Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

BÁO CÁO TIẾN ĐỘ HIỆU QUẢ VIỆN TRỢ TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ VIỆN TRỢ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.81 MB, 92 trang )




DIỄN ĐÀN HIỆU QUẢ VIỆN TRỢ (AEF)







BÁO CÁO TIẾN ĐỘ HIỆU QUẢ VIỆN TRỢ


TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ VIỆN TRỢ
HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG








Báo cáo phục vụ Diễn đàn Hiệu quả viện trợ lần thứ ba năm 2011
và Hội nghị giữa kỳ Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) năm 2011







Hà Nội, Tháng 6 năm 2011

Lời nói đầu

Năm 2011 Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới với tầm nhìn đặt ra trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 (SEDS) và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội giai đoạn 2011-2015 (SEDP). Năm nay cũng là cột mốc của toàn cầu và Chương
trình nghị sự hiệu quả viện trợ của Việt Nam với sự kiện Diễn đàn cấp cao lần thứ tư
(HLF-4) t
ại Busan.
Nhìn nhận đây là giai đoạn phát triển quan trọng, Chính phủ Việt Nam và các đối tác
phát triển (DP) đã hợp tác để vượt qua nhiều thách thức do tác động tiêu cực của kinh tế
toàn cầu và tìm cách thức tránh “bẫy quốc gia thu nhập trung bình”. Chính phủ Việt
Nam và các đối tác phát triển nhất trí là dù hiện tại Việt Nam đang đương đầu với lạm
phát cao và kinh tế vĩ mô còn thiếu ổn định, nhưng vẫn có cơ hội cho Chính ph
ủ tận
dụng thời cơ này để tái cấu trúc nền kinh tế, xây dựng mô hình tăng trưởng kinh tế mới
hướng tới phát triển bền vững.
Trong lĩnh vực hợp tác phát triển, hiệu quả viện trợ được đặt ở vị trí cao trong chương
trình nghị sự. Để chuẩn bị cho HLF-4 Việt Nam đã tham gia tích cực trong các sáng kiến
hiệu quả viện trợ khu vực và toàn cầu, đặc bi
ệt là đợt khảo sát theo dõi tình hình thực
hiện Tuyên bố Pa-ri (PD) 2011, đánh giá Tuyên bố Pa-ri và Cam kết Hà Nội (PD/HCS) -
Đợt 2. Ở cấp quốc gia, các Bộ ngành, các tỉnh thành và các đối tác phát triển tiếp tục
phấn đấu theo những cam kết và mục tiêu của PD/HCS. Để lồng ghép tài chính hợp tác
phát triển vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, Chính phủ đang xây
dựng khuôn khổ chiến lược ODA 2011-2015 và nghị định mới thay thế Nghị định
131/2006/NĐ-CP v
ề quản lý và sử dụng ODA. Tham vấn rộng rãi và đối thoại tích cực

làm nổi bật quá trình này trong 6 tháng đầu năm 2011 và là yếu tố quan trọng tạo nên
kiến trúc viện trợ mới cho thời kỳ tiếp theo với sự tham gia tích cực hơn của các SPG,
ISG và các bên liên quan khác.
Vì vậy, Báo cáo tiến độ về hiệu quả viện trợ phục vụ Hội nghị giữa kỳ nhóm tư vấn các
nhà tài trợ cho Việt Nam (Hội ngh
ị CG giữa kỳ) năm 2011 cố gắng điểm lại thành tựu,
thách thức và tiến triển của hiệu quả viện trợ ở Việt Nam hướng đến HLF-4 ở Busan vào
tháng 11 năm nay.
Với tư cách Đồng Chủ tọa Diễn đàn hiệu quả viện trợ, chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu
Báo cáo tiến độ hiệu quả viện trợ ở Việt Nam 6 tháng đầu năm 2011.
Đồng chủ tọa AEF
Ông Hồ Quang Minh



Vụ trưởng Vụ Kinh tế đối ngoại
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Ông Max von Bonsdorff



Phụ trách Hợp tác Phát triển
Đại sứ quán Phần Lan




Mục lục



Tóm tắt 1
Giới thiệu 6
Chương 1. Tiến độ hiệu quả viện trợ ở Việt Nam năm 2011 8
1. Tình hình kinh tế - xã hội 8
1.1 Ổn định kinh tế vĩ mô, bình ổn thị trường và kiềm chế lạm phát 8
1.2 Về tăng trưởng kinh tế và tình hình phát triển các ngành, lĩnh vực 9
2. Tổng quan về hiệu quả viện trợ ở Việt Nam 10
2.1. Những phát hiện chính từ kết quả đánh giá độc lập gần đây tình hình thực hiện Tuyên bố Pa-ri
và Cam kết Hà Nội - Đợt 2 (2010) 10

2.2 Những phát hiện chính qua cuộc khảo sát theo dõi thực hiện PD/HCS (2011) 10
A. Đóng góp của các cơ quan Việt Nam thực hiện Chương trình nghị sự hiệu quả viện trợ 11
A.1 Các bộ, ngành 12
A.1.1 Bộ Kế hoạch và Đầu tư 12
A.1.2 Bộ Tài chính 12
A.1.3 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 13
A.1.4 Bộ Tài nguyên và Môi trường 15
A.1.5 Bộ Tư pháp 16
A.1.6 Bộ Y tế 18
A.1.7 Bộ Công thương 20
A.1.8 Bộ Giáo dục và Đào tạo 22
A.2 Các tỉnh, thành phố 23
A.2.1 Thành phố Hà Nội 23
A.2.2 Tỉnh Bắc Ninh 24
A.2.3 Tỉnh Nghệ An 25
A.2.4 Thành phố Hồ Chí Minh 26
B. Đóng góp của đối tác phát triển vào Chương trình nghị sự hiệu quả tại Việt Nam 28
B.1 Nhóm các nhà tài trợ đồng chính kiến 28
B.2 Liên minh châu Âu 30
B.3 Liên Hợp Quốc 32

B.4 Nhóm 6 Ngân hàng Phát triển 34
C. Đóng góp của các bên liên quan khác cho Chương trình nghị sự hiệu quả viện trợ tại Việt
Nam 36

C.1 Nhóm chuyên đề Phát triển năng lực 37
C.2 Nhóm chuyên đề quản lý tài chính 40
C.3 Nhóm chuyên đề mua sắm, đấu thầu 41
C.4 Nghiên cứu đánh giá các Nhóm SPG/ISG 44
D. Kết quả khảo sát tình hình thực hiện PD/HCS năm 2011 46

Chương 2. Hành trình tới Busan của Việt Nam 48
1. Đề xuất hình thành kiến trúc viện trợ mới 48
2. Đóng góp của Việt Nam vào HLF-4 tại Busan 50
Phụ lục 1: Báo cáo Kết quả khảo sát PD năm 2011 (gửi cho OECD-DAC) 54
Phụ lục 2: Bảng kết quả của đợt khảo sát PD/HCS năm 2011 73
Phụ lục 3: Bảng ma trận tóm tắt những vấn đề chính nêu ra trong phiếu trả lời của các
bộ, ngành, tỉnh/ thành phố 84



Danh mục chữ viết tắt

AAA Chương trình hành động Accra
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á
AEF Diễn đàn hiệu quả viện trợ
AFD Cơ quan phát triển Pháp
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
APA Hiệp hội nghị viện Châu Á
CCBP Chương trình Nâng cao Năng lực Toàn diện về Quản lý ODA
CFAA Đánh giá giải trình tài chính quốc gia

CG Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam
CIDA Cơ quan phát triển quốc tế Canada
CSO Tổ chức xã hội dân sự
DAC Ủy ban hỗ trợ phát triển của OECD
DFID Bộ Phát triển quốc tế Vương quốc Anh
DP Đối tác phát triển
EFA Giáo dục cho mọi người
EU Liên minh Châu Âu
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GEF Quỹ môi trường toàn cầu
GoV Chính phủ Việt Nam
HCS Cam kết Hà Nội
HIV Virus làm suy giảm hệ miễn dịch ở người
HPG Nhóm quan hệ đối tác Y tế
IBRD Ngân hàng quốc tế Tái thiết và Phát triển
IDA Hiệ
p hội phát triển quốc tế
IFI Định chế tài chính quốc tế
IMF Quỹ Tiền tệ quốc tế
INGO Tổ chức phi Chính phủ nước ngoài
JAHR Báo cáo tổng quan chung ngành y tế
JPPR Đánh giá chung tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA
LMDG Nhóm các nhà tài trợ đồng chính kiến
MDG Các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ
MIC Nước có mức thu nhập trung bình
MOET Bộ Giáo dục và Đào tạo
MPI Bộ Kế hoạch và Đầu tư
MARD Bộ Nông nghiệp và Phát triể
n nông thôn

