Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tiểu luận:Đạo Nhân – triết lý quản lý của Khổng Tử ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.35 KB, 26 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ
 


BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ - THẢO LUẬN NHÓM

Đạo Nhân – triết lý quản lý của Khổng Tử.







Giảng Viên: PGS.TS Phạm Ngọc Thanh

Nhóm Sinh Viên Thực hiện: Nhóm 3







Hà Nội - 2011




2

A - Phần mở đầu:
Đất nước Việt Nam đã chuyển mình, cơ hội đã mở ra. Công cuộc
đổi mới và hội nhập đã được chứng minh là đúng đắn. Một quốc gia sẽ
không đứng vững nếu bị cô lập hoặc chỉ bó hẹp trong khuôn khổ ngoại
giao một chiều. Ngày nay, một xã hội, một đất nước được coi là phát
triển không thể thiếu chiến lược ngoại giao đa phương, thiết lập quan hệ
bang giao với nhiều nước, nhiều khu vực để thông thương, giao lưu văn
hóa, chính trị,… trên quan điểm hòa nhập chứ không hòa tan và luôn phát
huy đậm đà bản sắc dân tộc. Để làm được điều đó, vai trò của người quản
lý là không thể thiếu. Đặc biệt vận dụng những tư tưởng quản lý trong
lịch sử là một phương pháp để nhà quản lý thành công, Đạo Nhân của
Khổng Tử là một triết lý như thế.
B - Nội dung
I. Khái lược về Khổng Tử và đạo Nhân.
Khổng Tử (551-479TCN): tên chữ Trọng Ni, sinh ở Khúc Phụ
nước Lỗ. Tổ tiên là quý tộc nước Tống (hậu duệ nhà Ân), cha làm quan
nước Trâu. Đến thời Khổng Tử, gia đình sa sút. Ông ham học, thích
nghiên cứu thi, thư, lễ, nhạc đời trước. Lúc trẻ làm quan coi kho và quan
coi súc vật cho Quý Thị (một quan khanh nước Lỗ) sau làm Đại tư khấu
rồi làm Nhiếp tướng sự trong 3 tháng, lúc 54 tuổi. Nhưng tư tưởng của
Khổng Tử không hợp với Quý Thị nên Khổng Tử bỏ đi chu du qua các
nước chư hầu (Vệ, Tống, Trần,…). Đường lối của ông không được các
nước này dụng. Đến 70 tuổi trở về, nước Lỗ coi như bậc quốc lão, nhưng
ông không ra làm quan. Hoạt động của ông là dạy học, là người đầu tiên
mở nền tư học. Học trò của ông đông, có tới ba ngàn người, trong đó có
tới 72 người nổi tiếng còn được thờ cùng Khổng Tử.
3


Trong trường Khổng Tử dạy: văn, hạnh, trung, tín. Học trò được
chia thành bốn loại: đức hạnh, chính sự, văn học, ngôn ngữ. Do nhu cầu
dạy học, Khổng Tử chỉnh đốn các sách thi, thư, lễ, nhạc là những điển
sách trước đó chỉ lưu hành trong công tộc và đem dạy ra ngoài.
Khổng Tử sống trong thời kì lịch sử loạn của đất nước Trung Hoa
khi mà “ Cha không ra cha, con không ra con, vua không ra vua, tôi
không ra tôi”. Trong xã hội loạn lạc đó Khổng Tử vẫn cho rằng bản tính
của người là thiện. Sống gần nhau, muốn giúp đỡ nhau “tính tương cận
dã, tương viễn dã”. Xuất phát từ quan điểm đó với mục tiêu là đưa tất cả
mọi người đến một xã hội tốt đẹp lấy đạo đức làm cơ sở, Khổng Tử đã
xây dựng nên thuyết “ Đức trị” và cái “cốt” lý luận để xây dựng xã hội
trên chính là đạo Nho – đạo Nhân của Khổng Tử. Vì vậy tất cả các vấn
đề về chính trị, giáo dục hay đạo đức thì Khổng Tử đều xuất phát từ vấn
đề Nhân.
II. Đạo nhân và mối quan hệ với các đạo khác
1. Về đạo Nhân:
a. Khái niệm Nhân.
Theo Khổng Tử “Nhân là yêu người”. Nhân là giúp đỡ người khác
thành công “ Người nhân, mình muốn thành công thì cũng giúp người
thành công”. Biết từ bụng ta suy ra bụng người đó là phương pháp thực
hành của người Nhân”. Trong các phạm trù lý luận cơ bản của Khổng Tử
gồm nhân, lễ, trí … thì nhân là quan trọng nhất.
Theo góc độ quản lý, Nhân là nguyên tắc cơ bản của hoạt động
quản lý, vừa là đạo đức và hành vi của các chủ thể quản lý.
“Nhân" được ông coi là cái quy định bản tính con người thông qua
"lễ", "nghĩa", quy định quan hệ giữa người và người từ trong gia tộc đến
4

ngoài xã hội. "Nhân" có quan hệ chặt chẽ với các phạm trù đạo đức khác

trong triết lý Khổng Tử để làm nên một hệ thống triết lý nhất quán, chặt
chẽ và do vậy, đã có người cho rằng, nếu coi các phạm trù đạo đức trong
triết học Khổng Tử như những vòng tròn đồng tâm thì "Nhân" là tâm
điểm, bởi nó đã chỉ ra cái bản chất nhất trong bản tính con người
b. Quan niệm về Nhân trong triết học Trung Hoa và Khổng Tử
Nhân- Khái niệm bao trùm các quan niệm đạo đức khác
Trong bối cảnh xã hội loạn lạc, Khổng tử cho rằng dân cần điều
nhân hơn cả cần cứu khỏi hỏa tai, nước lũ, nghĩa là điều nhân phải thực
hiên từ trên xuống dưới. Nhân là một thuộc tính quan trọng của người
quân tử, quân tử không có đức nhân thì không còn là người quân tử nữa.
Vì thế khi đánh giá về mặt đạo đức của con người Khổng Tử cho rằng,
quân tử có lúc không “nhân” nhưng tiểu nhân thì không bao giờ “nhân”
cả. Bởi lẽ, tiểu nhân trong quan niệm của Đức Khổng, đó không chỉ là
thứ dân trong mối quan hệ với tầng lớp thống trị mà đó còn là những kẻ
không có nhân cách, vô đạo đức. Nhân bao gồm: Đức , Trí , Dũng ,
Thành , Mẫn , Tuệ . Để thực hành điều nhân, người quân tử phải hội tụ
đủ những yếu tố đó. Người làm điều nhân phải cung khiêm, trung tín,
thận hành, cẩn ngôn. Công phu ấy có được phải qua tu dưỡng và có tính
chất hướng nội, không lo buồn, chủ tĩnh, an bần lạc đạo.
Nhân là trung thứ và hiếu đễ là gốc của nhân
Thi hành nhân tức là trọng kẻ khác. Đó là phương diện tích cực
trong thi hành mà Khổng tử gọi là “Trung ” hay tính ngay thẳng đối với
kẻ khác và chính bản thân mình, gọi là “thứ” hay lòng vị tha. Trung thứ
5

là nguyên lý quán xuyến, đạt đạo của đức Khổng và là cái quan trọng
suốt đời ngài tuân theo.
Trong một cuộc nói chuyện với các học trò Khổng Tử đã nói: Đạo
của ta chỉ có một lẽ mà thông suốt cả. Về điều này, Tăng Tử - một học
trò của Khổng Tử cho rằng, Đạo của Khổng Tử là "trung thứ". "Trung" ở

