Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NỀN NẾP HỌC TẬP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CHO HỌC SINH LỚP BỐN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.99 KB, 33 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HA
TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN HÀ I

MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG
NỀN NẾP HỌC TẬP PHÁT HUY TÍNH
TÍCH CỰC CHO HỌC SINH LỚP BỐN
Lĩnh vực: Giáo dục

Tác giả: Nguyễn Thị Hiển
Chức vụ : Giáo viên chủ nhiệm lớp 4D
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Tân Hà I


2
A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
Trẻ em được nhận định là chủ nhân tương lai của đất nước. Do đó, việc
ni dưỡng, giáo dục trẻ em có vai trị vơ cùng quan trọng. Nhận thức được điều
đó và xuất phát từ tình yêu thương trẻ em, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”.
Như vậy, bậc Tiểu học là bậc học giữ vai trò quan trọng trong việc hình
thành năng lực, phẩm chất cho học sinh nhằm xây dựng và phát triển con người
trở thành chủ nhân tương lai của đất nước. Tính tích cực, chủ động, sáng tạo là
yếu tố quan trọng tạo nên sự thành cơng của một con người.
Chương trình giáo dục phổ thông 2018 với quan điểm phát triển năng lực
và phẩm chất một cách toàn diện hơn, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của học sinh. Đáp ứng yêu cầu ấy, giáo viên cần tạo cơ hội cho
học sinh được học và vui chơi trong một mơi trường khoa học, lành mạnh, có tri
thức để xây dựng một thế hệ khỏe về thể chất, mạnh về tinh thần giúp cho việc


học tập thuận lợi và đạt kết quả cao.
Hiện nay, tình hình dịch bệnh Covid – 19 diễn ra hết sức phức tạp. Nên
việc học sinh tự giác và chủ động, tích cực trong các nhiệm vụ học tập là mong
muốn hàng đầu của nhà trường, gia đình và xã hội.
Như vậy, giúp học sinh hình thành thói quen tự học, tự rèn trong học tập
nhưng vẫn phát huy được sự linh hoạt, sáng tạo với một tâm thế hào hứng, mong
muốn đến trường, phát triển tự nhiên và tích cực thì người giáo viên chủ nhiệm
là người đóng vai trị định hướng cho học sinh. Đây là việc làm hết sức cần thiết
đòi hỏi người giáo viên cần phải kiên trì và có thời gian đầu tư cho học sinh.
Xuất phát từ những lí do trên, bản thân tôi tôi quyết định chọn đề tài “Một số
biện pháp xây dựng nền nếp học tập phát huy tính tích cực cho học sinh lớp
Bốn”.


3
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu
1. Mục đích
Tạo một môi trường học tập thân thiện cho học sinh, trang bị cho các em
nền tảng vững chắc để thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, phát huy tính tích cực,
sáng tạo. Từ đó, giúp các em tự tin, mạnh dạn trong cuộc sống học tập sau này.
Xây dựng một số nội dung phối hợp với tổ chức lớp, các giáo viên bộ
môn và đặc biệt là với phụ huynh học sinh để thực hiện tốt việc xây dựng nền
nếp học tập cho học sinh.
Đưa ra những biện pháp để giải quyết khó khăn của bản thân tơi cũng
như mong muốn học hỏi, chia sẻ cùng đồng nghiệp để có những kế hoạch xây
dựng, rèn luyện nền nếp học tập cho học sinh lớp Bốn một cách cụ thể, phù hợp
với tâm sinh lí học sinh lớp mình phụ trách.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp trực quan, phương pháp nghiên cứu, phương pháp nêu
gương, phương pháp luyện tập thực hành.

III. Giới hạn của đề tài
Đối tượng nghiên cứu và áp dụng là giáo viên và học sinh lớp 4D năm học
2021 – 2022 tại trường Tiểu học Tân Hà I trong việc rèn nền nếp học tập.
IV. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
Căn cứ Thơng tư 32/2018/TT-BGDĐT ban hành chương trình giáo dục phổ
thơng mới (Chương trình GDPT 2018) về những quan điểm và yêu cầu cần đạt
nhằm phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất cho học sinh.
Như chúng ta đã biết mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình
thành những cở sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí
tuệ, phẩm chất, thẩm mỹ, các kĩ năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng nhân cách, trách nhiệm
công dân. Hoạt động học và hoạt động giáo dục là hai mặt quan hệ chặt chẽ với
nhau, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển trong quá trình giáo dục học sinh. Có thể
nói trường học là vườn ươm cho những tài năng tương lai của đất nước. Muốn


4
nâng cao chất lượng toàn diện ở trường tiểu học thì mọi kỉ cương, nền nếp phải
chặt chẽ, nghiêm túc, đặc biệt là nền nếp học tập.
Nền nếp học tập là những nội quy, quy định về học tập, những quy tắc
được thống nhất giữa giáo viên và học sinh nhằm hỗ trợ quá trình học tập được
diễn ra đúng quy định, khoa học, logic. Xây dựng nền nếp học tập phát huy tính
tích cực cho học sinh là việc giúp cho học sinh chủ động, tự giác nắm và thực
hiện theo những nội quy, quy định, quy tắc đó. Đây là một yếu tố quan trọng
quyết định đến quá trình học tập lâu dài.
Nếu học sinh chưa chú tâm vào việc học thì việc thực hiện đúng nền nếp
học tập là điều khó khăn. Ngay từ bậc tiểu học, nền nếp học tập được rèn luyện
một cách nghiêm túc, có hiệu quả và trở thành thói quen thì ở các lớp sau các em
cũng sẽ là những học sinh có nền nếp học tập tốt, tạo bước đi vững chắc trong

việc học tập ở các lớp trên. Từ đó, tạo tiền đề cho việc rèn luyện, phấn đấu thành
người cơng dân có ích cho đất nước sau này. Vì vậy, theo bản thân tôi không chỉ
xây dựng nền nếp học tập mà còn phải xây dựng theo hướng phát huy tính tích
cực cho học sinh để các em được phát triển toàn diện hơn.
2. Cơ sở thực tiễn
Nền nếp học tập là những nội quy, quy định về học tập, những quy tắc
được thống nhất giữa giáo viên và học sinh nhằm hỗ trợ quá trình học tập được
diễn ra đúng quy định, khoa học, logic.
Xây dựng nền nếp học tập phát huy tính tích cực cho học sinh là việc giúp
cho học sinh chủ động, tự giác nắm và thực hiện theo những nội quy, quy định,
quy tắc đó. Đây là một yếu tố quan trọng quyết định đến quá trình học tập lâu
dài. Việc xây dựng nền nếp học tập đối với học sinh ở giai đoạn Tiểu học khơng
phải là chụn nhanh chóng, dễ dàng, cần phải xây dựng đúng nguyên tắc, phù
hợp nhưng vẫn đảm bảo sự thoải mái, không rập khuôn cho học sinh. Với việc
làm này, giáo viên chủ nhiệm là người đóng vai trị quyết định sự thành cơng
hay thất bại. Vậy giáo viên chủ nhiệm là những ai? Vai trò của họ như thế nào?


