang ở nước ngồi, đảm bảo người
Việt dù ở đâu cung sẽ đều được hưởng sự bao bọc của đất nước mình.
13


Thứ hai, trong bối cảnh mới của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân
tộc, của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, độc lập dân
tộc là động lực tinh thần và là tư tưởng dẫn dắt nhân dân Việt Nam trên con
đường phát triển, đi tới phồn vinh và hạnh phúc. Dân tộc Việt Nam phải tự
quyết định con đường phát triển của dân tộc mình; phải giữ vững độc lập, tự
chủ cả về chính trị và kinh tế, khơng bị phụ thuộc, lệ thuộc vào bên ngồi dù
có đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường giao lưu và hợp tác quốc tế.
Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, độc lập dân tộc

gắn liền với chủ nghĩa xã hội, định hướng xã hội chủ nghĩa, độc lập tự do của
Tổ quốc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thồ, an ninh quốc gia, lợi ích đất nước, bản
sắc văn hóa dân tộc, tự do, hạnh phúc, cuộc sống hịa bình của nhân dân... là
cái "bất biến", Đảng và nhân dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ, giữ gìn. Trước
yêu cầu, nhiệm vụ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới, nhân dân Việt Nam không được một phút
nào lơi lỏng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, càng phải chú trọng chăm lo xây
dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cửa các lực lượng
vu trang nhân dân, của quân đội nhân dân, tăng cường sức mạnh quốc phòng,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Hiện nay, Trung Quốc có ý đồ muốn hiện thực hóa đường lưỡi bị, độc
chiếm biển Đơng, muốn khẳng định Hồng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc.
Trung quốc liên tục ngang ngược tiến hành hàng loạt biện pháp nhằm củng cố
hiện diện dân sự lẫn quân sự phi pháp tại Hoàng Sa, nhất là trong những năm
gần đây, bất chấp sự phản đối quyết liệt của Việt Nam và làn sóng lên án từ
cộng đồng quốc tế. Nhưng Hồng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, thuộc lãnh
thổ của Việt Nam, vì vậy khơng ai có quyền xâm phạm. Mỗi người dân chúng
ta cần ý thức được điều nó và quyết tâm bảo vệ hai hòn đảo của chúng ta.
Thứ ba, các thế hệ cán bộ, đảng viên của Đảng ln nêu cao tính tiền
phong, gương mẫu, vào sống, ra chết giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và

14


chăm lo hạnh phúc của nhân dân, sống cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư,
được quần chúng nhân dân tin tưởng và u mến. Đó cịn là tiêu chí đánh giá
trình độ và khả năng lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm và năng lực lãnh đạo
của các tổ chức đảng, sự quản lý, điều hành có hiệu lực và hiệu quả của Nhà
nước, của chính quyền các cấp, cung như trình độ và khả năng lãnh đạo của
mọi cán bộ, đảng viên đối với quần chúng nhân dân.

Cụ thể, Việt Nam đang phát triển và vận hành nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; chủ động mở cửa và hội nhập với thế giới, đẩy
mạnh hợp tác song phương, đa phương, đa dạng hóa quan hệ phù hợp với xu
thế tồn cầu hóa trên cơ sở bảo đảm các quyền, lợi ích dân tộc… Trong xây
dựng và phát triển Đảng, đã từng bước đổi mới nhận thức và đẩy mạnh phát
triển các tổ chức cơ sở đảng tại một số doanh nghiệp tư nhân... Đây là những
điều mà trước đó, khi sinh hoạt trong cộng đồng quốc tế các đảng cộng sản,
đặc biệt là trong hệ thống các đảng cộng sản cầm quyền của các nước xã hội
chủ nghĩa không thể thực hiện được.
Tuy nhiên hiện nay một bộ phận người dân, dân tộc thiểu số cịn thiếu
hiểu biết, dễ bị dụ dỗ lơi kéo đã tạo điều kiện cho kẻ xấu lợi dụng, kích động
chống phá lại các chính sách của Đảng và Nhà nước, gây mất trật tự an toàn
xã hội, ảnh hưởng đến độc lập chính trị của nước nhà. Nước ta đang trong bối
cảnh giao lưu văn hoá phát triển mạnh mẽ, do vậy cung đứng trước sự “xâm
lăng văn hoá” từ phía các nước đế quốc. Hơn nữa, sự suy thoái đạo đức, niềm
tin của đội ngu cán bộ, đảng viên, trong đó có bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản
lý; nhận thức chính trị của chúng ta chưa được chú trọng dẫn đến thiếu tin
tưởng vào khả năng lãnh đạo của Đảng, các quyết sách của Nhà nước, dễ tiếp
tay cho các thế lực thù địch chống phá quốc gia. Chính sách phát triển kinh tế
chưa thực sự phù hợp với tình hình đất nước, khoa học kĩ thuật cịn kém, kinh
tế hộ gia đình chưa có quy hoạch cụ thể. Do đó, nước ta vẫn cịn gặp khó khăn
trong việc đổi mới và phát triển, vẫn còn phụ thuộc vào các nước lớn như Mỹ,

15


Trung Quốc. Hội nhập quốc tế dẫn đến việc một số cá nhân có tư tưởng lai
căng, đồng hóa, chứa đựng nguy cơ băng hoại những giá trị truyền thống, làm
mất cốt cách và diện mạo tinh thần của quốc gia, xói mịn bản sắc dân tộc,
tiềm ẩn những bất ổn về an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội.