đây là làm hết sức mình, còn "thứ" là suy từ lòng mình ra mà biết lòng
người, mình không muốn điều gì thì người cũng không muốn điều đó.
"Trung thứ" là sống đúng với mình và mang cái đó ứng xử tốt với người.
Trung thứ, đối với Khổng tử phải được xác lập trên sự phân biệt
giữa nhân và kỷ , tức là kẻ khác và ta. Đó là mối quan hệ bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau và được quy định bởi Lễ.
Lấy hiếu làm gốc cho nhân, là lấy tôn tộc làm cơ sở cho xã hội,
nhằm mục đích chính trị rõ rệt. “Quân tử hết lòng với cha mẹ thì dân theo
điều nhân . Đối với Khổng tử, khái niệm Hiếu là một hình thức đặc thù,
một biểu hiện cao đẹp của khái niệm nhân. Dân hiếu ít sinh loạn, con
hiếu ít sinh tệ, hiếu đễ làm cho con người được phân biệt với cầm thú, xã
hội an định, gia đạo hài hòa, thúc đẩy con người vươn đến điều nhân.
Tuy nhiên, lấy hiếu để giáo dục dân, khiến dân tuân theo và dễ cai trị là
một quan điểm chính trị khá phiến diện của Khổng tử, song xét về mặt
xã hội thì những ưu điểm của hiếu đã vượt ra khỏi bản thân nó, làm cho
con người biết tiết dục, kính thiên, tôn quân, thủ lễ, sự phụ mẫu.
Khắc kỷ phục lễ vi nhân”
Trong quan niệm giáo dục của Khổng tử, tuy theo từng cá tính mà
ông có những phương pháp giáo huấn thích hợp. Song vượt lên trên tất
6

cả, để thiên hạ được ổn định, được chính danh, được theo mệnh, theo
Khổng tử phải trở về với Lễ và đó chính là nhân. Nhân phải được ước
thúc, quy định bởi lễ. Theo Khổng tử, lễ đặt con người vào quan hệ tôn
tộc theo thứ bậc, đặt con người vào quan hệ đẳng cấp. Lễ là con đường,
là mục đích vươn đến và khả năng hiện thực hóa điều nhân, đưa xã hội từ
xã hội Tiểu Khang vươn đến xã hội Đại Đồng .
Trong Luận ngữ, Khổng tử không nói đến nhân dục – một tính chất
khá quan trọng của tư cách tự nhiên của con người. Dục vọng cá nhân là
những đòi hỏi của chính bản thân nên phải khắc kỷ. Khắc kỷ là kiềm chế,

là tiết dục. Do đó, ông khuyến cáo: “Đừng nhìn cái phi lễ, đừng nghe cái
phi lễ, đừng nói cái phi lễ, đừng làm cái phi lễ”. Bởi lẽ, dục vọng đưa
con người đi đến chỗ ham phú quý, mê danh lợi mà bỏ mất đi chính
mình, trong xã hội có giai tầng, con người phải giữ cho hợp “nghĩa ”,
phải theo “lễ ”. Với Khổng tử, con người chỉ được thực hiện những gì mà
lễ cho phép, nghĩa là phải điều hòa giữa nhân dục và lễ.
Lời khuyến cáo này bao hàm cả mục đích, con đường và khả năng
thực hiện điều nhân. Rõ ràng trong tư tưởng của mình, Khổng tử không
phủ nhận nhân dục, nhưng nhân dục ấy phải được quy ước, câu thúc bởi
lễ, tức là được thừa nhận trong phạm vi của lễ.
Khắc kỷ phục lễ là hành trình thiện hóa con người. Nhân là nội
dung của lễ, lễ là hình thức, là biểu hiện của nhân. Sự tương hỗ ấy đã đẩy
quá trình tìm hiểu khẳng định bản chất con người, khám phá về con
người đạt đến những điểm mới mà các triết gia trước thời Khổng tử chưa
có được.
7

c. Nhân – Học thuyết về “đạo của người quân tử” của
Khổng Tử.
Nhân – nguyên tắc hành đạo của người quân tử.
Khảo chứng về chữ Nhân, sách “Trung dung” viết “Nhân giả, nhân
dã ”(Nhân là người). Đối với Khổng Tử, để mọi việc đi vào chuẩn mực,
duy trì những nguyên tắc hành đạo, Khổng tử đã đề ra nguyên lý cao
nhất, khái quát nhất, là trung tâm của học thuyết của ông: Nhân.
Trong “Luận ngữ”, Khổng tử có 58 chỗ đề cập đến quan niệm
về Nhân với cả thảy là 109 chữ Nhân. Luận ngữ không định nghĩa Nhân
một cách rõ ràng như ở nơi khác. Học thuyết nhân, nội dung cốt lõi của
tư tưởng Khổng tử, chủ yếu đề cập đến quan hệ giữa người với người.
Khổng tử quan niệm mối quan hệ giữa người và người phải dựa trên cơ
sở tình thương. Tình thương còn được gọi là lòng nhân ái, nhân đạo. Khái

niệm Nhân của Khổng tử được củng cố trên nền tảng của đạo đức. Nhân
hay nhân đạo trong quan niệm của Khổng tử được xây dựng trên hai
nguyên tắc:
- Nguyên tắc thứ nhất là “cái gì mình không muốn thì đừng làm
cho người khác” (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân - Nhan).
- Nguyên tắc thứ hai là “ mình muốn đứng vững thì làm cho người
ta đứng vững, mình muốn công việc của mình được thành đạt thì cũng
làm cho công việc của người khác thành đạt” (Kỷ dục lập nhi lập nhân,
kỷ dục đạt nhi đạt nhân - Ung dã)
Trung dung – hành trình vươn đến chí đức, cực thiện
8

