Một số suy nghĩ về đánh giá, nhận xét
của Mác, Ăng-ghen đối với Chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơbắc
đợc đề cập trong tác phẩm Hệ t tởng Đức
Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng trong
lịch sư triÕt häc. Sù xt hiƯn cđa triÕt häc M¸c là một tất yếu
lịch sử, một hiện tợng hợp quy luật. Nó là kết tinh tất cả những
giá trị cao quý của t duy triết học, văn hoá, khoa học của lịch
sử nhân loại. Đồng thời, cũng dựa trên những tiền đề cần thiết
về mặt kinh tế, xà hội đạt đợc ở thời đại đó. Có thể nói, sự ra
đời của triết học Mác vừa là bớc ngoặt cách mạng, là đỉnh cao
trong sự phát triển lý luận triết học, vừa là sự tiếp thu, kế thừa
biện chứng những di sản triết học và khoa học của nhân loại.
Cùng với các tác phẩm lý luận đà viết của mình, Hệ t tởng Đức là một tác phẩm triết học rất quan trọng của Mác, Ăngghen. Trong tác phẩm này, những t tởng cơ bản của thế giới
quan mới đà đợc trình bày tơng đối hoàn chỉnh, phù hợp với
trình độ lóc bÊy giê. Sù ln chøng c¸c t tëng, c¸c nguyên lý,
các phạm trù của quan niệm duy vật về lịch sử có một ý nghĩa
hết sức to lớn cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn.
Về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
Vào mùa hè năm 1844, Mác và Ăng-ghen đà gặp nhau ở
Pa-ri, qua trao đổi thờng xuyên, hai ông đà có sự thống nhất
cao những vÊn ®Ị thc vỊ lÜnh vùc lý ln, nh ¡ng-ghen kể
lại: Khi tôi đến thăm Mác vào mùa hè năm 1844 ở Pa-ri, thì
thấy rằng chúng tôi hoàn toàn nhất trÝ víi nhau trong mäi lÜnh
vùc lý ln, vµ tõ đó trở đi đà bắt đầu sự cộng tác giữa
2
chúng tôi. Đầu năm 1845, Mác dời Pa-ri đến Brúc-xen. Tại Pari, Ông đà chuyển hẳn sang lập trờng của chủ nghĩa duy vật,
đến Brúc-xen, Mác đà đề xuất những cơ sở khoa học của một
thế giới quan mới trên lập trờng của giai cấp vô sản. Đồng thời,
ông đà tiến hành các hoạt động thực tiễn nhằm thành lập một
chính đảng vô sản. Tại đây, Mác đà trình bày quan niệm duy
vật về lịch sử trong Luận cơng về Phoi-ơ-bắc. Thế giới quan
mới - những luận điểm cơ bản đà đợc Mác nêu cô đọng trong
bản sơ thảo này. Đây là một tài liệu quan trọng làm cơ sở để
hai ông tiếp tục phát triển lên về lý luận và trình bày rõ ràng,
chi tiết hơn trong tác phẩm Hệ t tởng Đức sau này.
Trong thời gian chuẩn bị và viết tác tác phẩm Hệ t tởng
Đức, ở nhiều nớc Tây Âu, quá trình phát triển của CNTB diễn
ra khá mạnh mẽ. Những mâu thuẫn vốn có của CNTB ngày càng
gay gắt. Mâu thuẫn cơ bản của phơng thức sản xuất TBCN đÃ
trở lên không thể điều hoà đợc. Những mâu thuẫn giai cấp
vốn có của xà hội t bản mà trớc hết là mâu thuẫn giữa giai cấp
vô sản và giai cấp t sản ngày càng gay gắt, đặc điểm đó đÃ
tạo những tiền đề khách quan chín muồi cho việc khái quát lý
luận về vai trò lịch sử của giai cấp vô sản và đề xuất các quan
điểm duy vật về lịch sử.
