Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

20 năm chính sách HIV/AIDS tại Thái Lan doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.66 KB, 8 trang )

HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp


20 NĂM CHÍNH SÁCH HIV/AIDS TẠI THÁI LAN

Các học giả về chính sách y tế đã coi chính sách HIV/AIDS của Thái Lan trong thập kỷ qua là
cuộc cách mạng về chính sách quốc gia và đây cũng được coi là bài học cho các nước đang
phát triển khác hiện đang phải đối đầu với đại dịch này.

Các chuyên gia Y tế công cộng đã không lấy gì làm ngạc nhiên khi Thái Lan trở thành quốc gia
đang phát triển đầu tiên đưa ra công bố về kết quả thay đổi hành vi trên phạm vi toàn quốc và
điều này đ
ã làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV. Bởi vì đó là thành quả của gần 20 năm xây dựng,
phát triển và thực thi chính sách HIV/AIDS và cũng từ đây những chiến lược nhằm ngăn chặn
đại dịch HIV/AIDS của chính phủ Thái Lan đã được xem là mô hình cho các quốc gia đang phát
triển khác.
Ngoại trừ Thái Lan, cho đến nay, rất ít các quốc gia đang phát triển trên thế giới có chính sách
công được thực thi một cách hiệu quả trong việc phòng chống sự lây lan của HIV/AIDS trên
phạm vi toàn quốc. Một chương trình quy mô lớn nhằm kiểm soát lây truyền HIV/AIDS với sự
cam kết của chính phủ, sự tham gia của các cộng đồng địa phương và của những người có hành
vi nguy cơ cao đã giảm một nửa số lượng khách mua dâm, tăng đáng kể tỷ lệ sử dụng bao cao
su, giảm nhanh chóng các bệnh lây truyền qua đường tình dục, và cuối cùng số lượng nhiễm mới
HIV giảm xuống m
ột cách đáng kể. Cụ thể, tỷ lệ sử dụng bao cao su tại các nhà thổ tăng từ 14%
lên trên 90% trong thời gian từ 1988 -1992. Tỷ lệ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục trong
nam giới giảm từ trên 200/1000 (năm 1988) xuống chỉ còn dưới 5/1000 (1994) (xem sơ đồ 1).
Số lượng nhiễm mới HIV/AIDS giảm từ 140.000 năm 1991 xuống còn 21.000 năm 2003.

Nam giới nhiễm BLTQĐTD
(nghìn người)


Sử dụng BCS ở gái mãi dâm
Nam giới nhiễm
BLTQĐTD
Sử dụng Bao cao su
Sơ đồ 1: Tăng sử dụng bao cao su và giảm tỷ lệ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục,
1988 -1994.
Thành công của Thái Lan là minh chứng cho sự hiệu quả của chính sách phòng chống
HIV/AIDS đã triển khai và liên kết được các chương trình phòng chống HIV/AIDS một cách
toàn diện trên cơ sở được hỗ trợ về mặt chính trị và tài chính. Tuy nhiên, quay trở lại hai thập kỷ
trước, chỉ một số ít người Thái nhận thứ
c được mối đe dọa của HIV đối với sức khỏe của cộng
đồng và nền kinh tế quốc gia. AIDS được xem như một tai họa của người ngoại quốc và những

1
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp


nhóm người bên lề xã hội Thái, nó đã bị Thủ tướng đương thời, Prem Tinsulanonda, xem nhẹ và
ông đã phát biểu rằng “AIDS cũng giống như các bệnh khác”. Các báo cáo về những trường hợp
có HIV/AIDS bị ém nhẹm bởi chính quyền lo ngại sẽ ảnh hưởng đến nền công nghiệp du lịch,
ngành đang đóng góp một nguồn tài chính đáng kể vào Tổng sản phẩm thu nhập quốc nội (GDP)
củ
a nước này.
Vậy làm thế nào để quốc gia này chuyển từ việc chối bỏ tiến tới xây dựng và thực hiện các chính
sách và chương trình cấp tiến dẫn đến giảm tỷ lệ mắc mới HIV và các ca bệnh lây truyền qua
đường tình dục? Dưới đây là một số câu trả lời có được thông qua một nghiên cứu của Dự án
Phòng và Kiểm soát AIDS (AIDSCAP) do Viện nghiên cứu ASEAN (Đại học Mahidol, Thái
Lan) thực hiện. Nghiên cứu mô t
ả các sự kiện và lực lượng (các bên có liên quan) đã thúc đẩy