Sự thật, Khổng tử không phải vì quá đề cao Trung dung mà quên đi địa vị
cá nhân. Tôn sùng lương thức, sự hợp tình lý, đó là điểm căn bản trong
chủ nghĩa nhân văn của đạo Khổng.
Trung dung là điểm tựa để điều tiết cuộc sống, là minh triết để bảo
thân, là cội nguồn của tư tưởng ôn hòa, giữ lấy trạng thái cân bằng của sự
sống. Trung dung trong tư tưởng Khổng tử không phải là cố chấp , nó
phải có điều kiện xuất phát là kiên định.
d. “Nhân” với hành trình nhân bản hoá tư tưởng của Khổng tử
Vai trò của “Nhân” trong sự vận động từ thần bản đến nhân
bản của triết học Trung Hoa
Trên đây, chúng ta đã bàn về nhân và những biểu hiện cụ thể của
nó trong triết học Khổng tử và Nho gia sơ kỳ. Khổng tử đã nêu cao tư
tưởng nhân trị, đề cao lễ, đưa xã hội từ loạn đến trị (dẫu rằng ở thời đại
ông nó chỉ tồn tại về mặt lý thuyết), nhưng công lao của đức Khổng được
khẳng định bởi từ trong nội tại của quan điểm xã hội, chính trị ông đã
làm cho con người với những thuộc tính vốn của nó được khẳng định hơn
và trở thành đối tượng của triết học theo đúng nghĩa của nó.
Trong thực tiễn tư tưởng của Khổng phu tử, ý niệm “nghĩa” có

phần thiên về hình thức, ý niệm nhân mới có tính chất cụ thể và có những
ảnh hưởng to lớn đến đời sống con người, đưa con người nói chung và
tầng lớp trí thức nói riêng trở về với bản tính tự nhiên, trách nhiệm và
bổn phận của mình đối với xã hội. Nhưng bản tính thực chất của những
bổn phận kia là “thương người”, tức là “nhân”, nhân có thể hiểu là “toàn
đức”. Giá trị thiết thực của nó đối với đương thời hết sức to lớn. Gạt bỏ
9

những yếu tố tiêu cực, việc đề cao lý tưởng của Nhân cùng với những
biểu hiện cụ thể của nó đã đánh dấu sự chuyển biến rõ rệt của triết học
Nho gia sơ kỳ trên con đường từ thần bản đến nhân bản của triết học
Trung Hoa cổ đại, khẳng định bản chất xã hội sâu rộng và tính chất đạo
đức cao khiết của tư tưởng Khổng Tử trong tiến trình phát triển của lịch
sử triết học Trung Hoa.
Nhân với chủ trương đức trị của Khổng Tử
Về mặt chính trị, quan điểm cơ bản của ngài là đề cao đức trị. Đó
không chỉ là sự đề cao lễ giáo mà còn đề cập đến quá trình khẳng định
tính toàn mỹ trong nhân cách của con người mà hạt nhân của nó là nhân
văn, tính nhân đạo và từ đó đi đến quá trình khám và nhìn nhận hành vi
của con người. Con người tồn tại trong xã hội sẽ phải tuân thủ theo một
số quy định nào đó, tức là phải theo pháp chế, luật định
Bên cạnh chủ trương đức trị, Khổng Phu Tử còn quan tâm đến
“thứ , phú , giáo ” . Ông cho rằng “làm chính sự bằng đức ví như sao Bắc
Thần cứ đứng nguyên một chỗ mà các sao khác phải hướng về…” .
Người nắm giữ chính quyền không chỉ làm cho dân thêm đông đúc
(tức Thứ) mà phải còn làm cho dân giàu có (tức Phú) và cuối cùng là phải
dạy dỗ họ (tức Giáo). Dạy cho dân biết liêm sỉ, biết hiếu trung, biết nhân
nghĩa, biết khắc kỷ. ấy là hướng đến điều nhân vậy.
“Chủ trương đức trị và lễ giáo, một mặt nhằm ổn định trật tự xã
hội, thuần hoá dân chúng, mặt khác nhằm phản đối chính sự hà khắc, tàn

bạo” .
10

Đồng thời, quan niệm này cũng đã đề cập đến tư tưởng dân bản,
một chủ trương tích cực của Đức Khổng trong diễn trình phát triển minh
triết Trung Hoa. Và trong giới hạn của lịch sử, Khổng Tử đã vượt qua
chính mình và đặt những viên gạch đầu tiên cho các học thuyết chính trị,
đạo đức của hậu nho.
Khổng Tử bàn về điều nhân trong một bối cảnh xã hội nhà Chu
đang suy thoái, lễ nhạc đảo điên, điển chương băng hoại. Nghiên cứu hệ
thống triết học của Khổng tử từ góc độ chữ Nhân, chúng ta có thể lý giải
được nhiều vấn đề cốt lõi mà bản thân nó đã đặt ra, đặc biệt là vai trò của
nhân trong quá trình thúc đẩy sự vận động hợp lý từ thần bản đến nhân
bản của tư tưởng triết học Trung Hoa và những đóng góp to lớn của
Khổng Tử. Chúng ta không nên tìm ở Khổng Tử một triết hệ, tức là một
hệ thống toàn thể mạch lạc bao gồm nhiều quan điểm, nhưng bao quát và
nổi trội hơn cả trong tư tưởng của ngài là một nhu cầu trở về với những
lý tưởng nhân bản, thông qua lễ, khẳng định bằng ngũ thường, nêu cao
bằng những phẩm chất cần có của bậc quân tử, quan điểm Nhân cùng với
những đặc điểm và biểu hiện của nó như một cú hích vĩ đại đưa Khổng tử
đến với triết học con người – lý tưởng nhân bản, đánh dấu một sự trưởng
thành mới trong diễn trình phát triển của minh triết Trung Hoa

2. Mối quan hệ giữa đạo Nhân với các đạo khác.
a. Nhân và Lễ.
Lễ
Ban đầu khi mới xuất hiện, lễ chỉ có nghĩa là cúng tế.
Đến đời Chu Công, lễ có nghĩa:
11