Lúc này, phong trào công nhân ở Tây Âu nói chung, ở
Đức nói riêng đà phát triển mạnh, nhng nó chỉ đợc tiếp tục phát
triển đợc khi mà nó thoát khỏi sự phụ thuộc vào hệ t tởng của
các giai cấp khác, tự mình xây dựng đợc hệ t tởng độc lập
trên cơ sở tiếp thu một thế giới quan mới, một học thuyết cách
mạng mới. Trong khi đó, trên lĩnh vực t tởng lý luËn, nh÷ng ngêi
3
ủng hộ hai ông chỉ là thiểu số trong phong trào công nhân,
còn những ngời theo phái CNXH tiểu t sản lại chiếm u thế. Phoiơ-bắc thực chất là một đại biểu của phái CNXH chân chính
đà viết một bài báo công khai nhận mình là ngời cộng sản
(mùa hè năm 1845), đồng thời một số ngời trong phái Hê-ghen trẻ
lại viết những bài báo chống lại chủ nghĩa cộng sản, đòi hỏi
Mác, Ăng-ghen phải có sự bút chiến để vừa tuyên truyền, giác
ngộ làm cho những ngời theo phái của hai ông đợc phát triển,
mặt khác để phê phán các quan điểm sai trái và trình bày có
hệ thống những quan điểm về thế giới quan mới, duy vật về
lịch sử. Đó là bối cảnh và lý do ra đời của tác phẩm Hệ t tởng
Đức.
Mùa thu năm 1845, đề cơng tác phẩm Hệ t tởng Đức đợc C.Mác và Ph. Ăng-ghen soạn thảo. Từ tháng 11/1845 các ông
bất tay vào viết nội dung chi tiết, đến tháng 4/1846 tác phẩm
cơ bản hoàn thành và đợc hai ông tiếp tục bổ sung, hoàn
chỉnh một năm sau đó. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, phần
lớn các chơng của tác phẩm không đợc xuất bản lúc sinh thời
của Mác và Ăng-ghen. Tác phẩm đợc in toàn bộ lần đầu tiên ở
Liên Xô năm 1932.
Tác phẩm Hệ t tởng Đức mang tính phê phán rất phong
phú và rộng lớn. Nhng ý nghĩa chung của tác phẩm này lại là ở
chỗ Mác và Ăng-ghen trình bày một cách chính diện một thế
giới quan mới, vô sản, hình thành những cơ sở triết häc cđa
chđ nghÜa duy vËt biƯn chøng, chđ nghÜa duy vật lịch sử và lý
luận chủ nghĩa cộng sản liên quan chặt chẽ với cuộc đấu tranh
của giai cấp vô s¶n.
4
KÕt cÊu néi dung cđa t¸c phÈm gåm 2 tËp:
TËp I có lời tựa và 3 chơng. Hai ông tập trung trình bày
quan điểm duy vật về lịch sử cũng nh học thuyết về chủ
nghĩa cộng sản của mình; phê phán những quan điểm của
Phoi-ơ-bắc, Hê-ghen và những ngời theo phái Hê-ghen trẻ.
Tập II có 3 chơng (nguyên bản có 5 chơng). Hai ông tập
trung phê phán những quan điểm sai lầm của cái gọi là CNXH
chân chính mà nét điển hình của nó là sự kết hợp giữa
triết học Đức (chủ yếu là triết học Hê-ghen và triết học Phoi-ơbắc) với những học thuyết xà hội chủ nghĩa không tởng (chủ
yếu là chủ nghĩa xà hội không tởng Pháp).
Về chủ đề và nội dung thu hoạch:
Do điều kiện, khả năng nhận thức của bản thân có hạn,
qua nghiên cứu tác phẩm, đặc biệt là Chơng I: Phoi-ơ-bắc,
sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy
tâm, tôi chọn nội dung thu hoạch cho mình với chủ đề: Một
số suy nghĩ về đánh giá, nhận xét của Mác, Ăng-ghen
đối với Chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc đợc đề cập
trong tác phẩm Hệ t tởng Đức.