Sự quản lý thiếu chặt chẽ, còn lỏng lẻo giữa các cấp, tạo cơ hội để các
thế lực thù địch lợi dụng để cơng kích lịng dân, gây ảnh hưởng đến an ninh
quốc gia, an toàn xã hội và đời sống của nhân dân. Nhiều nơi còn vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân; việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không
nghiêm. Năng lực và phẩm chất của đội ngu cán bộ chưa tương xứng với yêu
cầu của nhiệm vụ.
Trách nhiệm của thế hệ người Việt Nam hôm nay là phải thấm nhuần
và thực hiện tốt hơn tư tưởng Hồ Chí Minh, phải làm cho tư tưởng "Khơng có
gì quý hơn độc lập, tự do" được hiện thực hóa tốt hơn và thấm sâu hơn nữa
trong thực tiễn, trong đời sống hiện thực của mọi người dân, trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hơm nay.
Vì vậy mà mỗi người dân chúng ta cần nhận thức và vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc trong việc giữ gìn độc lập dân tộc và
xây dựng đất nước. Kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách
mạng Việt Nam. Xã hội ngày nay phát triển rất nhanh, nhưng lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin về quy luật vận động của các hình thái kinh tế - xã hội vẫn
còn nguyên giá trị.
Tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ
độc lập dân tộc cho mọi người dân, nâng cao dân trí cho các dân tộc thiểu số,
vùng sâu vùng xa khó khăn. Học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, có lập
trường vững vàng về độc lập dân tộc; hết sức quan tâm đến mối quan hệ về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… của đất nước. Giữ gìn và phát huy bản sắc
dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Tăng trưởng kinh tế, đổi mới
16


đồng bộ, phù hợp về kinh tế vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học cơng nghệ ngày càng cao, đồng

thời hồn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều
kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với
công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Phát huy sức mạnh dân chủ,
tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân và đạo đức xã hội, hồn
thiện hệ thống pháp luật, tơn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người.
Để kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi hệ
thống chính trị phải ln trong sạch, vững mạnh. Xã hội hiện đại càng phát
triển thì yêu cầu về phương thức hoạt động của hệ thống chính trị càng cần
được đổi mới cho phù hợp. Đổi mới theo phương châm mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu là “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Cái bất biến và cái vạn biến đều
phải được nằm trên nền tảng trong sạch, vững mạnh của các thành viên trong
hệ thống chính trị. Nếu các tổ chức trong hệ thống chính trị mà yếu kém,
nhiều tiêu cực thì cả hệ thống sẽ hoạt động khơng hiệu lực, hiệu quả. Do vậy,
hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh chính là điều kiện tiên quyết
để đạt được mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều
đó, đội ngu cán bộ, đảng viên phải luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra
sức tu dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước.
Bầu cử là nghĩa vụ cung như quyền hạn của mọi người dân, thể hiện
quyền làm chủ của mình trong thành lập chính phủ điều hành đất nước. Từ đó,
mỗi người dân đang tự góp phần vào xây dựng một hệ thống chính quyền
trong sạch, vững mạnh, chọn ra những cán bộ, đảng viên có năng lực, sẵn
sàng phục vụ đất nước và nhân dân. Bầu cử cung là cách để mỗi người dân
bảo vệ quyền tự quyết dân tộc, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trước
mọi thế lực thù địch.

17


KẾT LUẬN


Chủ tịch Hồ Chí Minh cung như bao nhà yêu nước khác đều có cùng
quan điểm là “ái quốc ái dân” nhưng điểm khác ở Bác là tình thương ấy
không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm
thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bác ln coi trọng sức
mạnh đồn kết tồn dân và sự đồng tình, ủng hộ to lớn của bạn bè khắp năm
châu và của cả nhân loại. Hiện nay, đất nước ta được sống trong hịa bình và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng các lực lượng thù địch đang ra sức dùng
nhiều con đường và biện pháp khác nhau với mục tiêu thay đổi bản chất của
chế độ chúng ta. Hơn lúc nào hết là tồn dân ln phải nâng cao cảnh giác
cách mạng, đồng thuận trong nhận thức và hành động để tư tưởng của Người
và độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thực hiện hóa trong việc
lấy dân làm gốc.
Sinh viên chúng ta - những chủ nhân tương lai của đất nước cần phải
đấu tranh trong công cuộc giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ Quốc, mỗi người chúng ta dù làm gì, ở bất cứ vị trí làm việc
nào cung phải làm hết sức để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ, chức trách của
mình; Tích cực đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các thói hư tật xấu, tệ nạn, tham
nhung, lãng phí và thiếu trách nhiệm; Tăng cường tuyên truyền, giáo dục lòng
yêu nước, trách nhiệm và nhận thức của người dân. Ln ln mình phấn đấu,
rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, khơng ngừng
nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, sẵn sàng đấu tranh bảo vệ đất nước
trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB
chính trị quốc gia, Hà Nội 2009.

[2] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
[3] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
[4] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
[5] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
[6] Hội đồng chỉ đạo biên soạn quốc gia các bộ mơn khoa học Máclênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003.

19



×