 Nghĩa cũ Lễ là tế lễ, có tính chất tôn giáo.
 Nghĩa mới là pháp điển phong kiến do Chu Công chế định, có tính
cách chính trị, để duy trì trật tuej xã hội.
 Rồi lần lần, ý nghĩa của lễ mở rộng ra, chỉ cả phong tục tập quán.
 Và sau này, qua đời Chu Công, nhất là Khổn Tử, nó có một nội
dung mới, nội dung luân lí, chỉ sự chỉ sự kỉ luật về tinh thần, người
có lễ là người biết tự chủ, khắc kỉ.
Khổng Tử chủ trương tong Chu giữ phép điển ,lễ nhạc, rất trọng
lễ.Thời Khổng Tử trọng lễ cũng cần thiết như thời sau trọng luật, hiến
pháp, có phần hơn nữa.
Quan hệ giữa nhân và lễ:
Nhân có thể đạt được qua lễ, lễ là hình thức biểu hiện của nhân-“
khắc kỉ phục lễ vi nhân”( ép mình theo lễ là nhân): ra cửa phải như tiếp
khách quý, trị dân phải như làm lễ lớn, điều gì mình không muốn ai làm
cho mình thì mình thì không nên làm cho ai
Và cái gì mình muốn thì làm cho người “ mình muốn tự lập thì cũng
thành lập cho người, mình muốn thành công thì cũng giúp người thành
công” Tóm lại là biết từ bụng ta suy ra bụng người, đó là phương pháp
của thực hành của người dân”
Không có nhân thì nghĩa chỉ là hình thức giả dối:” không có đức
nhân thì lế để mà làm gì”
Nhà cầm quyền không có đức nhân thì càng trọng lễ, càng thủ cựu,
càng dễ hóa ra tàn khốc.Lễ là để giữ sự tôn ti trật tự, phân biệt trên , dưới,
giai cấp. Người Trung Hoa có từ ngũ” nội thánh ngoại vương”nghĩa là
trong (thể) có cái đức của ông thánh, đem dùng ra ngoài.
12

Nhân là thể, lễ là dụng, gọi là nội nhân ngoại lễ nghĩa là trong phải
có long nhân thì ngôn hành ở ngoài mới hợp lễ được.
Tinh thần của lễ, nhạc ở cả trong đức nhân. Phải có long nhân, phải

yêu người , trọng người rồi sau đó mới them lễ và nhạc, cũng như phải có
sẵn nền trắng và sau đó mới vẽ hình đẹp lên được. Thiếu long nhân thì lễ,
nhạc chỉ là giả dối, lễ mà làm gì, nhạc mà làm gì. Càng khéo nói càng
niềm nở( xảo ngôn lệch sắc) càng khả ố, mà nhạc càng ‘mĩ’ càng hay , lôi
cuốn bao nhiêu , nếu không ‘thiện’thì chỉ gây them sự chia rẽ, căm thù
hoặc dâm loạn.
Lễ ngược lại cũng góp cho đức nhân, vì cử chỉ, ngôn ngữ tác động
tới tâm lí. Chưa có đức nhân mà muốn có đức nhân thì ta cữ khắc hỉ,
gắng có những cử chỉ ngôn ngữ, hành vi thân ái với người khác rồi ta
cũng sẽ có được đức nhân. Đó là ý nghĩa câu” khắc kỉ phục lễ vi nhân”
Tóm lại trong quản lí nếu chỉ dung lễ thì chính sách sẽ là lễ trị,
không khác pháp trị là bao nhiêu, pbair có” nhân” nữa thì mới thành được
đức trị.

b. Nhân và Nghĩa.
Nhân gắn liền với nghĩa, vì theo nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì
phải làm, không mưu tính lợi của cá nhân mình.
Bá Di, Thúc Tế được Khổng Tử khen là “ hiền” , muốn được điều
nhân mà được điều nhân”, vì bỏ ngôi vua, để giữ nghĩa, nhất là vì can
đảm can Võ vương , nhà chu đừng đánh Trụ , mắng võ vương là bất hiếu,
bất nhân,” cha mất không chôn mà dấy việc can qua, có đáng gọi là hiếu
không? Võ Vương muốn giết Thái công, vọng can mới thôi . Khi võ
vương làm thiên tử rồi, Bá Di, Thúc tề, giữ nghĩa khí, không chịu ăn lúa
nhà Chu, ẩn ở núi Thái Dương, hái rau vi mà ăn, chịu chết đói.
13

Vậy nhân bao gồm cả nghĩa
Khổng Tử ít nói đến nghĩa nhưng ông hành động theo nghĩa là thấy
việc gì đáng làm thì làm, không hề mưu tính tới lợi cho mình, mà cũng
không cần biết hậu quả ra sao. Ông trái hẳn Mặc Tử không nói tới lợi, dù

là lợi công, cho nên bảo:” người quân tử hiểu rõ về nghĩa , kẻ tiểu nhân
hiểu rõ về lợi” và “ cách xử xự của người quân tử không nhất định phải
như vậy mới được, không nhất định như kia là không được, cứ hợp nghĩa
thì làm, như vậy là “ vô khả, vô bất khả” không cố chấp. Những việc gì
đáng làm, hợp nghĩa thì dù có mời không làm được, ông vẫn cứ làm khi
nào hết sức rồi mới thôi, mặc lờ chê của thiên hạ ” tri kì bất khả vi nhi vi
chi”( biết là không thể làm mà vẫn làm).
Tư tưởng nhân ái của Khổng Tử có thể so sánh với tình bác ái của
chúa Giê Su và Đức phật.Nhưng ông khác với các vị kia ở chỗ trong tình
cảm có sự phân biệt theo mối quan hệ: trước hết là ruột thịt, sau đến thân,
quen và xa hơn là người ngoài.
c. Nhân và Trí.
Trí trước hết là “biết người”. Có hiểu biết sáng suốt mới biết cách
giúp người mà không làm hại cho người, cho mình: “Trí giả lợi Nhân”.
Rõ ràng là người Nhân không được để cho kẻ xấu lạm dụng lòng
tốt của mình: “Không đón trước là người ta dối mình, không đoán phỏng
là người ta không tin mình, thế mà làm đến có điều lừa đảo, thì biết được
ngay, thế là giỏi vậy”.
Trí có lợi cho Nhân, cho nên khi Khổng Tử nói đến người Nhân –
quân tử, bao giờ cũng chú trọng đến khả năng hiểu người, dùng người
của họ.
14

Trí còn có thể hiểu như là tài năng, kiến thức; là cái sự hiểu rộng
biết nhiều của người quân tử, làm được nhiều việc, chứ không phải như
một đồ vật chỉ dùng được vào một việc. Người có trí phải hiểu được
mệnh trời. Tóm được tài đức của người quân tử cần cho việc trị dân: “Tài
trí đủ để trị dân mà không biết dùng đức nhân để giữ dân thì tất sẽ mất
dần”.
Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân đức mà đối đãi với dân không