Nh chúng ta đà biết, Phoi-ơ-bắc (1804-1872) là nhà duy
vật nổi tiếng đầu tiên trong hàng ngũ các nhà triết học vào
những năm 40 cđa thÕ kû XIX, bËc tiỊn bèi cđa triÕt häc Mác.
Phoi-ơ-bắc đà làm sống lại chủ nghĩa duy vật của thế kỷ XVII,
XVIII và làm phong phú một cách sáng tạo thế giới quan duy vật.
Ông là một trong những ngời mà Mác, Ăng ghen kế thừa những
tiền đề lý luận một cách trực tiếp để xây dựng nên học
thuyết cđa m×nh.
5
Tuy tiếp thu triết học duy vật của Phoi-ơ-bắc nhng Mác,
Ăng ghen tiếp thu một cách có phê phán, chọn lọc và kế thừa.
Khi đánh giá, nhận xét về chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc,
Mác, Ăng ghen đà đa ra một nhận xét chính xác rằng: Khi
Phoi-ơ-bắc là nhà duy vật thì ông không bao giờ đề cập đến
lịch sử; còn khi ông xem xét đến lịch sử thì ông không phải
là nhà duy vật. ở Phoi-ơ-bắc, lịch sử và chủ nghĩa duy vật
hoàn toàn tách rời nhau(1).
Thật vậy, hệ thống triết học của Phoi-ơ-bắc chỉ duy vật
trong lĩnh vực tự nhiên. Phoi-ơ-bắc là nhà triết học duy vật vì
khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, quan hệ giữa tồn
tại và t duy, vật chất và ý thức, Phoi-ơ-bắc đà chứng minh và
khẳng định thế giới là vật chất, giới tự nhiên không phải do
thần linh, thợng đế hay một đấng siêu nhân nào sáng tạo ra,
nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ ý
niệm nào. Cơ sở tồn tại cđa giíi tù nhiªn n»m ngay trong giíi tù
nhiªn, chø không phải tự nhiên là sự tồn tại khác của tinh thần.
Ông cho ý thức, t duy là tính thứ hai, còn vật chất là tính thứ
nhất. ý thức chỉ là của con ngời, là sản phẩm của bộ óc ngêi
trong sù ph¶n ¶nh thÕ giíi vËt chÊt. Nh vËy trong lĩnh vực quan
niệm về tự nhiên, Phoi-ơ-bắc là nhà duy vật triệt để, ông
cũng đấu tranh bác bỏ học thuyết của Can-tơ, mà nội dung
của học thuyết này cho rằng: tự nhiên là do ý thức con ngời cấu
tạo nên; và cũng bác bỏ học thuyết của Hê ghen, học thuyết cho
rằng: tự nhiên là một sự tồn tại khác của tinh thần thế giới.
Phoi-ơ-bắc khẳng định tự nhiên tự nó tồn tại mà con ngời có
thể giải thích tự nhiên từ bản thân nó.
6
Trong lĩnh vực tự nhiên, Phoi-ơ-bắc còn có quan niệm đúng
đắn về mối quan hệ giữa vật chất và vận động, thời gian và
không gian, khắc phục một số điểm hạn chế của hình thức
duy vật máy móc, coi vật chất nh một cái gì thuần nhất. Theo
Phoi-ơ-bắc, tự nhiên có rất nhiều chất lợng khác nhau mà
những cảm giác
(1) C.Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1995, tr. 65.