những thay đổi về chính sách HIV/AIDS ở Thái Lan qua 5 đời thủ tướng từ năm 1984 đến năm
1994, giúp các quốc gia đang phát triển có thể học tập thông qua những thành công và thất bại
của Thái Lan nhằm thúc đẩy quá trình phát triển chính sách của quốc gia mình.
Không giống như những phân tích trước đây về động thái của người Thái đối với phòng chống
HIV/AIDS, nghiên cứu của AIDSCAP dựa vào các cu
ộc phỏng vấn với một số nhân vật đã tham
gia vào các cuộc tranh luận về chính sách AIDS. Hai mươi người được phỏng vấn đang làm việc
cho chính phủ, các trường đại học và các tổ chức phi chính phủ, nghiên cứu cũng đảm bảo rằng
danh tính của họ là hoàn toàn bí mật do vậy họ có thể trả lời và bình luận hết sức thẳng thắn.
Kết quả của những cuộc phỏ
ng vấn này cùng với việc phân tích kỹ lưỡng các tài liệu của chính
phủ và báo chí đã tiết lộ bức tranh chi tiết về làm thế nào các thế lực chính trị và các sự
kiện/hoạt động trong công chúng đã hình thành những động thái của Thái Lan đối với
HIV/AIDS. Trong báo cáo, các nhà nghiên cứu đã xác định 3 giai đoạn quan trọng của quá trình
phát triển chính sách từ năm 1985 đến năm 1992, mô tả “yếu tố xúc tác” cho phát triển chính
sách ở mỗi giai đoạ
n.
Xem nhẹ vấn đề
Ca bệnh AIDS đầu tiên được báo cáo là vào năm 1984 trong giai đoạn 6 năm cầm quyền của
Tướng Prem Tinsulanonda, cựu tư lệnh quân đội người được chỉ định làm thủ tướng vào năm
1982. Prem và nội các của ông đã không công bố ra công chúng những báo cáo về căn bệnh mới
này bởi e ngại nó sẽ làm cản trở kế hoạch thúc đẩy nền kinh tế Thái Lan.
Đặc biệt, những tin tức về HIV/AIDS của Thái Lan càng bị che đậy vào năm 1987 – đó là “Năm
du lịch Thái Lan”, một chiến dịch đã tiêu tốn hàng triệu đôla nhằm đẩy mạnh du lịch của người
nước ngoài vào Thái. Thời điểm đó không ít người đã chỉ trích rằng AIDS là hậu quả của việc
quảng bá du lịch tình dục vào cuối những năm 1980.
Hầu hết những ca bệnh AIDS được thông báo tới công chúng trong những năm 1980 là ng
ười
Thái, những người đã bị nhiễm ở nước ngoài, điều này khiến chính phủ xem nhẹ tình hình và
cho rằng AIDS là một “căn bệnh của người nước ngoài”. Các báo cáo khác về AIDS trong nhóm

người đồng tính, hành nghề mãi dâm và tiêm chích ma túy càng củng cố niềm tin rằng căn bệnh
này không liên quan gì đến đại bộ phận người Thái.