trang nghiêm, thì dân không kính.
Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân đức giữ dân, lại biết đối đãi với
dân mà không biết dùng lễ để cổ vũ dân thì chưa hoàn toàn tốt.
Trí trong luận ngữ là trí của người biết được đạo. Trí mà như ngu
vậy: Ninh Vũ tử ở trong nước có đạo thì thể hiện là bậc trí, ở trong nước
vô đạo thì thể hiện như người ngu. Chỗ trí của ông ấy người ta có thể kịp
theo,nhưg vẻ ngu của ông ấy thì không ai có thể theo được vậy” (Công
Dã Tràng, V.20).
Trí trong Luận ngữ theo quan điểm của Khổng Tử, có một nội hàm
rất rộng : lo về nghĩa, kính quỷ thần…: “Chăm lo để dân hiểu về
nghĩa,kính quỷ thần mà cho giữ cho có khoảng cách, như thế có thể gọi là
trí vậy”. Khổng tử buồn về thực tế : người đời không tu theo đức,học
không giảng giải đạo lý: “Đức hạnh không trau dồi, học vấn không giảng
cứu, nghe đạo nghĩa không giảng theo, bản thân lỗi lầm mà không thể
sửa đổi, quả đó là những điều khiến ta lo lắng” (Thuật nhi,VII.3).
Theo Khổng Tử thì ham đức nhân mà không ham học thì bị sự che
lấp là ngu muội; ham đức trí mà không ham học thì bị sự che lấp là
phóng đãng; ham đức tín mà không ham học thì bị sự che lấp là bị tổn
15

hại; ham đức ngay thẳng mà không ham học thì bị sự che lấp là gắt gao,
mất lòng người; ham đức dũng mà không ham học thì bị sự che lấp là
loạn động; ham cương cường mà không ham học thì bị sự che lấp là
cuồng bạo.
Tử Hạ hiểu được đạo của thầy, khi bảo : “Học rộng mà giữ vững
chí hướng, hỏi điều thiết thực mà nghĩ đến điều gần (tức việc thực hành
những điều thiết thực), đạo nhân ở trong đó”. Như vậy “trí” cũng cần
phải học, phải rèn luyện. Người quân tử phải tu dưỡng bản thân, không
chỉ có nhân mà còn phải có trí, tránh bị sự không hay làm cho tinh thần
không yên, dẫn đến rối loạn rồi không lo được cho người mà cũng là hại

đến bản thân mình. Thiết nghĩ việc trị quốc cần đến những bậc hiền nhân
quân tử như vậy. Vừa dùng cái đức của mình nhưng cũng dùng lý trí sáng
suốt để thực thi công việc sẽ đem lại hiệu quả.
Phải sáng suốt (trí) mới biết yêu người đáng yêu, ghét người đáng
ghét, đề bạt người chính trực, bỏ người cong queo. Đó là một phẩm chất
và năng lực rất quan trọng của nhà quản lý.
d. Nhân và Dũng.
Dũng là tính kiên cường, quả cảm, dám hi sinh cả bản thân mình vì
nghĩa lớn. Khổng Tử khen Bá Di, Thúc Tề thà chết đói chứ không thèm
cộng tác với kẻ bất nhân, là người Nhân. Dũng còn thể hiện ở ý chí dám
vượt qua mọi khó khăn để đạt tới mục đích. Khi bị bao vây, thầy trò
Khổng Tử đói, “mặt xanh như tàu lá”, ông vẫn thản nhiên đọc sách, gảy
đàn và động viên học trò: “Người quân tử có khi cùng khốn là lẽ dĩ
nhiên, kể tiểu nhân cùng khốn thì phóng túng làm càn”.
16

Nhưng Dũng không ngang hàng với Nhân, mà chỉ là một bộ phận
tính cách của Nhân. Người Nhân tất có Dũng “Nhân giả tất hữu Dũng”,
nhưng những người Dũng chưa chắc có Nhân “Dũng giả bất tất hữu
Nhân”. Nhân là phương thuốc chữa cơn loạn đang bồng bột khắp xã hội.
“Những kẻ hiếu dũng lại ghét nghèo sẽ gây bạo loạn” (Thái bá, VIII.10);
“Duy chỉ có ai dốc chí vào nhân mới không làm điều gì xấu” (Lý nhân,
IV.4). Khổng Tử rất ghét những kẻ hữu Dũng bất Nhân, vì họ là nguyên
nhân của loạn.
Đạo của Khổng Tử không quá xa cách với đời. Nhân – Trí – Dũng
là những phẩm chất cơ bản của người quân tử, là tiêu chuẩn của các nhà
quản lý
e. Nhân và Lợi.
Khổng Tử không đặt chữ Lợi ngang bằng chữ Nhân.
Với ông “Người quân tử hiểu rõ về Nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ về Lợi”.Như

vậy, theo Khổng Tử chữ Lợi còn bị phụ thuộc vào chữ Nghĩa nữa. Hãy
xem ông lý giải các mối quan hệ này.
Lợi và Nghĩa: con đường mà Khổng Tử chọn không phải để trở
thành một doanh nhân; giàu có cũng không phải là lý tưởng của ông,
nhưng ông biết lợi ích kinh tế, hướng tới giàu sang là một mục tiêu, là
động cơ có tính khách quan của mọi người : “Giàu sang là điều ai cũng
muốn, nhưng nếu được giàu sang mà trái với đạo lý thì người quân tử
không thèm, nghèo hèn là điều ai cũng ghét, nhưng nếu sự nghèo hèn mà
không trái đạo lý thì người quân tử cũng không bỏ” (Lý Nhân)
Khổng Tử cũng mong phú quý, nhưng ông chỉ thừa nhận nó trở thành lợi
ích cho xã hội khi nó “không trái với đạo lý” và phải đạt được bằng
những phương tiện thích đáng: “Giàu nếu có thể cầu được, thì tuy làm kẻ
17

cầm roi là việc rất ti tiện, ta cũng chịu làm, nếu không thể cầu được, thì ta
cứ làm theo sở thích của ta” (Thuật Nhi).
Biết là giàu sang “không thể cầu được”, Khổng Tử đã an tâm với
sứ mạng “làm mõ gỗ”, giáo hoá thiên hạ và thanh thản chấp nhận cảnh
nghèo: “ăn gạo nấu, uống nước lã, co cánh tay mà gối đầu, trong cảnh đó
cũng có cái vui. Nhưng làm điều bất nghĩa mà được giàu sang thì ta coi
như mây nổi”.
Khổng Tử không phản đối chuyện làm giàu, không coi chuyện làm
giàu, tính toán lợi ích kinh tế là chuyện tiểu “tiểu nhân”, là điều cấm kỵ
và trái với đạo Nhân, như những hủ nho sau này gán cho ông. Thậm chí
ông còn đánh giá cao những người biết làm giàu đúng Lễ Nghĩa. Ông
khen công tử Kinh nước Vệ “khéo léo cư xử ở nhà, khi mới có một ít thì
nói rằng : tạm được rồi, khi có một ít thì nói rằng: tạm đủ rồi, khi đã giàu
có thì nói rằng: tạm đựoc tốt đẹp rồi” (Tử Lộ). Ông chỉ coi thường những
kẻ giàu có nhưng bất nhân, như trên đã nói, với ông Nhân cao hơn Lợi,
“Vua Cảnh Tông nước Tề có đủ ngựa kéo một nghìn cỗ xe, lúc chết nhân