MOF Bộ Tài chính

MONRE Bộ Tài nguyên và Môi trường
MTEF Khuôn khổ chi tiêu trung hạn
NA Quốc hội
NGO Tổ chức phi Chính phủ
NTP-RCC Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với Biến đổi khí hậu
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
P135 Chương trình 135
PBA Tiếp cận theo chương trình
PD Tuyên bố Pa-ri về Hiệu quả viện trợ
PEFA Quản lý tài chính công và khuôn khổ giải trình
PEPFAR Kế hoạch viện trợ nhân đạo khẩn cấp của Tổng thống Mỹ cho phòng
chống AIDS
PFM Quản lý tài chính công
PGAE Nhóm quan hệ đối tác về hiệu quả viện trợ
PMU Ban quản lý dự án
PPP Hợp tác công-tư
PRSC Tín dụng hỗ trợ giảm nghèo
REDD Chương trình chung “Giảm phát thải khí nhà kính thông qua các nỗ
lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng của Liên hợp quốc tại Việt
Nam”
SEDP Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
SOE Doanh nghiệp nhà nước
SoI Văn bản thỏa thuận chung
SWAp Tiếp cận ngành rộng
TBS Hỗ trợ ngân sách có mục tiêu
UN Liên Hợp Quốc
UNICEF Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc

VAMESP Dự án theo dõi và đánh giá Việt Nam - Australia
VUFO Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam
WHO Tổ chức Y tế thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới

1
Tóm tắt
Năm 2011 đánh dấu một bước ngoặt cho những vấn đề liên quan đến hiệu quả và tác
động của viện trợ quốc tế tại Việt Nam. Chính phủ Việt Nam sẽ hoàn thiện Chiến lược Phát
triển Kinh tế - Xã hội 2011 - 2010 (SEDS) và Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội (SEDP) và
những kế hoạch liên quan cho giai đoạn 2011-2015. Đề án ODA sửa đổi đang được xây
dựng và cho thấy ODA sẽ đóng góp nh
ư thế nào cho SEDP. Tính chất của các thách thức
phát triển đang thay đổi và những năm tới sẽ tập trung vào cải thiện cơ sở hạ tầng, thể chế
thị trường tài chính, giáo dục, cũng như giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu. Ổn
định kinh tế vĩ mô vẫn có tầm quan trọng hàng đầu thể hiện qua Nghị quyết số 11/NQ-CP
vừa được ban hành. Đồng th
ời, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, diễn biến chính trị ở
các nước và thành tựu Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập trung bình (MIC) sẽ ảnh
hưởng đến khối lượng và loại hình viện trợ mà Việt Nam mong muốn nhận được. Trong
năm 2011, Chính phủ và các đối tác phát triển đã cùng đưa ra nhiều sáng kiến hiệu quả
viện trợ dưới sự dẫn dắt của Diễn đàn hiệu quả viện trợ (AEF). Tất cả những điều trên có
mục tiêu quan trọng là giúp mang lại hiểu biết sâu sắc hơn về môi trường viện trợ đang
thay đổi tại Việt Nam và đưa ra các khuyến nghị thực tế để hoàn thiện thực tế này. Những
kết quả chính của các nỗ lực trên được tóm tắt dưới đây:
Tóm tắt những khuyến nghị của Đánh giá độc lập về thực hiện Tuyên bố Paris /Cam
kết Hà Nội
• Cải thiện khuôn khổ pháp lý và thể chế cho việc quản lý ODA để gắn kết các
hướng dẫn rõ ràng về việc sử dụng ODA có tính chiến lược, thiết kế theo tiếp cận
chương trình (PBAs) và sử dụng các phương thức viện trợ khác mới bao gồm cả tài

chính biến đổi khí hậu;
• Làm rõ chính sách về việc sử dụng các nguồn tài chính phát triể
n kém ưu đãi;
• Rà soát vai trò của Ban Quản lý dự án để giảm phân mảnh trong phạm vi một
Bộ, tăng triển vọng phát triển năng lực bền vững;
• Gắn kết đánh giá các khoảng trống năng lực thể chế vào các chiến lược ngành và
gia tăng việc sử dụng các công cụ đánh giá khách quan cho các hệ thống quốc gia, đặc
biệt trong quản lý tài chính công;
• Xây dựng một chương trình nghị sự cho AEF bao g
ồm những vấn đề liên quan
đến hiệu quả viện trợ và chính sách phát triển mà không thể được giải quyết chỉ trong
Nhóm Đối tác ngành. Tăng cường mối quan hệ giữa AEF và các Nhóm Đối tác bằng
cách vận động họ nêu rõ các hoạt động cần được ưu tiên nhằm nâng cao hiệu quả viện
trợ và báo cáo hàng năm về tiến độ cho AEF.
Kết quả tóm tắt của đánh giá khảo sát thực hiện Tuyên bố Paris/Cam kết Hà Nội
• Chính phủ giữ vai trò làm chủ mạnh mẽ trong chương trình nghị sự phát triển
mặc dù vậy vẫn tồn tại những thiếu hụt về thể chế trong lập kế hoạch và ngân sách;
2
• Có nhiều cải thiện trong việc sử dụng các hệ thống quản lý tài chính, đấu thầu
của Chính phủ, tuy nhiên vẫn còn những vấn đề ở năng lực hiện có, đặc biệt là ở cấp địa
phương. Nhiều hệ thống còn chưa theo kịp với các tiêu chuẩn quốc tế;
• Mức độ hài hòa đã được cải thiện với minh chứng là việc giảm số lượng các Ban
Quản lý trùng lặp và khả năng dự báo viện trợ được cải thiện, tuy vậy vấn đề tồn tại ở
số lượng lớn sự thiếu điều phối trong các hoạt động của nhà tài trợ tại Việt Nam với quá
nhiều công trình nghiên cứu của nhà tài trợ tiến hành đơn lẻ và tiến độ chậm trong việc
áp dụng phương pháp tiếp cận theo chương trình;
• Quản lý ODA theo kết quả đã được cải thiện với việc vận hành hệ thống theo dõi
và đánh giá quốc gia, tuy nhiên cũng vẫn còn vấn đề năng lực ở cấp địa phương;
• Việc chia sẻ trách nhiệm chung được tăng cường bởi các cuộc đối thoại cấp cao
thường xuyên thông qua AEF và CG hằng năm. Thách thức hiện nay là đa dạng hóa sự

tham gia bao gồm các NGO và các tổ chức XHDS và cải thiện các mối liên hệ
giữa hiệu
quả viện trợ và hiệu quả phát triển.
Các ví dụ thực tế trong đóng góp của các cơ quan Việt Nam cho Chương trình nghị sự
hiệu quả viện trợ
• Từ khi nâng cấp từ PGAE, AEF đã trở thành một nền tảng thực sự cho đối thoại
ở cấp chiến lược và chính sách về các vấn đề hiệu quả viện trợ. Trong vai trò đồng Chủ
tọ
a phía Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã theo dõi giám sát việc thực hiện Tuyên
bố Paris và Cam kết Hà Nội, tham gia tích cực vào các cuộc đối thoại nghiêm túc với các
đối tác phát triển và bộ ngành về chuẩn bị sửa đổi Đề án ODA và Nghị định 131, đồng
thời điều phối các hoạt động xung quanh việc hoạch định chiến lược cho các Nhóm đối
tác chuyên đề và việc phát triển một kiến trúc viện trợ quốc gia mới.
• Bộ Tài chính đang tập trung vào cải cách quản lý tài chính giúp cải thiện quyền
làm chủ quốc gia trong các chương trình được tài trợ bởi ODA sắp tới bằng cách cho
phép sử dụng nhiều hơn các hệ thống quốc gia. Các hoạt động hiệu quả viện trợ chính
trong năm 2011 đã bao gồm nâng cấp cổng thông tin điện tử và phát hành Thông tư
40/2011/TT-BTC. Trong tương lai, Nhóm đối tác quản lý tài chính công sẽ hưởng lợi từ

mối liên kết tốt hơn với AEF và các Nhóm đối tác khác để nâng cao, thông qua sự tham
gia sâu hơn trong các cuộc thảo luận đối thoại về chính sách, tác động của nó đối với
chính sách phát triển của nhà tài trợ;
• Trong số các ngành khác, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang nỗ lực
để cải thiện việc theo dõi và đánh giá việc thực hiện các dự án trong ngành. Các nhóm
công tác đang được thiết lập để giải quyết những vướng mắ
c trong việc giải ngân.
• Bộ Tài nguyên và Môi trường đang thực thi những công việc ban đầu trong lĩnh
vực biến đổi khí hậu. Theo khuyến nghị trong báo cáo đánh giá độc lập PD/HCS, một
Ban Điều phối quốc tế đang được thành lập để giúp Ban Điều hành của Chương trình
mục tiêu quốc gia (NTP-RCC). Vấn đề biến đổi khí hậu liên quan đến mọi lĩnh vực hoạt