2
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp


“Bệnh AIDS chỉ ở một số nhóm nguy cơ cao”, một quan chức chính phủ đã phát biểu trong bài
diễn văn vào năm 1987. “Người dân Thái không cần thiết phải được cảnh báo”.
Các chính sách và chương trình được ban hành trong những năm 1980 phản ánh cách nhìn nhận
AIDS như căn bệnh của người nước ngoài và “những người ngoài lề xã hội ”. Chính phủ yêu cầu
bác sỹ phải thông báo tên của những bệnh nhân AIDS và những người nhi
ễm HIV cho Bộ Y tế
Công cộng. Luật Nhập cư được bổ sung điều khoản cấm những người mắc AIDS và HIV dương
tính nhập cảnh vào Thái Lan.
"Căn bệnh này bị gán cho những người nước ngoài, những người tiêm chích ma tuý và đồng
tính”, do vậy các hoạt động phòng chống của chính phủ chỉ nhắm tới nhóm này. AIDSCAP bình
luận rằng "Một khi AIDS được xem là chỉ liên quan tới một số nhóm “bên lề” xã hội, thì vô cùng
khó khăn để thay đổi được nhận thức đó”.
Nhưng năm 1987, Cha-on Suesem đã bắt đầu thay đổi nhận thức của người Thái về AIDS vốn
được xem như một bệnh của “người bên ngoài lề xã hội”. Cha-on Suesem là một công nhân bảo
vệ nhà máy, anh bị nhiễm HIV do truyền máu vào năm 1986. Cha-on đã đồng ý nói chuyện với
các phóng viên, xuất hiện trên các kênh truyền hình, và viếng thăm các văn phòng, công sở để
nói về nhữ
ng gì xảy ra với anh. Toàn quốc đã tận mắt chứng kiến sự suy sụp sức khỏe một cách
nhanh chóng của anh trên truyền hình và trang nhất các báo trung ương.
AIDSCAP coi trường hợp của Cha-on là một trong những sự kiện ảnh hưởng nhất tới cuộc cách
mạng về chính sách AIDS của Thái Lan. Giống như nam diễn viên Rock Hudson người đã khiến
AIDS trở thành một ngôn từ cửa miệng tại Mỹ, Cha-on đã gióng lên hồi chuông báo động v


mối đe dọa của nguy cơ lây nhiễm HIV đối với toàn xã hội Thái Lan.
Tiến tới chấp nhận
Sau những phát biểu của Cha-on, các nỗ lực của chính phủ nhằm che dấu thông tin về tính
nghiêm trọng của AIDS đã vấp phải phản ứng của người dân đòi phải được cung cấp thông tin
về virut HIV và đại dịch AIDS. Đòi hỏi này đã dẫn đến việc công bố cho công chúng kế
t quả các
cuộc điều tra giám sát điểm đầu tiên của chính phủ về HIV vào năm 1989.
Phát hiện gây sửng sốt nhất đó là vào tháng 6 năm 1989, 44% người hành nghề mãi dâm tại các
nhà chứa của thành phố miền Bắc Thái Lan là Chieng Mai có HIV dương tính, thông tin được
tiết lộ cho báo giới bởi các nhà dịch tễ học của chính phủ, những người đã dũng cảm phản đối
cấp trên về sự bảo thủ
của họ. Thông tin lan nhanh trên toàn lãnh thổ Thái Lan và có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến hành vi tình dục của đàn ông Thái.
Các phát hiện tại Chiang Mai đã làm sững sờ người dân Thái bởi vì họ phát hiện rằng HIV đang
tồn tại trong mạng lưới mãi dâm rộng khắp của miền Bắc Thái Lan. Một quan chức chính phủ đã
nói với các nhà nghiên cứu: "Đại dịch bùng nổ ở các nhà chứa, nơi khách làng chơi hầu hết là
người Thái, đ
ã trở thành tác nhân hàng đầu làm chuyển hướng chính sách phòng chống
HIV/AIDS sang đàn ông Thái thay vì nhắm vào các “khu đèn đỏ” vốn dành cho khách hàng là
người ngoại quốc".

3
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp


Lo ngại về các phát hiện tại Chiang Mai cuối cùng đã dẫn đến các chương trình phòng chống
HIV/AIDS dành cho người hành nghề mãi dâm, phân phát bao cao su miễn phí tại các nhà chứa,
và chính phủ Thái ban hành công khai chính sách buộc sử dụng “100 phần trăm bao cao su” tại