dân không thấy công đức gì đáng khen; Bá Di, Thúc Tề chết đói dưới núi
Thái Dương, đến nay nhân dân còn khen ngợi, có thể vì lẽ đó”. (Quý
Thị).
Lợi và Thành: Với tầng lớp “Sĩ” và các nhà cai trị, Khổng Tử rất
khắt khe khi xem xét “Lợi”. Không bao giờ ông đánh giá sự thành công
và thành đạt của họ chỉ dựa vào mức thu nhập, phú quý và vinh hoa của
cá nhân nhà quản lý mà ở chính sự thành đạt của đối tượng quản lý của
họ - người dân. Ông đòi hỏi họ làm giàu cho “phải đạo”, và khi đã có rồi
cũng vẫn giữ được đạo Nhân, tuy rằng đó là điều không dễ, Khổng Tử
tin, một niềm tin khá ngây thơ, những người có Nhân tất có ngày thành
đạt vì họ làm theo “mệnh trời”. Trong số các học trò của ông, Tử Cống là
18

ngưòi biết buôn bán giỏi, nhưng ông nhận xét “Tử không thuận theo
mệnh trời” vì lo làm giàu mà không ham đạo lý. Nhan Hồi là một người
ngheò khó, nhưng luôn giữ đạo Nhân nên được ông khen là “người hiền”.
Khi bị bao vây và tuyệt lương ở Trần, Thái, thầy trò ông đều bị đói, nhiều
người hoang mang không tin vào lẽ phải của đạo Nhân, chỉ riêng Nhan
hồi không mất đức tin , Khổng Tử hớn hở bảo : “Hỡi con người họ Nhan,
nếu anh giàu thì ta sẽ quản lý của cải cho”. Thế đấy, ông dám bỏ qua sự
cách biệt theo lễ , sẵn sàng làm quản lý, làm lợi cho học trò của mình, vì
vững tin rằng làm cho người Nhân cũng là thực hiện đạo Nhân.
Bổng lộc là phần thưởng trong công việc: Lợi là nhu cầu, lợi ích cơ
bản của người quản lý và kẻ bị quản lý, Khổng Tử muốn tầng lớp cai trị
hướng tới Lợi, nhưng đó là thứ lợi lâu bền giành được bằng tài năng và
đức hạnh của họ - thứ lợi hợp Nhân, chứ không phải thứ của cải “ăn xổi,
ở thì”, tạm bợ như như “mây nổi”hoặc bổng lộc giành được bằng cách
làm xảo trá, ti tiện, bất nhân.
Cái tinh tế của đạo Nhân là ở chỗ Khổng Tử khuyên các nhà cai trị
không nên chỉ dựa vào lợi để ra quyết định quản lý: “nương tựa vào điều

lợi mà làm là hay sinh ra nhiều điều oán”. Ông biết họ có nhiều ưu thế để
tranh lợi với cấp dưới và những người lao động luôn phải chịu mức sống
thấp hơn, cho nên, điều quan trọng với nhà quản lý là phải nghiêm khắc
với mình, rộng lượng với người và lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau
cái vui của thiên hạ, Chỉ như vậy xã hội mới có cái lợi dài lâu là môi
trường chính trị-xã hội ổn định, các giai cấp hợp tác cùng làm ăn vì mục
tiêu chung: kinh tế thịnh vượng, tinh thần tốt đẹp.
Khổng Tử khuyên các nhà quản lý phải “khắc phục được tư dục”,
không nên cầu lộc cho cá nhân mình, cứ chuyên tâm làm tốt công việc thì
“bổng lộc tự khắc đến”. Cách chúng ta hơn 2,5 ngàn năm, ông đã hiểu
19

được “đầu ra” và hiệu quả của lao động quản lý. Nếu các nhà quản lý chỉ
lo tìm lợi cho bản thân họ thì nhất định tổ chức sẽ rối loạn, môi trường
bên trong của nó sẽ bị nhiễm độc bởi bầu không khí ích kỉ và dối trá.
Làm cho dân giàu là mục tiêu đầu tiên, cơ bản của quản lý: đối với
những người nông dân nghèo khổ đương thời, Khổng Tử biết lợi ích kinh
tế là nhu cầu thiết yếu của họ, nên ông biết đạo Nhân sẽ khó thực hiện
khi quần chúng còn nghèo khổ: “Nghèo mà không oán là khó, giàu mà
không kiêu là dễ”. Khổng Tử sang nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe, Khổng
Tử nói: “Dân đông thay!”, Nhiễm Hữu hỏi: “Đã đông rồi làm gì hơn
nữa?”, Khổng Tử nói: “Làm cho dân giàu”, Nhiễm Hữu hỏi: “ Đã giàu
rồi, lại làm gì hơn nũa?”, Khổng Tử nói: “Giáo dục họ”.
Tư tưởng “làm cho dân giàu”, “tiên phú, hậu giáo” là tư tưởng duy vật
của Khổng Tủ, được các học giả của Nho gia và Mặc gia sau này phát
triển thêm. Mặc Tử đề cao thuyết Kiêm ái: “Cùng yêu nhau, cùng làm lợi
cho nhau”.
Khổng Tử đánh giá mâu thuẫn về lợi ích kinh tế trong xã hội có
đối kháng giai cấp bằng con mắt của một nhà cai trị nhân đức chứ không
phải là một nhà cách mạng. Ông cố gắng điều hoà mâu thuẫn này và duy

trì sự ổn định cho xã hội bằng đạo Nhân. Theo ông, cái gốc của loạn là
người nghèo chưa được giáo hoá: “Ham sức mạnh mà không yên phận
nghèo thì sẽ loạn, người bất nhân mà bị ghét thái quá, sẽ sinh loạn” (Thái
Bá).
Phương thuốc mà Khổng Tử chữa cho xã hội loạn lạc thời đó là
đạo Nhân đã được ông truyền bá, “giáo hoá” cho cả hai phía: Người cai
trị và kẻ bị cai trị. Tuy nhiên có thể vì quá tự tin về sức mạnh và công
hiệu của nó nên có lúc ông đã tự mâu thuẫn với mình mà rơi vào chủ
quan duy ý chí. Tử Cống hỏi: nghèo mà không nịnh hót, giàu mà không
20