động của Chính phủ, vì vậy cần có sự kết hợp vững chắc để đảm bảo hài hòa những nỗ
lực và liên kết tuân theo các ưu tiên quốc gia nêu trong SEDP;
3
• Bộ Tư pháp hỗ trợ các nhu cầu hợp tác dài hạn, bền vững và mang tính chiến
lược với các đối tác phát triển để đảm bảo sử dụng hiệu quả vật chất và nguồn nhân lực
cho hỗ trợ cải cách luật pháp và pháp lý. Còn tồn tại nhiều vấn đề, ví dụ, về các nhu cầu
sử dụng chuyên gia quốc tế và Bộ có đề xuất việc sửa đổi Nghị định 131 thành một
phương tiện quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA ít phức tạp và do đó hiệu quả hơn;
• Bộ Y tế đã tiếp tục tập trung vào các vấn đề về hiệu quả viện trợ với nhiều thành
tựu trong nửa đầu năm 2011. Đặc biệt phải kể đến Hội thảo Nhóm đối tác ngành Y tế
(HPG) và công tác chuẩn bị Đánh giá chung ngành Y tế hằng năm. Hội thảo Nhóm đối
tác ngành Y tế đã đề xuất các giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế và liên kết chặt chẽ
hơn với AEF. Trong đó, Bộ Y tế đặc biệt quan tâm đến việc cải thiện điều phối viện trợ ở
cấp tỉnh;
• Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Nghệ An đã tiếp tục
cải thiện công tác theo dõi giám sát, đánh giá dựa trên kết quả cuối cùng và đánh giá sau
dự án của các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn, trong đó đã có sự cải thiện trong việc lưu
trữ và trao đổi các thông tin liên quan. Các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng sẽ được
hưởng lợi trong tương lai từ việc phát triển một khung pháp lý liên quan đến việc sử
dụng các mô hình tài trợ cho khu vực tư nhân.
Các ví dụ thực tế trong đóng góp của đối tác phát triển cho chương trình nghị sự hiệu
quả viện trợ
Tất cả các đối tác phát triển đang hỗ trợ việc sửa Đề án ODA và Nghị định 131.
Quan điểm chung là tập trung nỗ lực để tăng cường kiến trúc tổng thể của viện trợ và
phát triển năng lực ở các cấp được phân cấp là nền tảng cho việc sử dụng hiệu quả viện
trợ ở Việt Nam trong tương lai. Những ví dụ về thực hành tốt bao gồm:
• Nhóm các Nhà tài trợ Đồng chính kiến (LMDG) đã chú trọng đặc biệt vào việc
theo dõi giám sát các chủ đề về hiệu quả viện trợ trong quan hệ với các tổ chức đa
phương như Liên Hợp quốc (UN), Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển
châu Á (ADB). Trong phạm vi có thể, họ đã cùng nhau phát triển các kế hoạch chi

ến
lược quốc gia của mình và hỗ trợ Hội nghị Cấp cao gần đây của AEF tại Hạ Long để
thảo luận về phân công lao động và bổ trợ giữa các đối tác phát triển;
• EU đang xây dựng Lộ trình Hiệu quả Viện trợ EU 2011 trong đó đưa ra tầm nhìn
tổng quan hàng năm về tiến độ hoạt động hiệu quả viện trợ và tuân thủ theo các ưu tiên
quốc gia s
ẽ được đặt ra trong SEDP. Là một phần của nhiều nhóm chuyên đề khác nhau,
EU đã tham gia trong nhiều nỗ lực phát triển năng lực bao gồm hỗ trợ cho Bộ Y tế,
Chương trình xây dựng năng lực có trách nhiệm với môi trường và xã hội của ngành Du
lịch, Quỹ tài trợ đa Uỷ thác cho hiện đại hoá quản lý tài chính công và Chương trình hỗ
trợ đầu tư và thương mại châu Âu.
• UN có nhiều hỗ trợ trong các can thiệp vào hiệu quả viện trợ đặc biệt như công
việc với nhóm công tác kỹ thuật HIV, Nhóm Đối tác Y tế và dự án đặc biệt "hỗ trợ theo
dõi hiệu quả viện trợ từ góc nhìn giới". Sự phát triển của Một Kế hoạch 2012-2016 là một
ví dụ rõ ràng về một kế hoạch chiến lược hài hòa và thống nhất.
4
• Trong số nhiều sáng kiến khác, Nhóm 6 Ngân hàng Phát triển (NHPT) đã hoàn
thành một bản rà soát tổ chức và hoạt động của Ban Quản lý dự án tại Việt Nam và
đang hỗ trợ cập nhật hệ thống đấu thầu quốc gia bằng cách sử dụng phương pháp luận
hệ thống có chỉ số cơ bản của OECD-DAC.
Ngoài ra, các nhóm chuyên đề khác về phát triển năng lực, quản lý tài chính, mua sắm
công và đánh giá tác động xã hội và môi trường đã tập trung hỗ trợ của họ vào các vấn đề
đa dạng như việc thành lập hệ thống báo cáo ODA và hỗ trợ cho đối thoại chính sách.
Đề xuất phát triển các Nhóm đối tác hiện tại và tạo ra một kiến trúc viện trợ quốc gia
mới
Từng tồn tại một số quan ngại trong Chính phủ và các đối tác phát triển khi kiến
trúc viện trợ hiện nay ở Việt Nam đ
ang mất dần sự gắn kết và hiệu quả của nó. Mặc dù
các PG hiện tại có những đóng góp đáng kể vào hiệu quả viện trợ tại Việt Nam, nhưng
số nhiều làm việc độc lập và đối thoại chính sách chỉ được giới hạn trong phạm vi

ngành của họ tham gia. Một vấn đề đáng lo ngại là một số kế hoạch ngành/ tỉnh không
nhất quán với SEDP. Do v
ậy đã có đề xuất là cần điều chỉnh kiến trúc viện trợ quốc gia
với những đặc điểm sau đây:
• AEF sẽ là trung tâm của kiến trúc viện trợ quốc gia và cung cấp phạm vi lớn cho
cuộc đối thoại chi tiết về các vấn đề xung quanh hiệu quả viện trợ và hiệu quả phát triển.
• Các cơ hội đối thoại cấp cao khác sẽ bao gồm nhóm tư vấn (CG), các diễn đàn
trước CG, các diễn đàn PRSC (hoặc dạng như PRSC) và nhóm các nhà tài trợ như
LMDG, 6 NHPT, EU và UN.
• AEF sẽ tạo ra một mạng lưới điều phối các Nhóm Đối tác để trao đổi thông tin về
hiệu quả phát triển, phân công lao động, thực hành tốt v.v…
• Các Nhóm đối tác sẽ báo cáo về hoạt động của nhóm cho AEF, khi đó, AEF sẽ tư
vấn cho các Nhóm đối tác về tổ chức hiệu quả và thúc đẩy sự tham gia của nhóm trong
lĩnh vực lập kế hoạch và ngân sách, phát triển dựa trên phương pháp tiếp cận chương
trình và phương thức viện trợ mới khác.
Chuẩn bị cho Diễn đàn Cấp cao lần thứ 4 về hiệu quả viện trợ (HLF-4) tại Busan,
tháng 11 năm 2011
Bộ KH&ĐT đã tích cực tham gia vào cuộc tranh luận về hiệu quả viện trợ toàn cầu,
chủ yếu là tham gia khảo sát thực hiện Tuyên bố Paris và là thành viên của Ban chỉ đạo
Quốc tế về sáng kiến minh bạch và trách nhiệm giải trình (IATI), thành viên đại diện cho
châu Á - Thái Bình Dương trong nhóm quản lý quốc tế đánh giá PD/HCS (Giai đoạn II),
và thành viên của nhóm soạn thảo trong nhóm tiếp xúc quốc gia đối tác (PCCG).
Một trong những mục tiêu quan trọng của HLF-4 là xem xét chất lượng của viện trợ
trong bối cảnh rộng hơn về hiệu quả phát triển và Việt Nam, đặc biệt trong bố
i cảnh của
một MIC mới, ở địa vị để có một ảnh hưởng mạnh mẽ trong cuộc tranh luận toàn cầu.
5
Định hướng tương lai cho hiệu quả viện trợ tại Việt Nam
Các vấn đề xung quanh hiệu quả viện trợ có vai trò quan trọng đối với tương lai
của Việt Nam trong quá trình trở thành một nước có thu nhập trung bình và nỗ lực để

trở thành một nước công nghiệp hóa. Đã có sự tham gia rất tích cực từ phía đối tác phát
triển và Chính phủ ở cả cấp quốc gia và thế giới. Tuy nhiên, phía trước hứa hẹn nhiều
thách thức, đặc biệt là liên quan đến vấn đề thể chế như là quá trình pháp lý phức tạp,
công kềnh và thiếu năng lực triển khai cụ thể là ở cấp địa phương và đặc biệt là liên
quan đến lập kế hoạch và dự toán ngân sách và quản lý kết quả. Điều phối các kết quả
phát triển qua nhiều vùng địa lý và nhiều bộ còn hạn chế và vẫn còn vướng mắc liên
quan đến thực hiện dự án. Nhiều đối tác phát triển đang có ý định rời khỏi Việt Nam và
việc cần có một chính sách viện trợ thúc đẩy điều phối giữa các nhà tài trợ là quan trọng
để đảm bảo dòng chảy ODA không bị phân mảnh.
Trong bối cảnh đó, công việc của AEF trong nửa cuối năm 2011 là rất quan trọng
và sẽ bao gồm hỗ trợ hoàn thiện nghiên cứu lập bản đồ nhóm đối tác và đề xuất toàn
diện cho một kiến trúc viện trợ mới, hỗ trợ cho việc chuẩn bị sửa đổi Đề án ODA và
Nghị định 131 đồng thời đóng góp đáng kể cho HLF-4 tại Busan.