5
Giáo viên chủ nhiệm là một trong những giáo viên đang giảng dạy ở lớp có đủ
các tiêu chuẩn và điều kiện đứng ra làm chủ nhiệm lớp trong một năm học hoặc
trong tất cả các năm tiếp theo của cấp học.
Trong xã hội hội nhập và phát triển như hiện nay cũng như những đổi mới
trong giáo dục nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thì giáo viên chủ nhiệm
mang trên mình trách nhiệm to lớn. Đặc biệt, giáo viên chủ nhiệm cần phải ý
thức rõ hơn về nhiệm vụ của mình, xác định sẽ gặp cái khó, cái khổ hơn những
học sinh ở cấp học cao hơn. Việc xây dựng nền nếp học tập đối với học sinh
khơng phải là chụn nhanh chóng, dễ dàng, cần phải xây dựng đúng nguyên
tắc, phù hợp nhưng vẫn đảm bảo sự thoải mái, không rập khuôn cho học sinh.
V. Kế hoạch thực hiện (từ đầu năm)

Từ đầu năm học 2021 – 2022 đến hết năm học 2021 – 2022.
A. Phần nội dung
I. Thực trạng và những mâu thuẫn
Bản thân nhận thấy, việc xây dựng nền nếp học tập có những thuận lợi
nhất định:
- Nhà trường: Luôn quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất để giáo viên được
tham gia tập huấn đầy đủ về chuyên môn, nghiệp vụ và trang bị đầy đủ cơ sở vật
chất.
- Giáo viên: Nhiệt tình, tận tuỵ với nghề, luôn sẵn sàng nhận và thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao. Luôn học hỏi và trau dồi kinh nghiệm để nâng cao trình
độ chun mơn.
- Phụ huynh: Quan tâm đến việc học của con em mình, phối hợp tốt với
Nhà trường và tạo điều kiện giúp học sinh học tập tốt.
- Học sinh: Ngoan, nhiều em chăm chỉ, biết nghe lời thầy cô và bố mẹ.
Các em đều là người địa phương nên thuận lợi trong việc nắm bắt hoàn cảnh,
điều kiện, nếp sống, … của gia đình.
Bên cạnh những thuận lợi, cịn có một số khó khăn như:
- Nhà trường: Tình hình dịch bệnh Covid – 19 diễn biến phức tạp nên nhà
trường vừa thực hiện kế hoạch học tập đồng thời kết hợp phòng chống dịch bệnh


6
như: thời khoá biểu bị thay đổi nhiều lần, dạy học trực tuyến và dạy học trực
tiếp luân phiên nhau nên việc thực hiện nền nếp học tập cho học sinh gặp nhiều
khó khăn hơn.
- Giáo viên: Một số buổi học giáo viên chủ nhiệm khơng có tiết dạy tại
lớp nên khó khăn trong việc quản lý nền nếp lớp học.
- Phụ huynh: Một số phụ huynh vì hoàn cảnh khó khăn, làm xa nhà,
khơng có thời gian quan tâm con em của mình dẫn đến tình trạng “khốn trắng”
cho giáo viên.

- Học sinh: Một số em còn rụt rè, nhút nhát, nhiều lúc chưa sôi nổi tham
gia vào các hoạt động học tập và các hoạt động tập thể xã hội.
Sau khi nhận lớp được biên chế, bản thân tôi luôn quan tâm, theo dõi và
nhận thấy nền nếp học tập đầu tháng 10 của học sinh như sau:
Bảng 1: Nền nếp học tập đầu năm lớp 4D (34 học sinh)
ST
T
1
2
3
4
5

Đối tượng học sinh

Số lượng

Tỉ lệ

Hay nói leo, khơng giơ tay phát biểu.
15
44.1 %
Thường xuyên quên mang sách vở, đồ dùng học
tập. Không bảo quản sách vở và đồ dùng học tập
12
35.3 %
cẩn thận.
Không tham gia vệ sinh lớp học.
14
41.2 %

Chưa có ý thức tự giác trong học tập.
11
32.4 %
Ngồi học sai tư thế.
10
29.4 %
Ghi chú: Ở bảng thống kê này, một học sinh có thể nằm trong nhiều nhóm

đối tượng
Qua bảng thống kê có thể thấy, ở giai đoạn đầu, các em cịn gặp rất nhiều
khó khăn trong việc thực hiện nền nếp học tập, điều đó xuất phát từ những
nguyên nhân sau:
- Học sinh chưa hiểu được tầm quan trọng của việc thực hiện nền nếp học
tập để làm gì?
- Một số em đã được rèn luyện nền nếp học tập nhưng chưa hình thành
thói quen tự học, tự rèn cho bản thân tơi hoặc có biểu hiện chưa rõ ràng.
- Một số học sinh sống xa cha mẹ, các em không được nhiều sự quan tâm


7
từ người thân.
II. Các biện pháp giải quyết vấn đề
Trong công tác chủ nhiệm, bản thân tôi tôi mong muốn không chỉ dừng lại
ở việc xây dựng nền nếp học tập mà cần xây dựng nền nếp học tập phát huy
được tính tích cực của học sinh, đáp ứng được mục tiêu cũng như những đổi mới
trong Chương trình giáo dục phổ thơng 2018 đang hướng đến. Đó là xây dựng
nền nếp học tập cho học sinh lớp Bốn nhẹ nhàng, thoải mái và mang lại hiệu quả
tránh tình trạng thiết lập nền nếp học tập cho học sinh một cách rập khn, máy
móc. Bản thân tơi tơi mạnh dạn đưa ra năm biện pháp để thực hiện, cụ thể như
sau:

Biện pháp 1. Nắm bắt hoàn cảnh, lí lịch của từng học sinh và tạo môi
trường học tập thân thiện với học sinh
Biện pháp 2. Xây dựng nội quy học tập của lớp để hình thành nền nếp
học tập cho học sinh
Biện pháp 3. Phát huy hiệu quả phương pháp tự học
Biện pháp 4. Tổ chức tốt công tác phối hợp với Ban cán sự lớp, các biệt
đội trong lớp, giáo viên bộ môn, phụ huynh học sinh
Biện pháp 5. Tích cực thực hiện cơng tác làm gương, nêu gương và khen
thưởng học sinh
* Tính mới:
Với biện pháp “Phát huy hiệu quả phương pháp tự học” bản thân tôi tôi
xây dựng niềm tin và hứng thú học tập giúp học sinh tự tin và hào hứng khi đến
trường. Tiếp theo, bản thân tôi hướng dẫn các em lập kế hoạch học tập. Khi đã
xây dựng được kế hoạch học tập chi tiết và cụ thể, các em sẽ được giáo viên
hướng dẫn cách học tốt các môn học để làm đòn bẩy giúp việc học tập trở nên
nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, giáo viên cần thay đổi phương pháp
dạy học, hình thức tổ chức dạy học, cách đánh giá học sinh nhằm giúp học sinh
tích cực, năng động và phát triển khả năng tự đánh giá.
Với biện pháp “Tổ chức tốt công tác phối hợp với Ban cán sự lớp, các biệt
đội trong lớp, giáo viên bộ môn, phụ huynh học sinh” bản thân tôi chú trọng tổ