kiêu căng, thì thế nào”, Khổng Tử nói: “cũng khá đấy, nhưng chưa bằng
nghèo mà vẫn vui, giàu mà vẫn ham lễ nghĩa” (Học Nhi).
Tư tưởng của Khổng Tử về sự “ổn định kỷ cương và phát triển” là con
đường quản lý có hiệu quả và thành công đối với xã hội phong kiến.
Tư tưởng quản lý của Khổng Tử khác xa với các thuyết duy lợi,
thực dụng, duy kinh tế…hiện đại, đang được truyền bá rộng rãi ở các
nước phương Tây. Hiện tượng “thần kỳ” của một số nền kinh tế châu Á
có nguồn gốc là do biết vận dụng và phát triển các tư tưởng “phi kinh tế”,
giàu tính nhân bản của Khổng Tử vào kinh doanh và quản lý tronh nền
kinh tế thị trường. Đó cũng là một nét đặc thù của “của nghĩa tư bản
Khổng giáo” và văn hoá quản lý Khổng giáo.
3. Tại sao đạo nhân là triết lý quản lý của Khổng Tử?
Với vũ trụ quan, thiện, địa, nhân- vạn vật nhất thể, trời và người
tương hợp, Khổng Tử nhận thấy các sự biến của vanh vật tuân theo quy
luật khách quan mà ông gọi là “ mệnh trời, nhân người”, theo Nho học”
là cái đức của trời, sự giao hợp âm dương, sự hội tụ của quỷ thần, cái tinh
khí của ngũ hành. Con người sinh ra đều có bản chất người nhưng do
trời phú khác nhau về năng lực và hoàn cảnh sống khác nhau cho nên đã
trở thành những nhân cách khác nhau. Bằng sự học tập, tu dưỡng không

ngừng, con người dần dần hoàn thiệ bản chất của mình- trở thành người
nhân. Và những người hiền này có sứ mệnh giáo hóa xã hội.
Học thuyết nhân trị của khổng Tử cũng là 1 học thuyết quản lý xã
hội nhằm phát triển bản chất tốt đẹp của con người, lãnh đạo họ theo
nguyên tắc đức trị, người trên noi gương, kẻ dưới tự giác tuân theo.
Từ các lý lẽ trên ta có thể nói đạo nhân là triết lý quản lý của
khổng tử.Tinh thần cơ bản của triết học quản lý Nho gia là lấy “Nhân”
21

làm trung tâm, trên các phương tiện, cách thức, con đường trong quản lý
đều đề xuất những kiến giải độc đáo.
Về phương tiện quản lý. Khái niệm trung tâm trong triết học Nho
gia là “Nhân”. Xét kết cấu chữ, “Nhân” là chữ do hai chữ “nhị nhân” kết
hợp. Điều đó cho thấy, Nho gia thực ra đã lấy quan hệ giữa ngưòi với
ngườilàm xuất phát điểm cho lí luận của mình. Khổng Tử nêu ra:
Làm chính trị là ở ngưòi, muốn được người tài giỏi thì phải từ thân
người quân tử, dùng ĐẠO để tu thân, dùng Nhân để tu Đạo. Nhân là
người, (trong đó )thân với người thân là lớn nhất. Nghĩa tức là thích hợp
(hợp với Đạo), (trong đó) tôn kính người hiền là điều lớn nhất.
Tại đây, rõ ràng đã lấy “nhân” (người) làm thể trung gian trong
quản lý, bao hàm người quản lý và kẻ bị quản lý. Theo cách nhìn của
Nho gia, bản chất của quản lý là “trị nhân” (trị người), tiền đề của quản lý
là “nhân tính” (thiện ác), phương thức của quản lý là “nhân trị”, mấu chốt
của quản lý là “đắc nhân” (được người), nguyên tắc tổ chức quản lý là
“nhân luân”, mục đích cuối cùng của quản lý là “an nhân” (làm mọi
người được sống yên). Tóm lại tất cả đều không xa rời “nhân” (con
người).
Về cách thức quản lý. Nho gia nhấn mạnh “làm chính trị phải
dùng đức” (vi chính dĩ đức), chủ trương dùng biện pháp giáo hoá để cảm
hoá dân chúng, từ đó đạt mục đích cai trị. Khổng Tử nói: Dẫn dắt dân

chúngbằng chính lệnh, ứơc thúc dân chúng bằng hình phạt, thì dân
chúng tránh được khỏi mắc tội nhưng trong lòng không biết xấu hổ; dẫn
dụ dân bằng đạo đức, chỉnh đốn dân bằng lễ giáo, thì dân chúng không
những biết xấu hổ mà còn dần dần biết tự theo về điều thiện.
Đồng thời Nho gia cũng không hoàn toàn bác bỏ tác dụng của pháp
trị. Họ cho rằng, chính lệnh đọ lượng thì dân sẽ phóng túng thì phải dùng
22

chính sự hà khắc; nhưng hà khắc, dân chúng sẽ cảm thấy bị o ép; đến lúc
này lại phải dùng đến độ lượng điều chỉnh. Dùng khoan hoà để điều tiết
hà khắc, dùng hà khắc để điều chỉnh khoan hoà, quản lý chính trị vì vậy
có thể có được sự cân đối nhịp nhàng.
Về con đường quản lý. Nho gia đề xướng “tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”, từ sự quản lý của người quản lý, cho đến quản lý
gia đình, quốc gia, xã hội, tiến lên tuần tự, không thể để thiếu sót, cũng
không thể để vượt quá mức. Trong đó, “tu thân”-tự quản lý chính mình –
là căn bản cho mọi hoạt động quản lý. Theo Khổng Tử, chỉ có quản lý
được bản thân mình mới có thể quản lý được người khác, có quản lý
đựoc bản thân mới có thể quản lý được dân chúng, Ông lý luận rằng:
Thân mình mà được chính, thì không cần ra lệnh dân cũng nghe
theo;thân một khi đã không chính, có ra lệnh, cũng không ai theo.Nếu
như chính được bản thân mình, thì việc tòng chính còn có gì khó khăn
đây? Nếu không thể chính được bản thân thì làm sao khiến cho người
khác chính được.
1. Ý nghĩa triết lý quản lý của Khổng Tử với thực tiễn.
a. Nhà quản lý với đạo Nhân thời hiện đại.
Một điều dễ nhận thấy trong lí luận nhân cách quân tử của Khổng
Tử là đã xem nhẹ tác dụng mang tính quyết định của thực tiễn xã hội
rộng lớn lấy lao động sản xuất làm trụ cột đối với việc gây dựng nhân
cách. Tuy Khổng Tử coi trọng hoạt động thực tiễn mang tính thống nhất

giữa hướng nội và hướng ngoại, nhưng hướng ngoại mà ông nhấn mạnh
chủ yếu là hoạt động chính trị của tầng lớp quan lại, còn hướng nội chủ
yếu là « khắc kỉ phục lễ », tu dưỡng đạo đức. Tầng lớp nhân dân lao động
nghèo khổ và địa vị thấp kém khiến Khổng Tử cảm thấy không hữu ích
23