6
Giới thiệu
Việt Nam đang trong tiến trình kết thúc thành công Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 10 năm (2001-2010) và Kế hoạch 5 năm (2006-2010) với những thành tựu phát
triển kinh tế - xã hội quan trọng. Việt Nam đã vượt 2/3 các mục tiêu Thiên niên kỷ
(MDGs) với tỷ lệ cao trong xóa đói giảm nghèo (gấp gần 3 lần so với mục tiêu của MDG
đề ra cho năm 2015). Những thành tựu đạt được đã đưa Việt Nam trở thành một quốc
gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp (MIC) và bước tiếp vào một chặng
đường phát triển mới.
Trong bối cảnh MIC, Việt Nam nhận thức được nhiều cơ hội và thách thức đan
xen. Bên cạnh những thuận lợi căn bản nhờ tiềm lực kinh tế và những tiến bộ xã hội đã
đạt được, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực được nâng cao,
sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế và của các đối tác phát triển, Việt Nam đang
đứng trước những thách thức không nhỏ, đó là:
(i) Cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội còn nhiều bất cập đang cản trở quá trình phát
triển kinh tế, thúc đẩy đầu tư và cải thiện đời sống nhân dân;

(ii) Thể chế kinh tế thị trường được đã hình thành song vẫn chưa phát triển đồng
bộ và đầy đủ nhằm tạo thuận lợi tối đa cho việc huy động các nguồn vốn đầu tư;
(iii) Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Ngoài các nguyên nhân về thể
chế, mức độ áp dụng công nghệ và kỹ thuật, năng lực quản lý thì chất lượng nguồn
nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao, được xem là yếu tố quan trọng để giải
quyết vấn đề này;
(iv) Hiện tượng biến đổi khí hậu đang tác động nghiêm trọng đến sự phát triển
bền vững (Việt Nam là một trong 5 nước trên thế giới chịu tác động nặng nề nhất của
biến đổi khí hậu);
Những cơ hội và thách thức trên cần phải được nhìn nhận một cách toàn diện và
sâu sắc trên cơ sở chiến lược dài hạn và kế hoạch trung hạn nhằm mục đích cuối cùng là
đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại vào năm 2020
và tránh được bẫy mà nước có thu nhập trung bình thường mắc phải. Các chiến lược và
kế hoạch này được xây dựng trên cơ sở tham vấn chặt chẽ với các đối tác phát triển.
Cơ hội và thách thức khi Việt Nam trở thành MIC
Trong giai đoạn phát triển tiếp theo khi Việt Nam trở thành quốc gia thuộc nhóm
có thu nhập trung bình (MIC), Việt Nam sẽ đối mặt với cả những cơ hội và thách thức:
- Cơ hội: Với vị thế và sức mạnh mà Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua,
Việt Nam sẽ tiếp tục nắm bắt tất cả những cơ hội làm đòn bẩy tác động cho phát triển
bền vững để tránh các bẫ
y thường gặp của các quốc gia thuộc MIC bằng cách giải quyết
các vướng mắc trong cơ sở hạ tầng kinh tế, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao,
7
tiếp tục cải thiện khung pháp lý và thể chế trong quan hệ với cơ chế thị trường, thu hẹp
khoảng cách giàu nghèo, sự chênh lệch trong phát triển giữa các vùng, miền thông qua
một chính sách an sinh xã hội được tiêu chuẩn hóa và cuối cùng luôn đóng vai chủ động
trong ứng phó với những tác động của biến đổi khí hậu để duy trì các thành tựu phát
triển.
- Thách thức: Mặc dù trên thực tế nguồn vốn ODA tiếp tục đóng vai trò rất quan
trọng cả khi Việt Nam trở thành MIC, tuy nhiên đang có những thay đổi trong cơ cấu

nguồn vốn ODA theo các xu hướng sau đây:
(i) Một số đối tác phát triển cung cấp ODA theo các hình thức viện trợ không hoàn
lại sẽ chuyển mối quan hệ với Việt Nam từ hợp tác phát triển truyền thống sang quan hệ
đối tác mới và giảm dần số tiền viện trợ của họ đối với Việt Nam.
(ii) Một số đối tác phát triển cung cấp ODA dưới các hình thức vay ưu đãi, thường
là các định chế tài chính quốc tế (IFI) như WB, ADB, v.v… sử dụng ngưỡng thu nhập
bình quân đầu người như là một trong những tiêu chí để thay đổi chính sách cho vay
của họ theo hướng mở rộng và dần dần chuyển sang các khoản vay ít ưu đãi hơn. Trong
tương lai, quy mô của các khoản vay kém ưu đãi sẽ nhiều hơn, các khoản vay ưu đãi tùy
thuộc vào mức độ phát triển của Việt Nam.
Để thích ứng trong tình hình trên, Việt Nam đang có những nỗ lực điều chỉnh
chính sách, hoàn thiện hơn nữa thể chế của mình thông qua việc xây dựng Đề án định
hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thời kỳ 2011 – 2015
(ở cấp chiến lược, chính sách) và thay thế Nghị định 131/2006/NĐ-CP (cơ cấp thể chế và tổ
chức thực hiện).

8
Chương 1. Tiến độ hiệu quả viện trợ ở Việt Nam năm 2011
1. Tình hình kinh tế - xã hội
Bước vào năm 2011, kinh tế thế giới đối mặt với nguy cơ rủi ro khủng hoảng tài
chính tăng cao tại một số nền kinh tế phát triển. Giá dầu thô trên thị trường thế giới tiếp
tục tăng gây sức ép lên hầu hết các loại hàng hoá khác. Những yếu tố bất lợi đó tác động
làm cho thị trường giá cả trong nước biến động hết sức ph
ức tạp, việc thực hiện mục
tiêu kiềm chế lạm phát vì thế gặp nhiều khó khăn, trong khi một số mặt hàng là đầu vào
quan trọng của sản xuất như điện, xăng dầu buộc phải điều chỉnh tăng. Tình hình trên
đây đã làm giá cả tăng cao, tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta, ảnh
hưởng đến sản xu
ất và đời sống của người dân. Vì vậy, tập trung kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội là mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách

hiện nay. Trước tình hình đó, để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, ngày 24 tháng 02 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Nghị quyết số 11 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Qua nhiều nỗ lực, Việt Nam đã đạt được kết quả trong những lĩnh vực sau:
1.1 Ổn định kinh tế vĩ mô, bình ổn thị trường và kiềm chế lạm phát
a) Thu chi ngân sách nhà nước
- Tính chung 4 tháng đầu năm 2011, tổng thu ngân sách nhà nước ước đạt 37,1%
dự toán năm, tổng chi ngân sách nhà nước ước bằng 32,9% dự toán năm;
- Đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chi theo dự toán được giao và tiến độ thực hiện;
- Đảm bảo thanh toán đầy đủ, kịp thời các khoản nợ đến hạn.
b) Đầu tư phát triển
Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP, tổng số vốn đầu tư cho các bộ, ngành, địa
phương và các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong năm 2011 sẽ bị cắt giảm
khoảng 9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của năm. Về kết quả huy động và thực hiện vốn
đầu tư phát triển trong 4 tháng đầu năm 2011:
- Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thực hiện 4 tháng đầu năm 2011 ước đạt
xấp xỉ 56,6 nghìn tỷ đồng, bằng 30,2% kế hoạch năm và tăng 18,1% so với cùng kỳ
năm 2010;
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4 tháng đầu năm 2011 ước đạt 3,62
tỷ USD, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2010. Về đăng ký mới, cả nước có 262 dự án
được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký mới đạt trên 3,2 tỷ
USD, bằng 58,7% về số dự án và bằng 45,1% về vốn đăng ký cấp mới so với cùng kỳ
n
ăm trước;
9
- Về huy động và sử dụng vốn ODA: trong 4 tháng đầu năm 2011 có 11 dự án
ODA được ký kết thông qua các Hiệp định với tổng giá trị ước đạt 1.028 triệu USD;
cấp vốn cho 11 chương trình, dự án chủ yếu trong lĩnh vực giao thông (mạng lưới
giao thông đồng bằng sông Cửu Long, Cầu Nhật Tân, Tàu điện ngầm Thành phố