các nhà chứa.
Số liệu điều tra thu thập từ các nhóm phụ nữ mang thai, nam giới đã được chữa trị bệnh lây
truyền qua đường tình dục, những người hiến máu, những người tiêm chích ma túy và hành nghề
mãi dâm, đã giúp nhóm đánh giá của Tổ chức Y thế giới thực hiện những ước tính chính xác đầu
tiên số người nhiễm HIV tại Thái Lan vào năm 1990. Các nhà dịch tễ học của chính phủ, các tổ
chức phi chính phủ và giới học thuật đã nhất trí rằng khoảng 300,000 người Thái đã bị nhiễm
HIV vào giữa năm 1991.
Khi số liệu điều tra và ước tính cho thấy rõ ràng HIV/AIDS đã lan rộng nhanh chóng trong cộng
đồng dân cư, quan điểm của chính phủ của Thủ tướng Chatichai Choonhaven đã thay đổi – thừa
nhận sự trầm trọng của vấn đề và công khai hơn. Dù vậy, ông cũng đã ngưng việc đẩy mạnh
phòng chống HIV/AIDS và hạn chế những hỗ trợ vô điều kiện của mình (bởi nó đụng chạm đến
quyền lợi kinh tế của nhiều bè phái chính trị).
Chỉ cho đế
n trước khi rời quyền lực không lâu, thủ tướng Chatichai đã ra tuyên bố chính sách về
AIDS rằng phòng chống HIV/AIDS sẽ là ưu tiên hàng đầu của chính phủ ông. Dưới thời
Chatichai, Thái Lan trở thành quốc gia Châu Á đầu tiên xây dựng kế hoạch kiểm soát AIDS
(1988-90). Mặc dầu, phần lớn nguồn tài trợ là từ các nhà tài trợ song phương và quốc tế, chính
phủ đã tăng cam kết tài trợ cho HIV/AIDS từ $400,000 đôla Mỹ (năm 1989) lên 2.63 triệu đôla
Mỹ
(năm 1990). Kể từ năm 1991, hỗ trợ của chính phủ cho phòng chống và chăm sóc
HIV/AIDS ở Thái Lan đã vượt tài trợ của quốc tế (xem sơ đồ 2).

Sơ đồ 2: Kinh phí của chính phủ và các nhà tài trợ quốc tế dành cho phòng chống HIV/AIDS
Chính phủ hành động
Rất nhiều số liệu được công bố trong 2 năm 1989 và 1990 đã mở đường cho một giai đoạn đặc
biệt của các hoạt động của chính phủ lâm thời Anand Panyarachun nhằm phòng chống

4
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



HIV/AIDS. Thủ tướng được chỉ định sau cuộc đảo chính của quân đội tháng 2 năm 1991 -
Anand đã lựa chọn một nội các gồm các nhà hoạt động kỹ trị (kỹ thuật-chính trị) trong đó có
một nhà hoạt động về AIDS nổi tiếng (Mechai Viravaidya), người được giao nhiệm vụ đặc trách
vấn đề AIDS.
Bổ nhiệm của Anand xảy ra đồng thời với nhận thức củ
a người dân về sự bùng nổ đại dịch
HIV/AIDS tại Thái Lan. Trớ trêu thay, chính phủ được bổ nhiệm đã có những chính sách tiến bộ
hơn hẳn chính quyền được bầu cử một cách dân chủ trước đó của Chatichai. Bởi vì, Anand và
rất nhiều đồng sự của mình không phải là chính trị gia, họ không bị miễn cưỡng phải chiều lòng
các bè phái chính trị khác nhau.
Không giống như các chính quyền tiền nhiệm, chính phủ
của
Anand đã cho công khai các số liệu về HIV/AIDS và phối hợp
chặt chẽ với các phương tiện truyền thông đại chúng để nâng
cao nhận thức của người dân về đại dịch HIV/AIDS (Các
thông điệp phòng chống AIDS được phát hàng giờ trên 488
kênh truyền hình và phát thanh thuộc sở hữu nhà nước trên
toàn quốc, các trường học được yêu cầu giảng dạy về phòng
chống AIDS. Bài hát 'Jingle Bells' đã được cải biên thành một
bài hát về tình dục an toàn). Các chương trình đã phản đối
những chính sách và qui định về HIV/AIDS mang tính phân
biệt đối xử được ban hành bởi chính quyền tiền nhiệm, do vậy
một quyết định bãi bỏ các điều luật cấm nhập cư đối với người
nhiễm HIV/AIDS được ban hành.
Các bé gái tham gia vào một dự án
giáo dục AIDS.
Ba phương sách của chính phủ Anand đã được duy trì trong chính sách AIDS của Thái Lan đến
tận ngày nay đó là: (1) Thủ tướng đứng đầu Ủ