8
chức tốt công tác phối hợp, đặc biệt thực hiện thành lập các biệt đội chuyên
trách, phát huy tối đa năng lực của các thành viên trong đội, xây dựng lực lượng
nòng cốt hỗ trợ đắc lực đảm bảo việc duy trì nền nếp ở tất cả các buổi học mặc
dù khơng có giáo viên chủ nhiệm. Ngoài ra, bản thân tôi đổi mới việc phối hợp
với phụ huynh học sinh theo thời đại công nghệ 4.0 thông qua giao bài tập và
đánh giá học sinh qua ứng dụng Google Forms, Azota, Padlet,…; trò chơi học
tập Kahoot, Quizizz, Brooket,…; liên lạc với phụ huynh qua các trang mạng xã

hội, phần mềm VNEDU – Mạng Giáo dục Việt Nam, Zalo, Facebook,…
Các biện pháp “Nắm bắt hoàn cảnh, lí lịch của từng học sinh và tạo môi
trường học tập thân thiện với học sinh”, “Xây dựng nội quy học tập của lớp để
hình thành nền nếp học tập cho học sinh” và “Tích cực thực hiện cơng tác làm
gương, nêu gương và khen thưởng học sinh” là các biện pháp hỗ trợ giúp cho
việc xây dựng nền nếp học tập được thực hiện tốt hơn.
Sau đây là các biện pháp cụ thể và quy trình thực hiện nhằm xây dựng nền
nếp học tập phát huy tính tích cực cho học sinh lớp Bốn.
Biện pháp 1. Nắm bắt hồn cảnh, lí lịch của từng học sinh và tạo môi
trường học tập thân thiện với học sinh
Việc nắm bắt cũng như hiểu được tâm lí của từng học sinh và tâm lí lứa
tuổi là rất cần thiết trong giáo dục học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp
Bốn nói riêng, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục.
Ở bất kì lớp học nào, giáo viên muốn làm tốt cơng tác chủ nhiệm và giáo
dục học sinh tốt thì điều đầu tiên cần làm đó là giáo viên phải hiểu và nắm bắt
được tâm lý của học sinh – đó là thành công bước đầu của một giáo viên. Ngay
từ đầu năm học, sau khi nhận lớp được biên chế, bản thân tơi chủ động nắm bắt
hoàn cảnh lí lịch, tình trạng sức khỏe, sở trường, sở đoản, sở thích, ghét điều gì,
tính cách, những điều đặc biệt,…của từng học sinh thơng qua phiếu thơng tin cá
nhân. Sau đó, tiến hành rà sốt những học sinh có hoàn cảnh, tính cách đặc biệt
và thường xuyên gần gũi để hiểu biết diễn biến tâm lý của các em từ đó có biện
pháp hỗ trợ kịp thời. Cụ thể:
Em Đoàn Thị Trúc ở với bà nội. Bố mẹ chia tay từ khi em còn rất nhỏ nên


9
em chỉ biết đến tình cảm của bà. Ở với bà, em luôn được bao bọc nên khá rụt rè,
nhút nhát, hay khóc, dễ tồn thương, rất hay buồn và ít hoà đồng với các bạn.
Thấy được biểu hiện của Trúc, bản thân tơi đã liên hệ với gia đình và chia sẻ tình
hình hiện tại của Trúc. Mẹ Trúc khá lo lắng vì khơng ở gần con nên chỉ gọi điện

về hỏi thăm thì khi nào cũng nhận được câu trả lời bé vẫn sống tốt, không cần lo
lắng. Bản thân tôi đã động viên mẹ Trúc dành thời gian quan tâm em hơn. Qua
nguyện vọng của mình em ln muốn được nói chụn với mẹ, mong bố mẹ sẽ
ở bên nhau và luôn thương em. Biết được mong muốn của Trúc, bản thân tôi đã
tâm sự với bà nội của Trúc và xin phép được cho Trúc gọi điện nói chuyện với
mẹ, đồng thời nhắc nhở Trúc đã sắp đến giai đoạn tuổi dậy thì nên suy nghĩ và
hành động có nhiều thay đổi cần sự quan tâm, sát sao từ gia đình. Kết quả thật
bất ngờ, trên gương mặt của Trúc hiện rõ niềm vui và hạnh phúc. Theo sự động
viên từ cơ giáo và gia đình, bạn Trúc đã khơng cịn là một cơ bé hay buồn nữa.
Em vui vẻ, hoà đồng và mạnh dạn hơn trong giao tiếp. Mẹ và bà nội của Trúc rất
vui khi em có những thay đổi tích cực.
Em Dìu Hoàng Minh Huy là học trò cũ hồi năm lớp Một. Hồi em học lớp
Một, bản thân tôi nhận thấy em là một học sinh nhanh nhẹn, nhận thức bài tốt và
yêu thương các bạn trong lớp. Nhưng năm nay gặp lại em ở lớp 4D, bản thân tôi
nhận thấy em có nhiều sự thay đổi: Em có vẻ tự ti về bản thân tơi, khơng thích
làm việc nhóm và hay cảm thấy chán nản. Khi nói chuyện trực tiếp và được em
chia sẻ: “Con chỉ là một đứa con ngu dốt và vô dụng phải không cô?”, bản thân
tôi như muốn lặng đi và tự đặt ra câu hỏi tại sao Huy lại nghĩ vậy? Bản thân tôi
đã liên hệ ngay với gia đình để tìm hiểu nguyên nhân. Sau cuộc trò chuyện cùng
mẹ của Minh Huy được biết sau khi học xong lớp Một, gia đình gặp khó khăn về
kinh tế, ông bà mắc bệnh hiểm nghèo nên những khó khăn ấy gánh nặng lên đơi
vai của bố mẹ em, khơng cịn thời gian để quan tâm tới Huy. Bạn Huy đã nghiện
chơi game, khơng có ý thức học tập và thường xuyên bị giáo viên phản ánh về
tình hình học tập, bố mẹ tức giận đã la mắng, đánh đập em. Do áp lực từ cuộc
sống nên thường xuyên mắng em là kẻ ngu dốt, ăn hại. Mẹ Minh Huy thật sự bất
ngờ khi không nghĩ những lời nói vơ tình đó đã in sâu vào tâm trí con. Giáo viên