Hồ Chí Minh đường số 2), năng lượng (Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn), phát triển
hạ tầng nông thôn, chăm sóc sức khỏe và môi trường (nghiên cứu thích ứng với
biến đổi khí hậu), trong đó: vốn vay đạt 1.002,28 triệu USD, viện trợ không hoàn lại
đạt 25,93 triệu USD đạt 1.002 triệu USD, viện trợ không hoàn lại là 26 triệu USD.
Giải ngân trong 4 tháng ước đạt 1.007 triệu USD bằng khoảng 36% kế hoạch năm
(2.400 triệu USD).
c) Giá cả, lạm phát
Trong thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty
nhà nước đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm bình ổn giá cả, thị trường, kiềm
chế lạm phát. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các qui định về quản lý giá,
đấu tranh phòng chống buôn lậu qua biên giới. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên
chỉ số giá tiêu dùng trong nước vẫn tăng cao. Tính bình quân, chỉ số giá 4 tháng đầu
năm 2011 tăng 13,95% so với cùng kỳ năm 2010.
1.2 Về tăng trưởng kinh tế và tình hình phát triển các ngành, lĩnh vực
a) Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) tính chung 4 tháng đầu năm 2011 ước đạt
trên 270,5 nghìn tỷ đồng, tăng 14,2%;
Nhìn chung, sản xuất công nghiệp tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng khá nhanh, cao
hơn chỉ tiêu kế hoạch năm 2011, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt tốc độ cao hơn mức bình quân toàn ngành. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp trong nước đang gặp nhiều khó khăn do chi phí đầu vào tăng
cao làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
b) Sản xuất nông nghiệp
Trong tháng tư, lốc xoáy, giông và mưa đá ở một số tỉnh miền Bắc cùng với một số
hiện tượng thiên tai khắc nghiệt khác đã gây thiệt hại về người và tài sản cho nhân dân.
Bên cạnh đó, do thời tiết tạo điều kiện thuận lợi để các loại sâu bệnh gây hại phát triển,
gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp. Trước tình hình đó, các cấp, các ngành và các
địa phương đã tích cực triển khai các biện pháp phòng chống và khắc phục thiệt hại do
thiên tai gây ra, bảo đảm phát triển sản xuất nông nghiệp.
c) Phát triển doanh nghiệp

Tính chung 4 tháng đầu năm 2011, có khoảng 24,8 nghìn doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh với tổng số vốn đăng ký ước xấp xỉ 142,9 nghìn tỷ đồng, bằng 90,4% về số
doanh nghiệp và bằng 78,6% về số vốn.
10
Nhìn chung thu ngân sách Nhà nước tăng cao, bảo đảm các nhu cầu chi ngân sách
Nhà nước. Thực hiện tốt việc rà soát cắt giảm, điều chuyển vốn đầu tư phát triển, cắt
giảm chi tiêu ngân sách nhằm tiết kiệm và nâng cao hiệu quả đầu tư công; đồng thời,
tiếp tục thực hiện các biện pháp hỗ trợ sản xuất, khuyến khích xuất khẩu và bảo đảm an
sinh xã hội. Sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển; kim ngạch xuất khẩu tiếp tục đà
tăng trưởng cao hơn so với cùng kỳ và gấp hơn 3 lần chỉ tiêu kế hoạch đề ra; sản xuất
nông nghiệp phát triển ổn định. Ngành dịch vụ tăng đáng kể.
Tuy nhiên, những bất ổn chính trị tại các nước Trung Đông và Bắc Phi, sức ép tăng
giá cả hàng hóa và nguy cơ lạm phát tăng cao tại nhiều nước trên thế giới cùng với phản
ứng tâm lý và dây chuyền sau khi có sự điều chỉnh tăng giá một số hàng hóa thiết yếu,
như: xăng dầu, than bán cho điện,… đã gây khó khăn cho việc kiềm chế lạm phát. Bên
cạnh đó, nhập siêu đang có xu hướng tăng với tỷ lệ nhập siêu đang ở mức cao hơn mục
tiêu đề ra.
2. Tổng quan về hiệu quả viện trợ
ở Việt Nam
2.1. Những phát hiện chính từ kết quả đánh giá độc lập gần đây tình hình thực hiện
Tuyên bố Pa-ri và Cam kết Hà Nội - Đợt 2 (2010)
Theo Báo cáo đánh giá độc lập tình hình thực hiện Tuyên bố Pa-ri và Cam kết Hà
Nội về Hiệu quả viện trợ (Đợt II), Việt Nam là một trong những nước đạt được nhiều
kết quả trong nỗ lực nâng cao hiệu quả viện trợ và gắ
n kết hiệu quả viện trợ với hiệu
quả phát triển. Việc nâng cấp Nhóm Quan hệ đối tác về Hiệu quả viện trợ (PGAE) thành
Diễn đàn Hiệu quả viện trợ như một trong các tiến trình của Hội nghị Nhóm tư vấn các
nhà tài trợ cho Việt Nam vào tháng 2 năm 2010 đã tạo ra một diễn đàn đối thoại ở cấp
chiến lược, chính sách về hiệu quả viện trợ với sự tham gia rộng rãi của các đối tác đóng
góp vào quá trình phát triển của Việt Nam.

Tuy nhiên, theo đánh giá của Đoàn tư vấn độc lập, so với nhiều nước khác Việt
Nam đã tiến một bước dài trên chặng đường hiệu quả viện trợ. Những gì Việt Nam dễ
dàng đạt được đã qua, Việt Nam đang đi đến chặng đường gian nan hơn, đặc biệt khi đi
sâu hơn vào khía cạnh kỹ thuật của các vấn đề như hài hòa quy trình thủ tục và tuân thủ
hệ thống chính phủ, phân công lao động giữa các nhà tài trợ, tiếp cận theo ngành,
chương trình, hỗ trợ ngân sách,….
2.2 Những phát hiện chính qua cuộc khảo sát theo dõi thực hiện PD/HCS (2011)
Về chương trình nghị sự hiệu quả viện trợ, Chính phủ Việt Nam duy trì vai trò
lãnh đạo trong quản lý và điều phối viện trợ, đặt ưu tiên cao vào việc tăng cường khung
pháp lý và thể chế quản lý ODA (ví dụ như Đề án định hướng quản lý và sử dụng ODA
5 năm giai đoạn 2006-2010, Nghị định 131 và các Thông tư liên quan), cải thiện năng lực
lập kế hoạch, thực hiện và giám sát. Tất cả những nỗ lực này tạo nên khuôn khổ vững
chắc cho tất cả các đối tác phát triển liên kết các chương trình quốc gia của họ tuân theo
các chiến l
ược và ưu tiên của Việt Nam. Ba vòng điều tra theo dõi PD / HCS cho thấy
hơn 95% tổng vốn ODA được cung cấp cho khu vực chính phủ, trong đó 93% viện trợ
đã giải ngân được báo cáo trong ngân sách quốc gia của Việt Nam năm 2010 - một mức
11
tăng đáng kể từ 81% năm 2005. Với sự hỗ trợ mạnh mẽ của các đối tác phát triển, hệ
thống quản lý tài chính công và đấu thầu đã được tăng cường đáng kể thông qua cải
cách luật pháp và thể chế, cùng với tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình và cải
thiện năng lực thực hiện. Về kết quả, Việt Nam đã hoàn toàn đạt được mục tiêu PD năm
2010 về việc sử dụng hệ thống quản lý tài chính công và đấu thầu (tương ứng với 62 và
65% tổng số vốn ODA trong năm 2010) và giảm bớt số Ban Quản lý dự án trùng lặp (16
vào năm 2010). Với sự cải thiện trong điều phối và chia sẻ thông tin giữa Chính phủ Việt
Nam và đối tác phát triển trong việc theo dõi luồng vốn ODA cũng như nỗ lực chung
của Chính phủ Việt Nam / nhóm 6 ngân hàng trong việc loại bỏ vướng mắc trong việc
thực hiện dự án, dự báo viện trợ đã cải thiện đáng kể là minh chứng trong việc đạt được
mục tiêu PD số 7.
Việt Nam cũng giữ được tiến độ ổn định về mặt quản lý kết quả theo khung theo

dõi và đánh giá dựa trên kết quả xây dựng cho SEDP 2006-2010 và hệ thống theo dõi và
đánh giá quốc gia đã bắt đầu vận hành từ
năm 2007. Hơn nữa, sự chuyển dịch tới mô
hình viện trợ mới và tiếp cận dựa trên chương trình (PBAs) trong các lĩnh vực như nước
sạch nông thôn và vệ sinh môi trường, giáo dục, Chương trình 135 (mục tiêu hỗ trợ
đồng bào dân tộc thiểu số), giao thông nông thôn và sức khỏe (sắp tới) đã góp phần làm
gia tăng mức độ gắn kết chiến lược của đối tác phát triển trong việc tăng cườ
ng năng lực
cốt lõi của ngành và quy trình hoạch định chính sách, lập kế hoạch, ngân sách và quản
lý kết quả.
Trong hoạt động của PD / HCS, sự tham gia của Quốc hội trong quá trình xây
dựng kế hoạch đã tăng lên đáng kể và từ giai đoạn đầu chuẩn bị SEDP. Các đối tác
phát triển và các Tổ chức phi chính phủ nước ngoài đã và đang tích cực hỗ trợ sự
tham gia của nhiều bên liên quan (ví dụ, Quốc hội, các tổ chức XHDS và cộng đồng)
trong việc xây dựng / giám sát các chiến lược phát triển quốc gia và đã cung cấp ý
kiến để hoàn chỉnh cho dự thảo SEDP cũng như cử đại diện tham gia Hội nghị nhóm
Tư vấn các nhà tài trợ hằng năm (CG), các cuộc họp không chính thức CG giữa kỳ,
đối thoại giữa 22 nhóm quan hệ đối tác ngành (PGS) và Diễn đàn hiệu quả viện trợ
(AEF) – Một phát triể
n mới của Nhóm đối tác về hiệu quả viện trợ (PGAE). Tất cả
những điều này chứng tỏ Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong cải thiện quan
hệ đối tác phát triển, trách nhiệm giải trình chung và trách nhiệm giải trình về kết
quả phát triển.
A. Đóng góp của các cơ quan Việt Nam thực hiện Chương trình nghị sự hiệu quả viện tr