y ban AIDS quốc gia (chương trình kiểm soát
AIDS được chuyển từ Bộ Y tế Công cộng sang Văn phòng Chính phủ nhằm tăng cường các ảnh
hưởng chính trị); (2) Kế hoạch AIDS quốc gia được lồng ghép vào kế hoạch phát triển quốc gia
giai đoạn 5 năm; (3) Và một khoản tài chính hỗ trợ đáng kể của chính phủ cho chương trình
AIDS được tính theo thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ 1đôla/năm (dân số Thái Lan ước tính
là 65 triệu người, như vậy trung bình hàng năm chương trình AIDS của Thái Lan sẽ có khoảng
65 triệu đôla từ ngân sách nhà nước so với năm 1988 chỉ là 180.000 đôla). Từ năm 1991, ngân
sách của chính phủ cấp cho chăm sóc và phòng chống HIV/AIDS đã vượt tài trợ của nước ngoài.
Từ năm 1992 đến năm 1996, chương trình AIDS quốc gia đã nhận được những khoản tài trợ lớn
(năm tài chính thường niên 1996 chương trình nhận được 80 triệu
đôla từ chính phủ).
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ CÁC BÀI HỌC
Kế hoạch quốc gia về phòng chống và giảm kỳ thị đối với AIDS lần thứ 2 (1997 – 2001) đã duy
trì được hiệu quả của các chương trình trong giai đoạn trước, cùng với việc ứng dụng cách tiếp
cận toàn diện nhằm huy động những hỗ trợ của cộng đồng và người dân sống chung với
HIV/AIDS.

5
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp


“Mỗi người dân Thái đều đóng vai trò trong phòng chống AIDS. Mọi người đều có liên quan
đến chương trình – từ các thầy thuốc, nhà hoạt động y tế công cộng đến giáo viên, các nhà sư,
hay gái mãi dâm, người nghiện chích. Chính phủ cam kết tài trợ cho các nghiên cứu và hỗ trợ
các tổ chức tư nhân tăng cường việc quảng bá ra thế giới về vấn đề làm thế nào để ngăn chặn
AIDS. Thậm chí, quân đội Thái cũng tham gia phòng chống AIDS b
ằng cách xét nghiệm máu
miễn phí cho quân nhân.”


Kế hoạch quốc gia lần thứ 3 (2002-2006) đã được triển khai từ cuối
năm 2001, nó tiếp tục nhiệm vụ của chiến lược quốc gia giai đoạn
1997-2001.
Chiến lược quốc gia có 3 mục tiêu cụ thể. Thứ nhất là giảm tỷ lệ
mắc mới HIV ở người trưởng thành xuống dưới 1% vào giai đoạn
kết thúc chiến lược. Thứ hai là cung cấp dịch vụ
và chăm sóc y tế
cho 80% số người sống chung với AIDS và những cá nhân bị ảnh
hưởng khác. Thứ ba là các đơn vị hành chính công quyền và tổ chức
cộng đồng lập kế hoạch và thực hiện việc phòng chống HIV/AIDS,
giảm kỳ thị đối với người có AIDS.
Chính phủ đã đề ra 5 chiến lược nhằm ưu tiên giải quyết đại dịch
AIDS tại Thái Lan: Thứ nhất là, tổ ch
ức, gia đình và cá nhân phải
nhận thức được vai trò của mình trong việc phòng chống và giảm
thiểu kỳ thị đối với HIV/AIDS. Thứ hai là, các dịch vụ và cơ sở y tế công sẽ được thiết lập để
phòng chống HIV/AIDS. Thứ ba là, phát triển các nghiên cứu song song với chiến lược truyền
thông kết quả nghiên cứu. Thứ tư là hợp tác quốc tế. Cuối cùng, một hệ
thống quản lý chương
trình toàn diện sẽ được phát triển để kết hợp nhiệm vụ phòng chống HIV/AIDS và giảm thiểu kỳ
thị.
Một phụ nữ nhiễm
HIV/AIDS với con gái không
bị nhiễm HIV/AIDS.
AIDSCAP tin rằng kinh nghiệm dưới đây của Thái Lan có thể là rất hữu ích cho các quốc gia
khác đặc biệt là những nước ở Châu Á.
1. Kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy các mối quan tâm về chính trị và kinh tế ở các cấp
quốc gia và địa phương có ảnh hưởng như th
ế nào đến chính sách quốc gia về phòng
chống HIV/AIDS. “Những mối quan tâm này có thể thay đổi cùng với những bằng

chứng mới và các tổ chức/cá nhân chính trị mới” – Bill Rau, Phó giam đốc AIDSCAP
phụ trách về chính sách đã phát biểu như vậy.
2. Nỗ lực của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ để thực hiện hệ thống giám sát và
phối kết hợp các nhóm làm việc đa ngành nhằm công khai các thông tin đã giúp duy trì
vai trò và uy tín của chính phủ, cũ
ng như cung cấp các khuyến nghị mang tính thực tiễn
cho các nhà hoạch định chính sách.
3. Công bố các kết quả giám sát điểm trên các phương tiện thông tin đại chúng là một trong
những chất xúc tác quan trọng nhất cho sự phát triển của chính sách phòng chống
HIV/AIDS ở Thái Lan.