của con ngời có thể nhận biết đợc, ông cho rằng Quan hệ thực
sự của t duy đối với tồn tại là: tồn tại, chđ thĨ, t duy, thc
tÝnh”, nãi mét c¸ch kh¸c: chđ thể (con ngời) với tính cách là
một bộ phận của tự nhiên, còn t duy là thuộc tính của nó. Phoiơ-bắc thừa nhận tính khách quan của các quy luật tự nhiên,
tính khách quan của quan hệ nhân quả, thừa nhận sự vận
động, phát triển của giới tự nhiên diễn ra một cách khách quan
trong những điều kiện nhất định dẫn tới sự
xuất hiện đời sống hữu cơ và con ngời, hay nói một cách khác
là ông đà chứng minh nguồn gốc phát triển của giới hữu cơ từ
giới vô cơ, nguồn gốc của con ngời từ giới tự nhiên, nguồn gốc
của ý thức bắt đầu từ vật chất.
Về nhận thức luận, Phoi-ơ-bắc tiếp tục chống lại thuyết
không thể biết và lối t biện trìu tợng. ông phê phán hệ thống
triết học duy tâm khách quan của Hê ghen vì Hê ghen coi đối
tợng của t duy không có gì khác với bản chất của t duy. Ông
khẳng định đối tợng của nhận thức nói chung và của triết học
nói riêng là giới tự nhiên và con ngời. Ông kêu gọi: hÃy quan sát
giới tự nhiên đi, hÃy quan sát con ngời đi, bạn sẽ thấy ở đấy, trớc
7
mắt bạn những bí mật của triết học. Cũng trong khi chống lại
thuyết không thể biết, ông đà khẳng định con ngời có khả
năng nhận thức đợc giới tự nhiên, một ngời thì không thể nhận
thức đợc hoàn toàn giới tự nhiên nhng toàn bộ loài ngời thì có
thể nhận thức đợc.
Hệ thống triết học của Phoi-ơ-bắc khi đi vào bàn vấn
đề tự nhiên thì duy vật triệt để nh đà trình bày ở trên, song
khi bàn về lĩnh vực xà hội ông lại là một nhà duy tâm. Phoi-ơbắc phê phán mạnh mẽ thần học và tôn giáo, vạch râ ngn gèc
cđa nã, «ng cho r»ng chÝnh con ngêi đà bày đặt ra thần thánh
bằng cách trìu tợng hoá đặc tính con ngời của mình, tuyệt
đối hoá, thần thánh hoá đặc tính của con ngời. Nhng sau khi
bác bỏ tôn giáo cũ, Phoi-ơ-bắc đà lại tuyên bố một thứ tôn giáo
mới không có chúa - Tôn giáo tình yêu. Nh vậy Phoi-ơ-bắc đÃ
hạ thần học xuống trình độ nhân bản học và nâng nhân bản
học lên trình độ thần học.
Quan niệm về thời kỳ lịch sử của loài ngời: Phoi-ơ-bắc
khẳng định sở dĩ những thời kỳ lịch sử loài ngời khác nhau
chỉ là do thay đổi các hình thức tôn giáo, muốn làm cho xà hội
phát triển, tiến lên phải thay thế tôn giáo cũ bằng tôn giáo mới,
loại tôn giáo tôn thờ tình yêu thơng nhân loại. Ông cho mối
quan hệ nền tảng con ngời cơ bản là quan hệ đạo đức, ông kêu
gọi Nhân loại cứ hôn nhau đi thì sẽ giải quyết đợc các mối
quan hệ và các vấn đề trong xà hội. Nh vậy Phoi-ơ-bắc đà rơi
vào thuyết duy tâm và không tởng trong các quan niƯm vỊ x·
héi.