10
đã hướng dẫn gia đình thay đổi cách đối xử với con, dành thời gian quan tâm và

hướng dẫn con làm bài tập. Bên cạnh đó, động viên khích lệ và ghi nhận sự cố
gắng, nỗ lực của con. Kết hợp với sự tận tình của giáo viên trên lớp em Minh
Huy đã dần dần tin tưởng vào bản thân tơi mình, hào hứng hơn trong học tập và
khơng cịn chán nản nữa. Từ đó, sợi dây kết nối của Huy và bố mẹ được hình
thành rõ rệt hơn.
Em Trương Mai Đông An ở tuần học đầu tiên thường xuyên không làm
bài tập, thao tác làm bài rất chậm, giáo viên hỏi khơng trả lời chỉ nhìn cơ gật đầu
và lắc đầu thấy được biểu hiện như vậy bản thân tôi đã nhắc nhở khi người lớn
hỏi con cần đáp lại câu trả lời một cách lễ phép thì đó mới là một học sinh
ngoan. Được biết bé là con một trong gia đình có điều kiện, bố mẹ ln chiều
chuộng và phục vụ An từ những việc nhỏ nhất. Để xử lý việc học sinh không
làm bài tập, bản thân tôi đã nhắc nhở sẽ thông báo cho gia đình nhưng khơng có
sự thay đổi và có cảm giác An không sợ việc giáo viên báo cáo việc không học
bài cho gia đình. Mất một thời gian, giáo viên uốn nắn từ trong suy nghĩ của An
để An thấy làm việc chậm chạp sẽ không hoàn thành bài tập, không chịu làm bài
tập sẽ không hiểu bài, không lễ phép với người lớn sẽ không phải là một học
sinh ngoan,… Bản thân tôi luôn kiểm tra bài tập và chấm bài thường xuyên cho
lớp, dần dần An nhận thấy tác hại của việc không làm bài tập: không hiểu bài,
khi cơ sửa bài khơng có bài để theo dõi, các bạn cười khi mình khơng làm bài,
mình khác với các bạn,…. An nói với cơ: “Bố mẹ con nói con không cần phải
học ở nhà, chỉ học trên lớp là đủ rồi”. Sau khi nghe cô giảng giải về tầm quan
trọng của việc học, em đã khóc và biết mình sai, sau đó hứa với cơ từ hơm sau
làm bài đầy đủ. Khi biết suy nghĩ sai lầm của bố mẹ An, bản thân tôi đã trao đổi
để phụ huynh được biết và thay đổi tư tưởng trong cách giáo dục học sinh khi ở
nhà. Đồng thời, giao những nhiệm vụ nhỏ, vừa sức để An có trách nhiệm với gia
đình và thao tác nhanh nhẹn hơn. Bố mẹ đã cảm ơn cơ vì lâu nay nng chiều và
giáo dục con không đúng cách và hứa sẽ phối hợp cùng với cô trong cách giáo
dục con. Qua một thời gian An đã có ý thức học tập và thao tác đã dần nhanh
nhẹn hơn.



11
Ở năm học này, học sinh chuyển từ lớp 3 lên lớp 4 được chia lớp nên một
số em chưa quen hết các bạn trong lớp mình. Nhằm giúp các em ghi nhớ tên bạn
mình, phản xạ nhanh và mạnh dạn trước đám đông, sau khi cả lớp giới thiệu,
giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “ Bắn tên”. Ví dụ, Bạn Minh hơ to:
- Bắn tên, bắn tên…
Cả lớp đồng thanh
- Tên gì? Tên gì?
- Minh: “Tên Long, tên Long”
- Long: “Bắn tên, bắn tên.”…(tương tự như bạn Minh nhưng sẽ nêu tên
một bạn khác không trùng với tên bạn mình nêu trước đó). Trị chơi sẽ dừng lại
khi học sinh nói sai tên bạn, trùng tên bạn đã nêu trước hoặc sau 5 giây không
nêu được tên bạn nào. Cách làm này đem lại hiệu quả cao vì học sinh được rèn
khả năng phản xạ nhanh và nhớ tên bạn một cách tự nhiên.
Giáo viên nên khuyến khích học sinh chia sẻ suy nghĩ, mong muốn của
mình trong hộp thư “Điều em muốn nói”. Đến tiết sinh hoạt lớp, giáo viên sẽ thu
thập lại những điều các em mong muốn để giúp các em thực hiện được những
điều ấy một cách tốt nhất. Các em cảm nhận được sự quan tâm, những mong
muốn của mình được đáp ứng và các em cũng có suy nghĩ mình sẽ làm tốt
những mong muốn mà cơ và bố mẹ đang mong đợi ở mình.
Giáo viên linh hoạt và sáng tạo ở hoạt động khởi động để tạo không khí
hào hứng khơi gợi sự hứng thú cho học sinh trong q trình học tập. Ví dụ: Cho
học sinh hát hoặc tham gia những trò chơi học tập như: ong tìm chữ, tơi đố bạn,
giải cứu đại dương, truy tìm kho báu,... Thông qua các hoạt động vui chơi, các
em được “làm”, “được trải nghiệm” như trong cuộc sống thực, tạo môi trường
thân thiện giúp các em thực hiện nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng, hiệu
quả.
Với quan điểm tiếp cận chương trình giáo dục phổ thơng 2018, bản thân
tơi áp dụng linh hoạt các hình thức tổ chức kết hợp các phương pháp dạy học

tích cực tạo cho học sinh có cơ hội được trải nghiệm nhiều hơn như: kể chuyện,
đóng kịch, làm thơ, múa hát, làm thiệp chúc mừng, xử lí tình huống,… qua việc


12
lồng ghép tích hợp kĩ năng sống, giải quyết vấn đề,…trong các môn học như:
Tiếng Việt, Khoa học, Đạo đức, Lịch sử & Địa lý, Kĩ năng sống Poki,...
Khi nói chuyện, hướng dẫn tổ chức học tập bản thân tôi ln nhẹ nhàng,
động viên, khích lệ học sinh. Khi học sinh mắc lỗi, bản thân tôi thường kỉ luật
theo hướng tích cực đồng thời thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương, sự
gần gũi, quan tâm ân cần của mình đối với học trị trong lớp. Lịng nhân ái, bao
dung, đức vị tha của người thầy ln có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa
học sinh. Các em không học tập và rèn luyện theo cách đối phó vì sợ mà chủ
động, tự giác trong mọi hoạt động của lớp.
Khi học sinh đã cảm thấy được sự thân thiện của môi trường học tập, giáo
viên sẽ lấy đó làm bước đà cho việc hình thành, rèn luyện nền nếp học tập ban
đầu, là yếu tố góp phần thành cơng cho q trình học tập và rèn luyện sau này.
Biện pháp 2: Xây dựng nội quy học tập của lớp để hình thành nền
nếp học tập cho học sinh
Nhằm đạt được mục tiêu xây dựng nền nếp học tập bền vững và lâu dài,
bản thân tôi tôi đã xây dựng nội quy học tập của lớp với nội dung cụ thể như
sau:
NỘI QUY HỌC TẬP LỚP 4D
Điều 1: Đi học đều, đúng giờ
Điều 2: Trật tự nghe giảng, hăng hái giơ tay phát biểu
Điều 3: Bảo quản cẩn thận và chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập
Điều 4: Ngồi học nghiêm túc, đúng tư thế
Điều 5: Thực hiện theo đúng hiệu lệnh của giáo viên
Điều 6: Thực hiện tốt truy bài đầu giờ
Bản thân tôi xây dựng nội quy học tập ngắn gọn, dễ nhớ. Ở mỗi nội

dung, giáo viên hướng dẫn cụ thể cách thực hiện.
Ví dụ: Để thực hiện đúng hiệu lệnh của giáo viên, bản thân tôi yêu cầu
học sinh thực hiện nhuần nhuyễn các thao tác qua các giờ học như: thảo luận
nhóm - cặp, kí hiệu khi cần giáo viên hỗ trợ, chia sẻ trước lớp, cách đánh giá
theo cặp, hoạt động cả lớp, lấy sách, vở, bảng,… Việc làm này khá đơn giản vì