Trong sáu tháng đầu năm 2011, các cơ quan Chính phủ và các đối tác phát triển
tiếp tục đẩy mạnh quá trình kết nối ODA với các nguồn lực tài chính phát triển khác
theo xu hướng chung của thế giới hướng đến HLF-4 ở Busan, khuyến khích quan hệ đối
tác trong hợp tác phát triển.
Những vấn đề và phát hiện chính được tóm tắt tại phụ lục 3.

Dưới đây là những đóng góp của các bộ ngành và các tỉnh thành phố trong chương
trình nghị sự hiệu quả viện trợ:
12
A.1 Các bộ, ngành
A.1.1 Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Ở cấp quốc tế và cấp khu vực, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục chủ trì và đóng vai
trò tích cực như là một thành viên của Nhóm công tác về hiệu quả viện trợ (WP-EFF)
của OECD- DAC. Việt Nam được chọn là thành viên của Nhóm công tác về hiệu quả
viện trợ (WP-EFF) cho HLF-4, thành viên của Ban chỉ đạo Quốc tế về sáng kiến minh
b
ạch và trách nhiệm giải trình (IATI), thành viên đại diện cho châu Á - Thái Bình Dương
trong nhóm quản lý quốc tế đánh giá PD/HCS (Giai đoạn II), thành viên của nhóm soạn
thảo trong nhóm tiếp xúc quốc gia đối tác (PCCG).
Ở cấp quốc gia, theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
chịu trách nhiệm về theo dõi giám sát hiệu quả viện trợ trong quá trình thực hiện PD,
HCS và AAA. Với vai trò là đồng chủ tọa của AEF, Bộ Kế hoạ
ch và Đầu tư đã cộng tác
chặt chẽ với các cơ quan Chính phủ và các đối tác phát triển để thực hiện nhiều sáng
kiến nhằm đưa chương trình nghị sự hiệu quả viện trợ tiến triển. Bộ đã tuân thủ 5
nguyên tắc của PD/HCS trong quá trình phát triển các chính sách, khung thể chế về
ODA và đầu tư công. Cơ chế gắn bó các đối tác phát triển khác, đặc biệt là khu vực tư
nhân trong đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội đã được giới thiệu. Đã có tiến bộ đáng kể
trong hệ thống đấu thầu mua sắm theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế.
A.1.2 Bộ Tài chính
Các hoạt động và kết quả đạt được trong lĩnh vực hiệu quả viện trợ trong 6 tháng đầu
năm 2011:
Trong 06 tháng đầu năm 2011, Bộ Tài chính đã phối hợp chặt chẽ với AEF tích cực
triển khai những hoạt động của năm 2011.
Bộ tiếp tục triển khai thực hiện 22 chương trình, dự án có tài trợ nước ngoài nhằm
hỗ trợ cho các nội dung cải cách quản lý tài chính công của Việt Nam, cụ thể là các lĩnh

vực: quản lý chi, quản lý thu, quản lý công sản, quản lý tài chính doanh nghiệp, quản lý
thị trường tài chính, quản lý giá, quản lý nợ công, thanh tra tài chính, quản lý dự án. Tỷ
lệ giải ngân thực tế của các chương trình, dự án của Bộ Tài chính trong 4 tháng đầu năm
2011 ước đạt 20% kế hoạch giải ngân của cả năm.
Góp phần hiện thực hóa Cam kết Hà Nội, Bộ duy trì tổ chức Hội nghị về Nhóm
quan hệ đối tác giữa Bộ Tài chính và các nhà tài trợ về quản lý tài chính công định kỳ
02 lần vào giữa năm và cuối năm. Bên cạnh đó, Bộ đã chủ động tham khảo mô hình
hoạt động của các Nhóm đối tác khác tại Việt Nam để đổi mới hình thức hoạt động
của Nhóm đối tác trong lĩnh vực quản lý tài chính công: Hội nghị Nhóm quan hệ đối
tác về quản lý tài chính công cuối năm 2010 đã được tổ chức theo hình thức diễn đàn
trao đổi/đối thoại giữa Bộ Tài chính với các nhà tài trợ về một số vấn đề mang tính
thời sự mà các nhà tài trợ quan tâm (chủ đề chính được thảo luận tại Hội nghị cuối kỳ
Nhóm đối tác 2010 của Bộ Tài chính là về Định hướng Chiến lược tài chính giai đoạn
2011-2020).
13
Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính tiếp tục tham vấn ý kiến của các nhà tài trợ về một số
chủ đề mà các nhà tài trợ quan tâm để chuẩn bị cho Hội nghị Nhóm đối tác giữa năm dự
kiến tổ chức vào cuối tháng 5/2011.
Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính (đã được thiết lập và vận hành từ cuối
năm 2010) tiếp tục được củng cố, nâng cấp nhằm cung cấp và chia sẻ các thông tin liên
quan đến các chương trình, dự án ODA qua đó nâng cao tính minh bạch, chính xác và
kịp thời của thông tin về các chương trình, dự án ODA cũng như các cải cách trong lĩnh
vực quản lý tài chính công.
Trong khuôn khổ hoạt động của Nhóm chuyên đề về quản lý lĩnh vực tài chính
của Diễn đàn hiệu quả viện trợ, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 40/2011/TT-BTC
ngày 22/3/2011 bổ sung, sửa đổi một số điểm của Thông tư số 108/2007/TT-BTC về quản
lý tài chính ODA theo hướng làm rõ các hồ sơ, tài liệu phục vụ kiểm soát chi nguồn vốn
ODA.
Ngoài ra, Bộ Tài chính đã và đang phối hợp chặt chẽ cùng Ban Thư ký AEF để
triển khai các hoạt động được đề ra trong Kế hoạch năm 2011.

Trong 6 tháng đầu năm 2011, quy mô, phạm vi hỗ trợ của nhà tài trợ cho Bộ Tài
chính đã tăng lên với hình thức đa dạng hơn. Cơ chế hoạt động của các nhóm PG với
các nhà tài trợ đang dần được cải thiện.
Mặc dù đã đạt được những tiến bộ nhất định nhưng việc triển khai các hoạt động
của Nhóm đối tác trong lĩnh vực Cải cách quản lý tài chính công chưa được phong phú.
Mới chỉ dừng lại ở mức độ trao đổi, cập nhật thông tin thông qua các cuộc họp Nhóm
đối tác định kỳ và các cuộc đối thoại về chính sách. Thiếu thông tin về các chính sách
phát triển và hoạt động của các nhà tài trợ. Trong khi nguồn lực hỗ trợ cho hoạt động
của Nhóm đối tác trong lĩnh vực Cải cách quản lý tài chính công, năng lực của đơn vị
phụ trách về Hiệu quả viện trợ và điều phối viện trợ của Bộ Tài chính còn hạn chế.
Sự liên kết/phối hợp giữa Nhóm đối tác trong lĩnh vực Quản lý tài chính công với
AEF, các nhóm quan hệ đối tác khác và nhóm các nhà tài trợ còn hạn chế, cần xây dựng
được cơ chế phối hợp giữa các Nhóm đối tác theo hướng hiệu quả hơn, qua đó thúc đẩy
việc giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong việc thực hiện các trụ cột “hài hoà hoá
thủ tục”, “tuân thủ hệ thống của chính phủ” và “chia sẻ trách nhiệm chung” của Cam
kết Hà Nội, đồng thời thời góp phần tăng cường trụ cột “phát huy vai trò làm chủ” của
phía Việt Nam.
A.1.3 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn luôn chú trọng vận động tài trợ quốc
tế cho các mục tiêu phát triển của ngành, các vấn đề, lĩnh vực được Chính phủ và Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ưu tiên như: Xóa đói giảm nghèo; nông
nghiệp, nông thôn, nông dân; thiên tai và biến đổi khí hậu; an ninh lương thực; an
toàn vệ sinh thực phẩm.
14
1. Các hoạt động hiệu quả viện trợ và những kết quả đã đạt được trong 6 tháng đầu
năm 2011
Các hoạt động hiệu quả viện trợ và những kết quả đạt được trong năm 2011 do Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thực hiện đã bám sát Tuyên bố Pa-ri, Cam kết Hà
Nội và Chương trình hành động Accra về hiệu quả viện trợ và những hoạt động và sáng
kiến khác liên quan tới hiệu quả viện trợ. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan

và chủ quan, nên kết quả đạt được còn khiêm tốn:
Số lượng và kinh phí các chương trình, dự án ODA và NGO mới được phê duyệt
đạt 3,88 triệu USD, tương đương 2,7% cùng kỳ năm 2010. Kết quả giải ngân các chương
trình dự án ODA còn thấp, chỉ đạt 12,83% kế hoạch năm (chỉ tính số liệu của các đơn vị
có báo cáo định kỳ).
Một số khó khăn và thách thức gồm:
- Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, các nhà tài trợ chuyển hướng ưu tiên
sang Châu Phi;
- Với việc đạt ngưỡng thu nhập 1.000 USD/người, phương thức hợp tác có nhiều
thay đổi đòi hỏi Bộ phải có đầu tư nhiều hơn;
- Đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn rủi ro cao, lợi nhuận thấp, khó
thực hiện do thiếu quỹ đất;
- Thiên tai diễn ra ngày càng khốc liệt, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu toàn
cầu ảnh hưởng đến quy hoạch, kế hoạch phát triển của ngành.
2. Dự kiến kế hoạch trong 6 tháng cuối năm 2011
Mục tiêu chính trong hoạt động hiệu quả viện trợ 6 tháng cuối năm là hoàn thành chỉ
tiêu kế hoạch năm, thực hiện thành công các chương trình, các mục tiêu Chính phủ giao.
Dự kiến các sản phẩm đầu ra của các hoạt động về hiệu quả viện tr
ợ trong 6 tháng
cuối năm và cả năm 2011:
- Chú trọng thể chế, tổ chức hoạt động quản lý hiệu quả viện trợ của Bộ theo định
hướng của cam kết Hà Nội theo hướng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản
lý, điều hành. Tăng cường hoạt động của các đối tác theo hướng quốc gia làm chủ;
- Hình thành và thể chế hóa các cơ chế hoạt động, tăng cường n
ăng lực và xác định
vai trò nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng và đối thoại chính sách và mở rộng sự tham
gia của thành phần tư nhân, phi chính phủ và các đối tượng khác;
- Thực hiện tốt việc theo dõi đánh giá quá trình hình thành và thực hiện dự án
nhằm đảm bảo hiệu quả về tài chính, kinh tế, xã hội, môi trường, bền vững của các
chương trình, dự án, tổ chức các đoàn khảo sát nhằm tháo gỡ các vướng mắc trong thực

hiện, giải ngân một số dự án.
15
A.1.4 Bộ Tài nguyên và Môi trường
Để đảm bảo huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn hỗ trợ quốc tế, Bộ Tài
nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định thành lập Ban Điều phối tài trợ quốc tế
cho Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu. Ban Điều phối sẽ giúp Ban chủ nhiệm
Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (NTP-RCC) trong điều
phối các chương trình, dự án (gồm cả điều phối, giám sát Chương trình Hỗ trợ cho Việt
Nam ứng phó với biến đổi khí hậu (SPRCC), các hoạt động liên quan đến ứng phó với
biến đổi khí hậu (RCC), phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đàm phán về
biến đổi khí hậu:
- Phối hợp với các bộ, ngành liên quan hoàn thiện các thủ tục đàm phán và ký kết
về Hiệ
p định vay trong SPRCC nhằm hỗ trợ thực hiện các chiến lược, chính sách liên
quan đến biến đổi khí hậu và NTP-RCC với vốn vay của Chính phủ Nhật Bản và có sự
tham gia của Chính phủ Pháp;
- Phối hợp với Văn phòng của NTP-RCC hoàn thiện Danh mục chương trình, dự
án về biến đổi khí hậu để vận động tài trợ;
- Xây dựng kế hoạch hành động ASEAN về hợp tác ứng phó với biến đổ
i khí hậu,
chuẩn bị và tham gia chủ trì Cuộc họp lần 2 - Nhóm công tác ASEAN về biến đổi khí
hậu tại Hà Nội;
- Phối hợp với các đơn vị liên quan trình Thủ tướng Chính phủ thành lập Ủy ban
Liên chính phủ Việt Nam - Hà Lan về biến đổi khí hậu và quản lý nước. Phối hợp với
các đơn vị liên quan thuộc Bộ ra quyết định thành lập Ban Điều hành liên ngành và các
Nhóm công tác thuộc Phân ban Việt Nam trong Ủy ban Liên chính phủ Việt Nam - Hà
Lan về ứng phó biến đổi khí hậu và quản lý nước;
- Trong 6 tháng đầu năm 2011, có 11 dự án CDM của Bộ Tài nguyên và Môi trường
đã được phê duyệt, nâng tổng số dự án CDM lên 56 với tổng lượng CO2 tương đương
khoảng 22 triệu tấn.

Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì triển khai:
- Xây dựng đề xuất ý tưởng Dự án cho kế hoạch công tác năm thứ 2, giai đoạn 2
Chương trình Hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO;
- Trình Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp nhận và thực hiện dự án Hỗ trợ kỹ
thuật Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HFCC của Việt Nam;
- Kế hoạch hành động ASEAN thực hiện tuyên bố chung ASEAN về biến đổi khí hậu;
- Xây dựng Kế hoạch hành động chung Việt Nam - Vương quốc Anh năm 2011;
- Tiếp tục hoàn thiện các thủ tục tổng kết các hoạt động của Nhóm hỗ trợ quốc tế
về Tài nguyên và Môi trường (ISGE) giai đoạn 2004-2010, cập nhật và duy trì trang Web
của ISGE.
16
Năm 2011, ISGE kết thúc hoạt động giai đoạn 2008-2010 và là năm đầu tiên của
chương trình hành động ISGE giai đoạn 2011-2015 dự kiến triển khai trong thời gian còn
lại của 2011 như sau:
- Ban Điều hành họp xem xét, phê duyệt kế hoạch tổng thể 5 năm, kế hoạch năm
2011 và đưa ra các vấn đề ưu tiên là cơ sở để các Diễn đàn đối thoại chính sách và các
bên liên quan thực hiện những nghiên cứu chính sách điển hình trong năm;
- Huy động nguồn tài chính để hoàn thiện việc nâng cấp và thiết kế lại trang Web
của ISGE phù hợp với giai đoạn hoạt động 2011-2015;
- Huy động vốn đối ứng của Bộ Tài nguyên và Môi trường và các nguồn hỗ trợ tài
chính từ các nhà tài trợ truyền thống và các nhà tài trợ khác quan tâm cho hoạt động của
ISGE năm 2011 và những năm tiếp theo.
Định hướng giai đoạn 2011-2015, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ:
- Tăng cường cơ chế đối thoại chính sách hướng tới hỗ trợ trực tiếp cho nhiệm vụ
nâng cao năng lực thể chế cho ngành trong hội nhập kinh tế quốc tế dưới nhiều hình
thức, hướng tới thực hiện hiệu quả các kế hoạch, các ưu tiên, chính sách, chiến lược của
Chính phủ và Bộ;
- Tăng cường diễn đàn đối thoại chính sách với các tổ chức quốc tế, trong nước, bộ
ngành, đặc biệt tạo điều kiện cho địa phương và khu vực tư nhân tham gia sâu hơn nữa
vào các diễn đàn chuyên đề;