8
VỊ vÊn ®Ị x· héi, khi ®Ị cËp ®Õn con ngời, Mác, Ăng
ghen cũng chỉ ra hạn chế cơ bản của Phoi-ơ-bắc là ông không
hiểu đúng về con ngời, coi con ngời nh là một thực thể tự
nhiên thuần tuý mang bản chất tộc loại. Phoi-ơ-bắc không nhận
thức đợc bản chất xà hội của con ngời, không thấy vai trò cđa
mèi quan hƯ gi÷a con ngêi víi con ngêi quy định bản chất của
họ, do đó quan niệm của ông về bản chất của con ngời vẫn
mang tính trìu tợng, phi hiện thực. Mác, Ăng ghen đà phân
tích và chỉ rất rõ hạn chế này của Phoi-ơ-bắc: Đành rằng so
với các nhà duy vật thuần tuý thì Phoi-ơ-bắc có u điểm lớn là
ông thấy rằng con ngời cũng là một đối tợng của cảm giác;
nhng hÃy cứ gạt bỏ việc ông coi con ngời chỉ là đối tợng của
cảm giác chứ không phải là hoạt động cảm giác đợc, vì cả ở
đây nữa ông vẫn còn bám vào lý luận và không xem xét con
ngời trong mối quan hệ nhất định của họ, trong những điều
kiện sinh hoạt hiện có của họ, những điều kiện làm cho họ trở
thành những con ngời đúng nh họ đang tồn tại trong thực tế
thì Phoi-ơ-bắc cũng không bao giờ đi tới đợc những con ngời
hành động đang tồn tại thực sự, mà ông vẫn cứ dừng lại ở một
sự trìu tợng: Con ngời và chỉ đóng khung ở chỗ thừa nhận
con ngời hiện thực, cá thể, bằng xơng, bằng thịt trong tình
cảm thôi, nghĩa là ông không biết đến những quan hệ con
ngời, giữa ngời với ngời nào khác, ngoài tình yêu và tình
bạn, hơn nữa lại là tình yêu và tình bạn đợc lý tởng hoá. ông
không phê phán những điều kiện sinh hoạt hiện tại(1). Đồng
thời Mác, Ăng ghen đÃ
9
(1) C.Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1995, tr. 64.
chỉ ra mối quan hệ giữa con ngời với đời sống, với quá trình
sản xuất vật chất một cách đúng đắn ngay ở phần đầu tác
phẩm là: Chính con ngời, khi phát triển sự sản xuất vật chất
và sự giao tiếp vật chất của mình, đà làm biến đổi, cùng với
hiện thực đó của mình, cả t duy lẫn sản phẩm t duy của
mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời
sống quyết định ý thức(1).
Tóm lại, với hệ thống triết học của mình, Phoi-ơ-bắc đÃ
có đóng góp to lớn cho lịch sử phát triển của triết học nói
chung và đóng góp cho sự hình thành triết học cổ điển Đức,
hệ t tởng Đức. Chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc thực sự là
đỉnh cao nhất, có kế thừa và phát triển những t tởng duy vật
trớc đó trớc khi chủ nghĩa Mác, triết học Mác ra đời. Tuy nhiên,
chủ nghĩa duy vật của ông cũng còn hạn chế, còn nằm trong
khuôn khổ siêu hình và mới chỉ duy vật trên lĩnh vực tự nhiên,
còn trong lĩnh vực xà hội thì triết học của ông lại thể hiện sự
duy tâm. Nh vậy, sự nhận xét, đánh giá của Mác, Ăng ghen về
chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc đề cập trong tác phẩm Hệ
t tởng Đức: Khi Phoi-ơ-bắc là nhà duy vật thì ông không bao
giờ đề cập đến lịch sử; còn khi ông xem xét đến lịch sử thì
ông không phải là nhà duy vật. ở Phoi-ơ-bắc, lịch sử và chủ
nghĩa duy vật hoàn toàn tách rời nhau là hoàn toàn chính
xác. Bằng sự phân tích, đánh giá một cách sâu sắc, tài tình,
Mác và Ăng ghen đà chỉ rõ những tiến bộ đóng góp cũng nh
những hạn chế chủ yếu trong triết học của Phoi-ơ-bắc.
10
Xuất phát từ đánh giá trên, Mác, Ăng ghen đà tiếp thu
những thành tựu của chủ nghĩa duy vật về lĩnh vực tự nhiên
của Phoi-ơ-bắc, khắc phục hạn chế, sai lầm trong nhìn nhận
lĩnh vực xà hội để xây dựng lên hệ thống triết học của mình.