6
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp


4. Công bố câu chuyên của Cha-on trên thông tin đại chúng (với sự đồng ý của anh ta) là
một phương pháp rất hữu hiệu để xây dựng chính sách mang tính hỗ trợ và thông cảm
hơn là chính sách mang tính trừng phạt.
5. Kinh nghiệm của Thái Lan cũng ủng hộ quan điểm là các quan chức của chính phủ nên
phối hợp với các đại diện của các tổ chức phi chính phủ - những người có kinh nghiệm
thực tế trong phòng, và ch
ăm sóc người có HIV - để xây dựng chính sách. Sự hợp tác
giữa những nhà vận động cho chính sách HIV/AIDS ở bên trong và bên ngoài chính phủ
trong thời kỳ cầm quyền của Anand cho thấy “chính sách HIV/AIDS hiệu quả ra đời
nhanh nhất khi các nguồn lực của chính phủ và phi chính phủ được kết hợp với nhau”.

7
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



CÂU HỎI THẢO LUẬN: Sử dụng “Khung cơ sở trong phân tích chính sách y tế” (Hình 19,
trang 117, Tài liệu giảng dạy môn Chính sách Y tế) và nghiên cứu trường hợp “Hai mươi năm
Chính cách HIV/AIDS tại Thái Lan” hãy thảo luận theo nhóm (4-6 sinh viên) để trả lời các câu
hỏi sau:
Bối cảnh:
1. Các yếu tố tình huống, cơ cấu/cấu trúc và văn hóa nào đã ảnh hưởng tới quá trình phát
triển chính sách HIV/AIDS của Thái Lan?
Quá trình:
2. Tại sao vào những n
ăm 80 vấn đề HIV/AIDS lại không được đưa vào chương trình nghị
sự (không được bàn tới) ở Thái Lan?
3. Tại sao sau đó HIV/AIDS lại trở thành vấn đề thời sự (trở thành vấn đề ưu tiên trong
chương trình nghị sự của chính phủ)?
4. Những bằng chứng nào trong nghiên cứu trường hợp thể hiện là chính phủ Thái Lan đã
làm để tạo điều kiện cho việc thực hi
ện thành công chính sách HIV/AIDS? Gợi ý: Về
nguồn lực tài chính, nhân lực, qui định, ủng hộ về mặt chính trị/ý chí chính trị
5. Các bài học chính được đúc rút qua nghiên cứu quá trình phát triển chính sách
HIV/AIDS ở Thái Lan là gì? Phân tích tính phù hợp của các bài học đó với Việt Nam?
Người/tổ chức tham gia vào quá trình phát triển chính sách:
6. Người/tổ chức nào đóng vai trò quan trọng (cả tiêu cực và tích cực) trong quá trình phát
triển chính sách HIV/AIDS của Thái Lan? Mô tả vai trò cụ thể của những người/tổ
chức
đó?
Nội dung:
7. Những nội dung cụ thể về chính sách HIV/AIDS được trình bày trong nghiên cứu trường
hợp là gì?
Sau khi đọc bản “Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010

và tầm nhìn 2020” anh/chị có nhận xét gì về những vấn đề sau đây:
8. Cấu trúc của bản chiến lược gồm những phần chính gì? Có logíc, thuyết phục và dễ hiểu
không?
9. Bàn luận v
ề giải pháp thực hiện: tính toàn diện, khả thi và phù hợp? Có gợi ý gì về xếp
thứ tự ưu tiên của các giải pháp và tại sao lại ưu tiên như vậy? Những điều kiện tiên
quyết nào sẽ đảm bảo cho việc thực hiện thành công những mục tiêu đã đề ra trong chiến
lược này?

8

×