- Duy trì và phát triển mô hình ISGE nhằm hỗ trợ, huy động và sử dụng tối ưu các
nguồn hỗ trợ quốc tế;
- Phấn đấu huy động nhiều hơn các chương trình, dự án có nguồn vốn nước ngoài
do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp/xây dựng, trình phê duyệt lên đến 1,5
tỷ USD, trong đó Bộ trực tiếp quản lý và thực hiện là 500 triệu USD, bộ, ngành, địa
phương là 1 tỷ USD phục vụ cho các chương trình, dự án, hoạt động ứng phó với biến
đổi khí hậu;
- Tích cực vận động thêm các nhà đồng tài trợ cho SPRCC theo mô hình sử dụng
vốn vay lãi suất thấp, ưu đãi, hỗ trợ kỹ thuật và tài trợ không hoàn lại.
A.1.5 Bộ Tư pháp
1. Các hoạt động nâng cao hiệu quả viện trợ và những kết quả đạt được trong 6 tháng
đầu năm 2011
- Trong thời gian từ đầu năm 2011 đến nay, Bộ Tư pháp tổ chức thẩm định và đề
nghị phê duyệt 02 Dự án ODA mới, bao gồm:
+ Dự án Hỗ trợ thi hành pháp luật về hội nhập kinh tế do Hoa Kỳ tài trợ giai đoạn
2010-2013;
17
+ Dự án Hỗ trợ kỹ thuật về pháp luật và tư pháp do JICA - Nhật Bản tài trợ: Ký
Biên bản hợp tác giai đoạn II - Dự án JICA giai đoạn 2011-2015.
Hiện cả 02 dự án này đều đang triển khai một số thủ tục ban đầu.
- Một số dự án ODA và phi chính phủ khác như chương trình Đối tác Tư pháp, dự
án Tăng cường tiếp cận với công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam, dự án Nhà Pháp luật
Việt - Pháp, dự án Tăng cường đào tạo luật tại Việt Nam, dự án Hỗ trợ xây dựng Luật
tiếp cận thông tin, dự án JUDGE với Canada cũng đang được triển khai và thu được
nhiều kết quả, ví dụ như: đã tích cực hỗ trợ Chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam, hỗ
trợ Bộ Tư pháp triển khai chế định thí điểm Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh,
hỗ trợ các hoạt động trợ giúp pháp lý, triển khai Luật Lý lịch tư pháp; hỗ trợ Tòa án xây
dựng và triển khai Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung), Hỗ trợ công tác soạn thảo
Luật tố tụng hành chính; Kết quả là Luật tố tụng hành chính đã được Quốc hội thông
qua tháng 11/2010; hỗ trợ Viện Kiểm sát nhân dân tối cao soạn thảo Bộ luật tố tụng hình

sự sửa đổi; hỗ trợ Liên đoàn Luật sư Việt Nam ; tiếp tục hỗ trợ Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, tập trung hỗ trợ xây dựng một
số văn bản Luật như Bộ luật Dân sự (sửa đổi), một số văn bản luật, pháp lệnh do Bộ Tư
pháp chủ trì soạn thảo; tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ pháp luật: mở các lớp
tập huấn; hỗ trợ công tác thông tin pháp luật, phổ biến giáo dục pháp luật
2. Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án
Trong quá trình triển khai thực hiện các dự án nói trên, nhìn chung không thấy
phát sinh vấn đề lớn, tuy nhiên có thể nhận thấy xu hướng của cơ chế tài chính từ phía
đối tác nước ngoài ngày càng chặt chẽ, mức chi thấp trong khi thủ tục giải ngân và
quyết toán còn phức tạp nên đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện.
Ngoài ra, cũng có một số ý kiến cho rằng việc bắt buộc phải sử dụng chuyên gia nước
ngoài, đặc biệt là các chuyên gia quốc tế trong một vài dự án tỏ ra không hiệu quả, gây
tốn kém và làm chậm tiến độ thực hiện dự án. Một s
ố dự án đề nghị tăng vốn đối ứng
hoặc trao thêm quyền chủ động cho phía Việt Nam trong việc tuyển chọn chuyên gia tư
vấn nước ngoài.
3. Dự kiến kế hoạch trong 6 tháng cuối năm 2011 và định hướng sau năm 2011
a) Dự kiến kế hoạch trong 6 tháng cuối năm 2011
- Tiếp tục triển khai các phần việc tiếp theo của các dự án như đã cam kết với các
nhà tài trợ
để đạt được các kết quả đầu ra như mong đợi;
- Triển khai các hoạt động trong 02 dự án mới được phê duyệt.
b) Định hướng về hoạt động nâng cao hiệu quả viện trợ sau năm 2011
- Tiếp tục vận động các nguồn tài trợ trong một số lĩnh vực của ngành còn ít hoặc
chưa có dự án đầu tư như lĩnh vực giám định tư pháp, lý lịch tư pháp, trọ
ng tài thương
mại, hòa giải thương mại, thi hành án ;
18
- Xây dựng cơ chế hợp tác đơn giản hơn về thủ tục nhưng vẫn đảm bảo tính chặt
chẽ và khả thi, đáp ứng yêu cầu của nhà tài trợ.

4. Kiến nghị với Chính phủ và các nhà tài trợ để nâng cao hiệu quả viện trợ
- Cần xây dựng chiến lược hợp tác lâu dài và bền vững về pháp luật bên cạnh việc
xây dựng các điều kiện cần thiết cho phía Việt Nam để có thể đáp ứng được đòi hỏi của
tình hình về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực ;
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 ban
hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA;
- Đối với các dự án cả ODA và phi chính phủ, đề nghị Bộ Tài chính xem xét bố trí
vốn đối ứng một cách hợp lý, đảm bảo tiến độ các hoạt động;
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục tổ chức các khoá đào tạo, nâng cao trình độ quản
lý ODA cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý các dự án ODA;
- Đối với các nhà tài trợ, cần đơn giản hóa hơn nữa một số thủ tục trong việc giải
ngân, quyết toán nguồn vốn tài trợ.
A.1.6 Bộ Y tế
1. Các hoạt động và kết quả đạt được trong lĩnh vực hiệu quả viện trợ trong 6 tháng
đầu năm 2011
Hoạt động
- Nhóm đối tác Y tế (HPG) đã tổ chức cuộc họp Nhóm đối tác ngành Y tế lần đầu tiên
của năm 2011 với nội dung tập trung vào việc xây dựng kế hoạch 5 năm ngành y tế 2011-
2015 và Chiến lược Chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 2010-2020, tầm nhìn 2030;
- Tiếp tục xây dựng Báo cáo tổng quan chung ngành y tế 2011 và đặt trọng tâm vào
việc triển khai kế hoạch y tế 5 năm 2011-2015;
- Tổ chức thành công chuyến
đi tìm hiểu công tác hợp tác quốc tế và tình hình vận
động, điều phối hỗ trợ các nhà tài trợ tại tỉnh Hà Giang;
- Tổ chức thành công các cuộc họp với một số đại biểu các tỉnh thảo luận về tình
hình thực hiện vận động điều phối viện trợ và xây dựng mạng lưới Hợp tác quốc tế tại
địa phương;
- Thành lập các Nhóm kỹ thuật trong HPG, các cu
ộc họp về thành lập nhóm và đã
xây dựng được hai nhóm Sức khỏe sinh sản và Quản lý môi trường y tế;

- Tham gia các cuộc họp AEF, chia sẻ các kinh nghiệm và bài học của HPG và trình
bày tại cuộc họp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
- Xây dựng cơ chế tài chính cho HPG.
19
Kết quả đầu ra
- Cuộc họp HPG quý I năm 2011 tổ chức tại Hà Nội ngày 24/3/2011 đã thu hút
được 140 đại biểu trong nước và quốc tế tham dự và góp ý xây dựng rất cụ thể sâu sắc
cho kế hoạch y tế 5 năm và chiến lược 10 của ngành;
- Đã xây dựng và lấy ý kiến góp ý về Báo cáo tổng quan chung ngành y tế (Joint
Annual Health Review), xác định được những bất cập trong ngành và đề xuất biện pháp
giải quyết;
- Thu thập những thông tin về tình hình hợp tác quốc tế nói chung của Hà Giang
và rút ra được những vấn đề cũng như đề xuất tăng cường viện trợ và các hỗ trợ cho Hà
Giang;
- Phát hiện ra các khó khăn thuận lợi trong công tác HTQT tại một số tỉnh;
- Thành lập được 2 Nhóm kỹ thuật và đề xuất thành lập một số Nhóm khác theo
đề xuất của các đối tác như Nhóm kỹ thuật về Tài chính y tế, Bảo hiểm y tế, Nhân lực y
tế, công nghệ thông tin,…
- Đóng góp ý kiến cho AEF và chia sẻ kinh nghiệm liên quan khi có điều kiện;
- Bản dự thảo đầu tiên của Đề xuất tài chính cho HPG và hoàn thiện trang web của
HPG.
2. Những hạn chế, thách thức, chia sẻ kinh nghiệm và bài học
- Xây dựng cơ chế tài chính để tăng cường nguồn lực cho HPG;
- Sự tham gia của các Vụ, Cục chức năng vào thành lập các nhóm kỹ thuật còn
nhiều hạn chế;
- Những vấn đề mới của hiệu quả viện trợ như: Hỗ trợ ngân sách, hỗ trợ theo
chương trình, phân công lao động còn có nhiều cách hiểu khác nhau, chưa thống nhất;
- Quan điểm của các nhà tài trợ nhiều khi còn chưa thống nhất ví dụ việc vấn đề cơ
chế tài chính trong Báo cáo tổng quan y tế.
Kế hoạch trong tương lai

- Tiếp tục tổ chức các cuộc họp HPG với trọng tâm vào việc triển khai kế hoạch 5
năm và xây dựng chiến lược 10 năm;
- Tổ chức một số cuộc họp HPG tại tuyến tỉnh;
- Thành lập các Nhóm kỹ thuật nhằm điều phối tốt hơn các nguồn viện trợ;
- Tiếp tục các chuyến đi thực địa tại địa phương;
- Xây dựng cơ chế tài chính cho HPG;

×