Trong giải quyết các vấn đề về xà hội, Mác và Ăng ghen đÃ
gắn, đa toàn
bộ chủ nghĩa duy vật vào nhìn nhận, đánh gi¸ lÜnh vùc x· héi
b»ng sư dơng phÐp biƯn chøng để tránh sự xem xét duy tâm,
siêu hình, máy móc, cơ giới trong nhận thức xà hội. Theo Mác,
Ăng ghen thì xà hội cũng chỉ là một bộ phận của giới tự nhiên,
một bộ phận đặc biệt, phát triển cao nhất của giới tự nhiên
mà thôi. Lần
(1) C.Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1995, tr. 38.
đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác, Ăng ghen đà thống nhất
đợc chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, tạo thành chủ
nghĩa duy vật biện chứng, khắc phục đợc hạn chế mà chủ
nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc đà mắc phải. Là ngời có thế giới
quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Mác và Ăng ghen đÃ
sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhìn nhận xà hội,
thực chất đó là sự vận dơng chđ nghÜa duy vËt biƯn chøng vµo
nhËn thøc x· hội; khắc phục hạn chế của Phoi-ơ-bắc trong
quan niệm về con ngời (tuyệt đối hoá quan hệ tình yêu, tình
bạn trong các quan hệ xà hội); các ông cũng chỉ rõ các quan hệ
đó là sản phẩm của các kiểu quan hƯ kh¸c (quan hƯ vËt chÊt,
kinh tÕ); con ngêi là sản phẩm của điều kiện xà hội, lịch sử, là
con ngời hoạt động cải tạo thực tiễn, cải tạo xà hội. Vấn đề này
11
đà đợc Mác, Ăng-ghen chỉ rõ trong Hệ t tởng Đức khi phê phán
Phoi-ơ-bắc: Nh vậy là Phoi-ơ-bắc không bao giờ hiểu đợc
rằng thế giới cảm giác đợc là tổng số những hoạt động sống và
cảm giác đợc của những cá nhân họp thành thế giới ấy, vì vậy
khi ông nhìn thấy chẳng hạn một đám ngời đói, còi cọc, kiệt
quệ vì lao động và ho lao, chứ không phải những ngời khoẻ
mạnh thì ông buộc phải lẩn trốn vào trong quan niệm cao
hơn và trong sự bù trừ trong loài, một sự bù trừ lý tởng,
nghĩa là ông lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm đúng ở chỗ mà
ngời duy vật cộng sản chủ nghĩa nhìn thấy cả sự tất yếu lẫn
điều kiện của một sự cải tạo cả nền công nghiệp lẫn cơ cấu xÃ
hội(1).
Còn trong vấn đề những thời kỳ lịch sử khác nhau của
con ngời cũng không phải là sự thay thế của những tôn giáo
khác nhau nh Phoi-ơ-bắc đề cập, mà đó là sự thay thế của
các phơng thức sản xuất, của các hình thái kinh tế xà hội, đó
là một quá trình lịch sử tù nhiªn, trong x· héi cã giai cÊp biĨu
hiƯn ra bằng đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xÃ
hội.
ý nghĩa rút ra qua nghiên cứu:
Trong bối cảnh lúc đó, luận điểm trên của Mác, Ăng-ghen
về nhận xét, phê phán chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc có
một ý nghĩa rất to lớn trong cuộc đấu
(1) C.Mác và Ph.Ăng ghen, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1995, tr. 64,65.