13
học sinh đã được làm quen với lớp dưới.
Để thực hiện tốt việc truy bài đầu giờ giáo viên xây dựng cho các em ý
thức tự quản tốt, vừa đảm bảo trật tự lớp, vừa đảm bảo nội dung ôn luyện nên
bản thân tôi hướng dẫn công việc cụ thể như sau: Các thành viên trong ban học
tập kiểm tra việc chuẩn bị đồ dùng học tập, việc hoàn thành bài tập về nhà của
các bạn theo từng nhóm. Nếu bạn nào thực hiện chưa tốt, chưa đầy đủ thì ban
học tập sẽ động viên để bạn cố gắng và báo cáo kết quả cho trưởng ban học tập.
Trưởng ban học tập có nhiệm vụ báo cáo kết quả cho ban học tập.
Để học sinh có ý thức giữ gìn vở sạch sẽ, giáo viên quy định vở cần bao
bọc cẩn thận, có nhãn tên và đảm bảo vở từng môn học của học sinh trong lớp
giống nhau. Nhắc nhở học sinh giữ tay sạch sẽ và chuẩn bị giấy kê khi viết bài
để hình thành thói quen khi thực hiện ở tất cả các môn học ở trường cũng như ở
nhà. Ngoài việc soạn sách vở, giáo viên hướng dẫn học sinh xếp sách vở đúng
theo thứ tự tiết học từ trên xuống dưới theo buổi học, bảng con để ở cuối cùng.
Vào đầu giờ học, giáo viên dành cho các em 2 phút để lấy theo đúng thứ tự đã
xếp bỏ vào ngăn bàn, lấy môn học đầu tiên và hộp bút để sẵn lên bàn, học xong
môn nào, xếp sách, vở mơn đó vào cặp. Việc làm này tuy nhỏ nhưng khắc phục
được việc đến tiết học các em sẽ lục tung cặp để tìm, gây mất thời gian, mất trật
tự trong lớp học, đồng thời tránh được việc để quên, thất lạc sách vở khi ra về.
Sau mỗi giờ học, trước khi ra về, giáo viên dành cho học sinh 2 phút thu dọn và
kiểm tra đồ dùng học tập.
Hằng ngày, giáo viên thường xuyên nhắc nhở học sinh thực hiện đúng

nội quy. Bên cạnh đó, bản thân tôi luôn chuẩn bị một cuốn sổ tay ghi lại sự tiến
bộ cũng như những biểu hiện bất thường cần khắc phục của học sinh để thuận
tiện cho việc theo dõi và giúp đỡ các em.
Việc xây dựng nội quy học tập cụ thể, rõ ràng, dễ nhớ, dễ thực hiện là
bước mở đầu cho hành trình xây dựng và rèn luyện nền nếp học tập phát huy
tính tích cực cho học sinh.
Biện pháp 3: Phát huy hiệu quả phương pháp tự học
Nội dung 1: Xây dựng niềm tin và hứng thú học tập


14
Khi tiến hành một công việc, yếu tố tinh thần rất quan trọng, càng vào
những lúc khó khăn, con người ta mới biết mình cần phải làm gì. Việc học tập
của học sinh cũng vậy. Học quả là khó khăn và gian khổ. Nếu khơng tìm thấy
được niềm vui và ý nghĩ của việc học thì khơng thể nào học tốt được. Thực tế
cho thấy: Học sinh có ý chí sẽ ln tìm cách vươn lên và trong q trình học tập,
các em sẽ tự đúc rút ra kinh nghiệm cho bản thân mình. Như vậy là đã có sự
thành công.
Đầu tiên, giáo viên tạo cho học sinh một tâm thế thôi thúc, chuẩn bị cho
việc học tập. Bản thân tôi thường xuyên đánh giá kết quả học tập của học sinh
kết hợp kiểm tra, khảo sát một cách kĩ lưỡng, đưa ra những đánh giá chính xác
về mức độ hoàn thành bài tập của học sinh để cho các em thấy được kết quả của
mình (trên thực tế điểm số rất thấp, ngay cả đối với nhiều em khá giỏi ở năm học
trước). Làm như vậy để các em thấy mình cần phải đầu tư suy nghĩ thì mới đạt
kết quả cao và kết quả này cho các em biết thực chất mình đang đứng ở đâu, đạt
được mức độ nào.
Trong một tiết học muốn gây được sự thích thú cho học sinh thì việc
chuẩn bị kĩ về đồ dùng dạy học rất quan trọng.Giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy
học kĩ thì chúng ta sẽ khai thác được trọng tâm của bài. Trong một giờ học giáo
viên cần chuẩn bị đồ dùng dạy học cho từng môn đảm bảo yêu cầu đẹp, đúng

trọng tâm của từng bài để sát với thực tế và phong phú hơn. Dạy trên những gì
học sinh nhìn thấy như hình vẽ, tranh ảnh cả lời nói diễn cảm có hình ảnh có
tính trực quan. Sử dụng đồ dùng dạy học giúp học sinh lĩnh hội tri thức nhanh cụ
thể. Ngoài ra còn tác động đến xúc cảm của học sinh bằng việc sử dụng đồ dùng
dạy học giáo viên cung cấp kiến thức từ khái quát đến chi tiết, tạo cảm hứng để
học sinh suy nghĩ tìm tịi ý tưởng mới của bài.
Để phát huy tối đa hiệu quả của đồ dùng dạy học giáo viên cần nghiên
cứu
mục tiêu của bài để chuẩn bị đồ dùng dạy học đảm bảo rõ nội dung, tránh trùng
lặp. Sử dụng đồ dùng dạy học đúng lúc đúng chỗ, không lạm dụng. Kết hợp nhịp
nhàng giữa lời giảng và động tác chỉ đồ dùng dạy học phải rõ ràng, mạch lạc để


