Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Email: Những khác biệt giữa POP3, IMAP và Exchange doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.2 KB, 3 trang )

Email: Những khác biệt giữa POP3, IMAP và
Exchange
Email clients vs Webmail
Trước khi giải thích về sự khác nhau giữa các giao thức để tải email, hãy dành
chút thời gian để hiểu một sự khác biệt cơ bản giữa email client và webmail. Nếu
bạn đã dùng một tài khoản Gmail, Hotmail, Yahoo mail trên trình duyệt, đó chính
là lúc bạn sử dụng webmail. Nếu bạn làm việc với những chương trình như
Microsoft Outlook, Windows Live Mail hay Mozilla Thunderbird để quản lý
email, đó chính là lúc bạn sử dụng một email client.
Cả webmail và email client đều là các ứng dụng để gửi và nhận email. Chúng sử
dụng các phương pháp giống nhau để làm điều đó. Webmail là một ứng dụng
được viết để thao tác trên Internet thông qua trình duyệt, thông thường bạn không
cần phải tải và cài đặt thêm bất cứ ứng dụng nào khác. Tất cả các công việc được
thực hiện từ xa bởi các máy tính thông qua trình duyệt (ví dụ server và máy tính
của bạn kết nối thông qua Internet).
Email client là những chương trình được cài đặt ở máy khách (như máy laptop,
tablet, ) tương tác từ xa với email server để tải và gửi email. Tất cả các công việc
được thực hiện bởi ứng dụng email client của bạn chứ không phải trình duyệt.
Thông thường các nhà cung cấp webmail sẽ cho phép bạn sử dụng cả email client
với dịch vụ của họ - và đây là lúc bắt đầu có sự nhầm lẫn. Hãy xem qua một ví dụ
để thấy được sự khác biệt.
Chúng ta sẽ đang nhập vào một tài khoản Gmail và bắt đầu gửi nhận email thông
qua dịch vụ webmail. Google cung cấp cho chúng ta hai thứ: một đầu vào với giao
diện web và đằng sau đó là mail server để gửi và nhận email. Chúng ta tương tác
với mail server thông qua giao diện web. Bằng cách trỏ, click chuột và gõ phím,
chúng ta đã nói cho email server địa chỉ của người nhận và nội dung mà ta muốn
gửi.
Nhưng vài người sẽ không thích giao diện mới của Gmail hay Yahoo, vậy nên họ
quyết định chuyển sang dùng một email client nào đó như chương trình miễn phí
Thunderbird. Thay vì sử dụng giao diện web để tương tác với Google Gmail
server, chúng ta sẻ dụng một chương trình được cài trên máy (Thunderbird) để liên


lạc với mail server thay vì giao diện web. Google và các nhà cung cấp webmail
khác đều cho phép chúng ta sử dụng cả hai cách trên để gửi/nhận mail và chúng ta
vẫn chỉ đang sử dụng dịch vụ của Gmail hay các nhà cung cấp khác khi bạn sử
dụng webmail hay email client. Tiếp đến chúng ta sẽ xem xét những giao thức cơ
bản để gửi nhận email.
POP3 - Post Office Protocol
POP là một cách để nhận email từ xưa rất xưa trong lịch sử của Internet. Lúc đó
máy tính bị giới hạn bởi tốc độ, băng thông thấp, vậy nên các kỹ sư đã tạo ra POP,
một nỗ lực để làm đơn giản nhất có thể để tải các bản copy của email để đọc khi
offline, sau đó xóa những email này từ remote server. Phiên bản đầu của POP
được ra đời năm 1984, bản nâng cấp POP2 vào năm 1985.
POP3 là phiên bản hiện tại của giao thức này và nó vẫn là một trong những giao
thức phổ biến nhất. Từ khi POP3 tạo ra các bản copy của email và xóa bản gốc
trên máy chủ, các email được khóa chặt tại một máy nhất định và không thể truy
cập thông qua webmail hay bất cứ client nào trên các máy khác.
POP3 cơ bản dựa trên việc xem email offline, một cách thức đã lỗi thời tuy nhiên
nó vẫn được sử dụng rộng rãi. Chuẩn POP4 đã được đề xuất và có thể ra mắt một
ngày nào đó.
IMAP - Internet Message Access Protocol
IMAP được tạo ra vào năm 1986 nhưng nó vẫn phù hợp với công nghệ hiện đại
thời nay. Ý tưởng của nó là thay vì người dùng cứ phải ràng buộc vào một email
client nào đó, tại sao không cho họ khả năng đọc email giống như là đang ở trên
đám “mây” Internet.
So sánh với POP3, IMAP cho phép người dùng đăng nhập vào nhiều email client
hay nhiều webmail để xem cùng một email, bởi vì email này được giữ trên một
remote email server cho đến khi người dùng xóa chúng. Trong thế giới ngày nay,
khi mà chúng ta check mail thông qua trình duyệt, email client, điện thoại, IMAP
đã trở nên cực kỳ phổ biến. Nhưng nó cũng có vấn đề của nó.
Vì IMAP lưu các email trên một remote mail server, nên dung lượng hòm thư của
bạn sẽ bị giới hạn bởi các nhà cung cấp dịch vụ mail. Nếu bạn có một lượng lớn

email cần lưu trữ, bạn sẽ gặp nhiều vấn đề khi gửi nhận mail khi hòm thư bị đầy.
Nhiều người giải quyết vấn đề này bằng cách tạo một bản sao copy của các email
đó thông qua mail cleint, sau đó xóa bỏ email gốc trên server. Dẫu sao đó cũng chỉ
là một cách chữa cháy

×