đối với yêu cầu đặt ra cho quân tử. Nhưng dù sao đó cũng là hạn chế về
mặt thời đại. Ngày nay, xã hội phát triển về mọi mặt được như vậy là do
con người biết kế thừa và phát huy những giá trị lịch sử. Trong đó nhân
tố quyết định vẫn là con người, đặc biệt là nhà quản lý với triết lý quản
lý. Thiết nghĩ nhà quản lý với đạo Nhân ngày nay ít nhiều cũng đã thay
đổi.
Đất nước Việt Nam đã chuyển mình, cơ hội đã mở ra. Công cuộc
đổi mới và hội nhập đã được chứng minh là đúng đắn. Một quốc gia sẽ
không đứng vững nếu bị cô lập hoặc chỉ bó hẹp trong khuôn khổ ngoại
giao một chiều. Ngày nay, một xã hội, một đất nước được coi là phát
triển không thể thiếu chiến lược ngoại giao đa phương, thiết lập quan hệ
bang giao với nhiều nước, nhiều khu vực để thông thương, giao lưu văn
hóa, chính trị,… trên quan điểm hòa nhập chứ không hòa tan và luôn phát
huy đậm đà bản sắc dân tộc. Để làm được điều đó, vai trò của người quản
lý là không thể thiếu.
Trước hết, người quản lý phải hội tụ đầy đủ các phẩm chất đạo
đức, văn hóa tốt đẹp truyền thống và phải có những phẩm chất tốt của
thời đại mới, nhạy bén trong kinh tế thị trường. Hay nói cách khác, đó là
những con người hội tụ đủ cả ba yếu tố : có Tâm, có Tầm và có Tài.
Nghĩa là phải có tâm với tổ quốc, nhân dân ; có tầm nhìn nhận thời cuộc,
đứng thật cao và nhìn thật xa ; có tài hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Đó là những con người đóng vai trò đầu tàu trong công cuộc phát triển
kinh tế, xã hội đất nước. Ngoài ra còn là những người phải phù hợp với
xã hội phát triển, không bị xã hội đào thải. C.Mác nói : Con người là tổng

hòa của các mối quan hệ và sự phát triển chính là sự kế thừa và đào thải.
Bất kì tầng lớp nào, giai cấp nào, vị trí nào trong xã hội, chỉ cần họ làm
đúng, đủ chức trách của mình và việc làm của họ có ý nghĩa với cộng
24

đồng, xã hội thì họ được coi là quân tử không cứ nhất thiết phải là quan
chức, doanh nhân,… Sự bình đẳng trong nhận thức, trong công nhận của
xã hội về quân tử thể hiện rất rõ trong một xã hội hội nhập và phát triển
như xã hội Việt Nam hiện nay. Bằng chứng là đất nước đã bắt đầu có
những ngày lễ vinh danh cho các doanh nhân thành đạt, vinh danh cho
người nông dân làm nông nghiệp giỏi, vinh danh cho người phụ nữ đảm
đang, vinh danh cho những công nhân tay nghề giỏi,…

b. Đào tạo tầng lớp quản lý chuyên nghiệp : kẻ sĩ, quân tử.
Là người hiểu biết sâu sắc về nhân học và lịch sử xã hội, Khổng
Tử cũng biết được tính phức tạp của lao động quản lý và ông dành hầu
hết cuộc đời mình cho sự nghiệp đào tạo tầng lớp quản lý chuyên nghiệp.
Tuyển chọn các nhà quản lý :
Khổng Tử không chú trọng nhiều đến cơ chế, chính sách quản lý
mà tập trung vào vấn đề người quản lý : Khổng Tử và các học trò đều
muốn tu thân để có thể quản lý các dạng tổ chức từ nhỏ đến lớn : « tề gia
– trị quốc – bình thiên hạ »
Trong trường Khổng. « tu thân, tề gia » là chương trình mà ông dạy cho
tất cả mọi người. Những người học hết chương trình phổ cập của đạo
Nhân đạt kết quả khá, không phân biệt thuộc giai cấp quý tộc hoặc bình
dân, sẽ được ông dạy thêm cho « lục nghệ ». Học hết khóa này mới có
thể trở thành các nhà quản lý có thể làm được các chức quan trong bộ
máy cai trị . « Hạng đó dù được làm quan hay không làm quan cũng được
gọi là kẻ sĩ, nếu có tài đức cao thì ông gọi là quân tử. Giai cấp sĩ đó chính
là do ông tạo thành. Như vậy kẻ sĩ và quân tử không phải là do giai cấp

25

hay địa vị xã hội tạo nên, mà do tu luyện vê đạo đức và trí năng quyết
định.
Có hai con đường trở thành quan. Một là những con cái tầng lớp
quý tộc có được chức vụ do tục « truyền tử », làm quan rồi mới học lễ
nghĩa. Thứ hai, là những người thuộc tầng lớp bình dân được học tập kỹ
trước khi làm quan. Khổng Tử đánh giá cao loại quan thứ hai vì họ
thường cai trị tốt hơn. Với ông, càng những chức vụ cao càng đòi hỏi
trách nhiệm cá nhân lớn, do đó càng đòi hỏi nhà quản lý phải có nhiều tài
đức hơn.Tư tưởng này của Khổng Tử đã được các vua chúa sau này học
tập, xây dựng lên một hệ thống tuyển lựa nhân tài cho quốc gia. Đây
cũng là bài học có ý nghĩa đến ngày nay đối với mỗi dân tộc, quốc gia,
bài toán cho những nhà quản lý đất nước.
Phẩm chất của nhà quản lý – hình mẫu người quân tử.
Ông không đánh giá cao người dựa vào chức vụ họ giữ, không tin
người chỉ dựa vào lời nói mà phải căn cứ vào việc làm của họ. Phải là
người chất phác, chính trực, thích điều nghĩa, biết xét lời nói, quan sát nét
mặt người khác để hiểu tâm lí họ, biết suy nghĩ khiêm nhường, làm quan
như vậy mới là đạt thành công. Chữ đạt đi liền với chữ đạo. Có đạo thì
mới có thể đạt trong nghề nghiệp quản lý.
Trong Luận ngữ, có năm người mà ông cho là người quân tử :
Nhan Hồi nghèo mà vẫn giữ được đạo nhân ; Cử Bá Ngọc khí nước có
đạo thì ra làm quan, nước vô đạo thì lui về ở ẩn ; Tử Sản biết khiêm
cung, kính cẩn, biết nuôi dân, thương dân; Nam Cung Quát biết đề cao
đức trị, lo tu đức để được địa vị chứ không dùng vũ lực, bạo lực.

×