15
cho việc lĩnh hội của học sinh được đồng thời bằng cả thị và thính giác.
Mỗi bài học khác nhau thì yêu cầu về đồ dùng dạy học là khác nhau vì thế
việc lựa chọn đồ dùng dạy học phù hợp với mục tiêu của từng tiết học là rất
quan
trọng.
Đối với mơn Lịch sử & Địa lí, thay vì giáo viên phải hướng dẫn, mơ tả,
hay
giải thích dài dịng nhưng học sinh vẫn chưa nắm được nội dung bài học thì giáo
viên có thể sử dụng bản đồ, lược đồ cho học sinh quan sát, khi được quan sát
qua lược đồ, bản đồ, các em dễ hình dung ra vị trí địa lí của các vùng, các thành
phố; hay nắm được diễn biến của các sự kiện lịch sử.
Đối với môn Khoa học, giáo viên tận dụng tối đa hiệu quả mà đồ dùng
dạy học mang lại. Khi dạy môn Khoa học cần có vật thật để học sinh quan sát,
đó chính là sự minh họa sinh động và gần gũi nhất cho bài dạy. Ngoài ra, giáo
viên cũng cần chuẩn bị đầy đủ dụng cụ thí nghiệm. Thơng qua hoạt động thí
nghiệm, học sinh được làm, được chứng kiến từ đó các em sẽ nắm kiến thức

nhanh hơn và sâu hơn. Ví dụ: Khi dạy bài Gió, bão (Khoa học 4), giáo viên sử
dụng hộp đối lưu trên thư viện, sau đó tập huấn cho các nhóm trưởng cách tiến
hành thí nghiệm, cách giải thích các hiện tượng xảy ra. Khi đến tiết dạy, các
nhóm trưởng tiến hành làm thí nghiệm cho các bạn theo dõi và yêu cầu các bạn
giải thích: Tại sao có gió? Các thành viên trong nhóm sẽ thay nhau trả lời và bổ
sung cho nhau để hoàn thiện những câu hỏi liên quan đến nội dung bài học.
Thơng qua thí nghiệm, học sinh được trải nghiệm thực tế, được quan sát tận mắt,
được nghe các bạn giải thích. Các em sẽ thấy rất thích thú và thoải mái, mặt
khác các em sẽ ghi nhớ rất lâu những kiến thức các em mới chiếm lĩnh được.
Giáo viên giảng giải cho học sinh hiểu ý nghĩa của việc học tập bằng
những câu danh ngôn. Chẳng hạn: Học để biết, học để làm, học để cùng chung
sống, học để làm người; Học để xây dựng quê hương đất nước. Bên cạnh đó, tạo
khung cảnh giáo dục tốt làm cho học sinh ngồi trong lớp học thấy vui tươi, thích


16
thú không nặng nề, sợ sệt. Đồng thời nhắc nhở các em xem tài sản lớp học,
chăm sóc cây xanh, vệ sinh và trang trí lớp học như ngơi nhà thứ hai của mình.
Giáo viên tổ chức những buổi vui học cuối tuần trong tiết sinh hoạt với
hình thức đố vui, ơn tập, hái hoa cũng là một hình thức ôn tập thú vị và hiệu quả.
Các em tham gia rất tích cực và cũng vui thích tham gia các phong trào của lớp
sôi động trong các hoạt động ngoại khóa như thi kể chuyện, thời trang, vẽ tranh,
hát,…
Hứng thú học tập là yếu tố quan trọng giúp học sinh bước đầu hình
thành thói quen tự học tạo tiền đề cho q trình học tập tích cực, chủ động. Tạo
được hứng thú học tập cho học sinh là yếu tố đầu tiên quyết định đến sự thành
công của giáo viên.
Nội dung 2: Hướng dẫn học sinh lập kế hoạch học tập
Học tập cũng phải mang tính khoa học, cần phải có trình tự và có kế
hoạch cụ thể, rõ ràng. Đồng thời, cần phải có sự đánh giá kết quả và đưa ra

hướng học tập mới thích hợp. Khi các em biết đánh giá chính bản thân mình thì
khơng cịn điều gì khó khăn trong học tập nữa, các em sẽ tự điều chỉnh bản thân.
Đó là vấn đề mà các lực lượng giáo dục đang mong mỏi.
Trang 1: Xây dựng thời gian biểu trong tuần
Thời gian
Thứ Hai
Thứ Ba
Thứ Tư
Thứ Năm
Thứ Sáu
Thứ Bảy
Chủ nhật

Sáng

Chiều

Tối

Ghi chú

Học sinh sẽ nhớ và ghi chú lại những việc cần làm trong thời gian tương
ứng. Làm xong việc nào thì đánh dấu tích đã làm xong và làm nốt những việc
còn lại. Sau khi làm xong mỗi việc cần kiểm tra lại xem mình đã làm hoàn chỉnh
hay chưa để kịp thời điều chỉnh. Trong quá trình học tập ở nhà, giáo viên hướng
dẫn học sinh cách tự học cùng với sự hỗ trợ, sao sát của bố mẹ. Cụ thể như sau:
Xem lại bài tập đã làm ngày hôm trước, làm lại những bài tập mình làm sai vào


17

nháp. Nếu làm lại vẫn cảm thấy chưa hiểu thì đánh dấu lại và chủ động lên lớp
hỏi cô hoặc các bạn. Bài nào chưa hiểu thì hỏi, hỏi các bạn trong lớp trước mà
vẫn khơng hiểu thì hỏi cơ.
Trang 2: Tổng kết trong tuần
Những

vấn

đề

em

đã

học

được

trong

tuần:

………………………………
Những

vấn

đề

em


chưa

hiểu:

……………………………………………..
Những

việc

em

đã

làm

được

trong

tuần:

…………………………………..
Những

việc

em

………………………………………


cần

phải

khắc

phục:

Qua phần tổng kết các hoạt động trong

tuần các em sẽ biết cách điều chỉnh những việc làm chưa được và phát huy
những việc đã làm được ở những tuần tiếp theo.
Như vậy, trước khi làm bất cứ việc gì chúng ta nên lập kế hoạch vì nếu
khơng có kế hoạch thì khơng làm chủ được thời gian. Một kế hoạch học tập tốt
cũng giống như chiếc phao cứu hộ vậy. Mỗi học sinh, tùy vào nhu cầu cá nhân,
sẽ lập một kế hoạch học tập riêng, kế hoạch đó có thể thay đổi khi cần, nhưng
điều quan trọng là phải tuân thủ kế hoạch đã đề ra vì thời gian học tập vơ cùng
q giá, khơng thể lãng phí được. Khi ý thức được điều này, học sinh sẽ tích cực
và chủ động hơn trong học tập.
Nội dung 3: Hướng dẫn cách học tốt cho từng môn
Một trong những cách học hiệu quả nhằm giúp học sinh tự học là hướng
dẫn học sinh học tập theo hình thức lớp học đảo ngược và đinh hướng cách học
tập cụ thể cho học sinh ở từng môn học, cụ thể:
* Phân môn Luyện từ và câu: Giáo viên cho học sinh tự cho thêm ví dụ
rồi cả lớp cùng phân tích. Hoặc tổ chức trị chơi học tập thi đua tìm từ ngữ trong
tiết mở rộng vốn từ, …Làm như vậy sẽ phát huy được tính sáng tạo và học sinh
thấy nội dung thật sống động, thật gần gũi, thiết thực và không bị nhàm chán.