tranh chống lại các quan điểm sai trái trong triết học của Phoiơ-bắc mà nó đang là chỗ dựa tinh thần cho giai cấp t sản Đức,
12
đồng thời nó là cơ sở lý luận để chống lại các quan điểm của
các phe phái đủ màu sắc của CNXH tiểu t sản đang chiếm u
thế lúc bấy giờ. Vì nh chúng ta đà thấy, trong thời kỳ này
những ngời ủng hộ Mác, Ăng-ghen vẫn chỉ là thiểu số mà
nhiệm vụ của các ông là phải chứng minh một cách khoa học
cơ sở của hệ t tởng của giai cấp vô sản,
trong đó có những vấn đề về mặt xà hội. Luận điểm trên của
Mác, Ăng-ghen góp phần phê phán triệt để những quan điểm
duy tâm của nền triết học Đức nói chung và triết học của Phoiơ-bắc nói riêng; nó góp phần thể hiện một thế giới quan cách
mạng mới để tiến tới xây dựng các t tởng, nguyên lý, các phạm
trù của quan niệm duy vật về lịch sử, nó góp phần phát hiện,
hình thành rõ quan niƯm duy vËt vỊ lÞch sư, chØ râ sù duy
tâm về xà hội của Phoi-ơ-bắc để từ đó có quan niệm đúng
đắn duy vật về lịch sử.
Với bút pháp luận chiến tuyệt vời của mình, Mác, Ăngghen lần đầu tiên đà áp dụng một cách triệt để quan điểm
giai cấp trong việc phê phán các trào lu t tởng phi vô sản, để lại
một tác phẩm mẫu mực về sự kết hợp nhuần nhuyễn tính
đảng vô sản và tính khoa học trong công tác lý luận. Những
kết quả nghiên cøu lý ln vỊ triÕt häc nãi chung cịng nh việc
đánh giá, nhận xét về chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc nói
riêng trong tác phẩm Hệ t tởng Đức là cơ sở cho hoạt động
khoa học và thực tiễn tiếp theo của Mác, Ăng-ghen. Với thành
tựu này, các ông đà làm sáng tỏ mọi vấn đề cho chính bản
thân mình, đà thanh toán xong món nợ tinh thần với hệ t tởng Đức. Chỉ bằng việc các thế lực phản động và mọi kẻ thù
13
của chủ nghĩa Mác tìm mọi cách để ngăn cản việc xuất bản
tác phẩm này cũng thể hiện rõ sự ảnh hởng to lớn của tác phẩm
đối với đời sống xà hội thời kỳ đó.
Trong thời đại ngày nay, luận điểm trên của Mác, Ăngghen vẫn có ý nghĩa quan trọng đối với chúng ta trong nhìn
nhận, đánh giá các vấn đề về xà hội, về con ngời, về tôn giáo,
.đặc biệt là trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực t tởng, lý
luận. Chúng ta cần phải đứng vững trên lập trờng quan điểm
duy vật biện chứng để lý giải, nhận thức các vấn đề xà hội và
tiếp tục thông qua thực tiễn để bổ sung, phát triển chủ
nghĩa duy vật lịch sử lên tầm cao mới.
Là những đảng viên cộng sản, chúng ta nguyện cùng
toàn đảng kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí
Minh nói chung, lý luận triết học Mác-Lênin nói riêng. Tích cực
nghiêncứu, phát triển và vận dụng sáng tạo những lý luận, quan
điểm triết học duy vật biện chứng của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin
vào tất các các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hoá, xà hội, an
ninh-quốc phòng,góp phần đa sự nghiệp đổi mới theo định
hớng XHCN trên đất nớc ta ngày càng phát triển, đạt những
thành tựu mới vững chắc hơn. Đồng thời luôn tỉnh táo phân
tích và kiên quyết đấu tranh phê phán, chống lại các quan
điểm, t tởng sai trái, thù địch, xuyên tạc hoặc phủ nhận lý
luận triết học duy vật biện chứng về lịch sử của các nhà lý
luận triết học t sản và những phần tử cơ hội, thoái hoá, biến
chất đà từng một thời đứng trong hàng ngũ của Đảng cộng sản
Việt Nam.
14
********************