18
* Phân môn Tập làm văn: Cả lớp cùng nhận xét bài văn để rút kinh
nghiệm; hoặc giáo viên viết một câu văn hay của một học sinh nào đó lên bảng
rồi mỗi em viết thêm một câu khác sao cho mạch nội dung được liên tục. Làm
được điều này, học sinh sẽ rất nhanh trí và phải tích cực động não, các em học
hỏi được nhiều điều hay từ các bạn.
* Ở các môn Khoa học, Lịch sử & Địa lý: Học sinh sẽ được phát huy kĩ
năng làm việc nhóm thơng qua nhiệm vụ giáo viên giao cho học sinh ở từng
nhóm. Kiến thức các mơn Khoa học, Lịch sử & Địa lý khá dài nên giáo viên có
thể sử dụng những hình ảnh hoặc sơ đồ tư duy để giúp các em ghi nhớ bài nhanh
và lâu hơn.
* Ở mơn Tốn: Mạch kiến thức theo hướng đồng tâm, các kiến thức
mới có mối liên hệ chặt chẽ với kiến thức cũ. Do tình hình dịch bệnh, học sinh
nghỉ học khá lâu và không được ôn luyện nên quên khá nhiều nội dung kiến thức
đã học, giáo viên cần ôn lại cặn kẽ các kiến thức ấy để các em có nền tảng và tự
tin hơn khi tiếp nhận kiến thức mới. Ở những dạng tốn có lời văn, giáo viên
thường hay ghi đề bài lên bảng và hỏi học sinh: Chúng ta cần chú ý vào những
từ ngữ nào? Có thể ghi lên góc bảng cách phân tích một bài tốn: Bài tốn hỏi
gì? Bài tốn cho biết điều gì, mối quan hệ? Muốn tìm được điều này thì ta tìm
điều gì trước và bằng cách nào? Giáo viên hướng học sinh tập trung chú ý vào
những từ ngữ then chốt, dựa trên những từ ngữ này để giải bài tập chứ không vội
vàng giảng giải các bước. Và dần dần, học sinh cũng biết cách đọc đề, cũng biết
suy luận. Khi dạy xong từng dạng toán, các em đã nắm chắc kiến thức và biết
cách vận dụng để làm bài thì giáo viên có thể mở rộng đề tốn từ dễ đến khó và
đặc biệt các bài tốn có liên hệ chặt chẽ với thực tiễn để gây hứng thú và kích
thích khả năng tư duy, tích cực học tập cho học sinh.
Bất cứ một mơn học nào, giáo viên nên tạo được sự hứng thú và bất ngờ
về nội dung được cung cấp để cho các em thấy nội dung thật lý thú, khơi gợi trí
tị mị khám phá kiến thức một cách chủ động. Bên cạnh đó, giáo viên định
hướng phương pháp học tập đúng đắn cho học sinh là yếu tố quyết định đến việc

hình thành thói quen tự học bền vững cho học sinh. Vì khi học sinh hiểu bài


19
cũng là động lực để các em hứng thú và chủ động hơn trong học tập.
Nội dung 4: Giáo viên ln ln đổi mới phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học theo hướng tích cực nhằm phát huy tư duy độc lập, tư duy
nhóm
Khác với cách dạy truyền thống “Thầy giảng – trò nghe”, phương pháp
dạy học hiện tại là “Thầy hướng dẫn – Trị tự tìm tịi khám phá để chiếm lĩnh
kiến thức”. Phương pháp mới này kích thích tính chủ động, khả năng tìm tịi, tư
duy sáng tạo cho người học. Từ đó, giúp học sinh ghi nhớ kiến thức lâu hơn. Vai
trò của người giáo viên là người hướng dẫn, định hướng, giúp đỡ kịp thời để các
học sinh đi đúng mục tiêu, nội dung trọng tâm của bài học. Để thực hiện tốt
những biện pháp này giáo viên cần thực hiện những việc làm sau đây:
* Đầu tư lựa chọn nội dung phù hợp và tổ chức tốt các hoạt động khởi
động.
Để bắt đầu mỗi tiết học, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài học và
lựa chọn một hình thức khởi động phù hợp. Hoạt động khởi động là cầu nối
hướng tâm thế của các em vào hoạt động chính, tạo hứng thú cho các em khi bắt
đầu tiết học. Thơng qua trị chơi khởi động tạo ra tình huống có vấn đề để kích
thích sự tị mị cho học sinh. Giáo viên có thể thiết kế hoạt động khởi động như
sau:
- Bước 1: Nghiên cứu nội dung tiết học
- Bước 2: Lựa chọn nội dung và hình thức khởi động
- Bước 3: Chuẩn bị đồ dùng cần thiết cho hoạt động
- Bước 4: Áp dụng vào tiết học
Ví dụ: Khi dạy mơn Khoa học, bài Tính chất của khơng khí, giáo viên tổ
chức cho học sinh khởi động bằng hoạt động “thi bơm bóng” bằng cách chuẩn bị
bóng bay với nhiều hình dạng khác nhau. Hội đồng tự quản yêu cầu hai đội chơi

trong thời gian 2 phút, đội nào bơm được nhiều bóng sẽ giành chiến thắng.
Thơng qua hoạt động khỏi động đó, giáo viên dẫn dắt để bước vào Hoạt động
hình thành kiến thức mới. Sau khi được chơi, học sinh rất thoải mái, vui vẻ và sẽ


20
thắc mắc tại sao bóng bay lại có nhiều hình dạng như vậy? Để đi tìm câu trả lời,
các em sẽ thích thú khi học bài.
Khi dạy mơn Đạo đức, bài Tôn trọng luật giao thông (Tiết 1), trước khi
vào
hoạt động chính, giáo viên cho cả lớp chơi trị chơi “Nhanh tay, nhanh mắt”. Tôi
in một số biển báo giao thông yêu cầu các đội chơi quan sát và trả lời tên của
các biển báo giao thơng đó. Các đội thi nhau trả lời, tạo ra khơng khí rất sơi nổi.
Sau khi chơi, tôi dẫn dắt để các em bước vào bài học mới.
* Áp dụng trò chơi học tập vào các tiết học.
Trong quá trình dạy học, việc sử dụng trị chơi học tập có nhiều tác dụng
như:
- Giúp học sinh thay đổi loại hình hoạt động trong giờ học, làm cho giờ
học bớt căng thẳng, tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu. Học sinh tiếp thu kiến thức
nhẹ nhàng, tạo hứng thú học tập.
- Kích thích sự tìm tòi, tạo cơ hội để học sinh tự thể hiện mình.
- Thơng qua trị chơi, học sinh vận dụng kiến thức năng nổ, hoạt bát, kích
thích trí tưởng tượng, trí nhớ. Từ đó phát triển tư duy mềm dẻo, học tập cách xử
lý thơng minh trong những tình huống phức tạp, tăng cường khả năng vận dụng
trong cuộc sống.
Khi dạy học, giáo viên có thể áp dụng trị chơi phần vận dụng – trải
nghiệm ở cuối tiết học. Cuối mỗi tiết học, thay vì hỏi lại kiến thức một cách khơ
khan thì giáo viên có thể biến hoạt động vận dụng thành một số trị chơi bổ ích,
vừa khắc sâu kiến thức cho các em vừa tạo khơng khí học tập vui tươi, sơi nổi.
Giáo viên có thể sử dụng trị chơi như sau:

+ Ơ chữ kì diệu: Trị chơi này có thể áp dụng cho nhiều mơn học như Lịch
sử - Địa lí, Khoa học, Tiếng Việt ,….
+ Ong tìm chữ: Áp dụng khi dạy mơn Tiếng Việt.
+ Ai nhanh – Ai đúng: Trò chơi này áp dụng được với nhiều môn học; ở
những bài cụ thể, giáo viên thay đổi nội dung của câu hỏi còn giữ nguyên hình
thức chơi.


21
Ví dụ: Khi dạy bài Khơng khí gồm những thành phần nào? Chúng có vai
trị gì đối với sự cháy và sự sống? (Khoa học 4), giáo viên sẽ sử dụng trị chơi Ơ
chữ kì diệu, cách tiến hành thiết kế ô chữ theo các bước cơ bản như sau:
- Bước 1: Chuẩn bị nội dung câu hỏi, tương ứng với nó là số hàng ngang
ghi câu trả lời.
- Bước 2: Tiến hành làm ô chữ.
- Bước 3: Hướng dẫn cách điều hành các bạn chơi trò chơi cho Hội đồng
tự quản.
- Bước 4: Áp dụng trò chơi vào cuối tiết học.
Nội dung 5: Đổi mới về cách kiểm tra, đánh giá học sinh
Nắm vững tinh thần đổi mới về đánh giá học sinh, giáo viên cần thực hiện
tốt. Các hình thức đánh giá giáo viên thường áp dụng để kích thích tính tích cực
cho học sinh là:
- Đánh giá bằng lời trực tiếp: Ln động viên khích lệ học sinh kịp thời,
không dùng những lời lẽ chê bai, hay trách móc khi các em chưa hoàn thành
nhiệm
vụ. Đánh giá dựa trên sự tiến bộ của từng học sinh, không so sánh học sinh này
với học sinh khác.
- Phỏng vấn nhanh: Sau mỗi hoạt động, để kiểm tra xem học sinh đã nắm
được kiến thức chưa, tôi sẽ phỏng vấn một số em bằng những câu hỏi ngắn liên
quan đến nội dung bài.

- Đánh giá bằng cách ghi lời nhận xét vào vở, sản phẩm của học sinh. Ví
dụ:
+ Khi học sinh hoàn thành tốt bài tập, tôi nhận xét như sau: “Hiểu và
làm đúng bài tập, trình bày rõ ràng, em thật đáng khen !”
+ Khi học sinh hoàn thành bài tập nhưng trình bày chưa đẹp tơi có thể
nhận xét: “Em làm đúng bài tập, nhưng em nên trình bày sạch sẽ và cẩn thận
hơn”
+ Khi học sinh chưa hoàn thành bài tập, hoặc làm sai nhiều, có thể
nhận xét: “Em chưa hoàn thành bài, em cần cố gắng nhiều hơn nữa”…


22
- Học sinh đánh giá: Khi giảng dạy, giáo viên cần tạo điều kiện cho học
sinh đánh giá lẫn nhau và tự đánh giá bản thân mình. Điều này tạo ra môi trường
học tập lành mạnh, tạo điều kiện để các em chia sẻ suy nghĩ của mình.
- Phụ huynh đánh giá: Cha mẹ học sinh có quyền tham gia đánh giá q
trình học tập của con mình. Từ đó có thể nắm được những điểm mạnh, điểm yếu
của con và có cách quan tâm con đúng cách.
Trong q trình dạy, giáo viên luôn kiểm tra, theo dõi, giám sát tiến trình
hoạt động, kết quả của các hoạt động của từng học sinh trong quá trình dạy học
trực tiếp. Bên cạnh đó, giáo viên có thể đánh giá học sinh theo hình thức online
qua Google Forms đối với bài tập trắc nghiệm, Azota đối với bài tập tự luận,…
hay một số trò chơi học tập online như: Kahoot, Quizizz, Brooket,… tạo được
hứng thú cho học và giáo viên dễ dàng thống kê sản phẩm của học sinh để có sự
động viên khuyến khích hay kịp thời giúp đỡ những học sinh còn hạn chế trong
từng dạng bài tập.
Biện pháp 4: Tổ chức tốt công tác phối hợp với Ban cán sự lớp, các
biệt đội trong lớp, giáo viên bộ môn, phụ huynh học sinh
Công tác phối hợp với các lực lượng giáo dục khác cũng là một yếu tố
giúp việc rèn nền nếp học tập cho học sinh được toàn diện và bền vững hơn. Với

biện pháp này, giáo viên có thể thực hiện một số nội dung sau:
Nội dung 1: Ngoài việc thành lập và phối hợp với Hội đồng tự quản
của lớp, cần thành lập thêm các biệt đội chuyên trách trong lớp để đảm bảo
nền nếp học tập được duy trì ở mức độ tối đa.
Lựa chọn tốt các thành viên có năng lực, trình độ để tiến hành bầu cử,
thành lập Hội đồng tự quản. Trước tiên, giáo viên phải giúp các em hiểu thế nào
là Hội đồng tự quản? Hội đồng tự quản là do học sinh điều hành các hoạt động
với sự hướng dẫn của giáo viên. Nhiệm vụ của Hội đồng tự quản là nắm bắt và
điều hành lớp hoạt động. Hội đồng tự quản được thành lập với mục đích vì học
sinh, để đảm bảo cho học sinh tham gia một cách dân chủ, tích cực vào học
đường, khuyến khích các em tham gia một cách toàn diện vào các hoạt động của
lớp, của trường, phát triển tính dân chủ, sự tơn trọng, bình đẳng, tinh thần hợp


23
tác và đoàn kết của học sinh. Tổ chức Hội đồng tự quản gồm 1 Chủ tịch hội
đồng tự quản và 2 Phó hội đồng tự quản. nhiệm vụ của Chủ tịch hội đồng tự
quản là quản lý chung các mặt hoạt động. nhiệm vụ của 2 Phó chủ tịch hội đồng
tự quản là quản lý các ban như: ban văn nghệ, ban học tập, ban vệ sinh, ban sức
khỏe, ban đối ngoại,…nhiệm vụ của mỗi ban là gì?
- Chủ tịch hội đồng tự quản: tổ chức, quản lí lớp học: khi có khách đến
thăm lớp chủ tịch giới thiệu chung và điều hành các ban lên làm việc.
- Phó chủ tịch hội đồng tự quản (đối ngoại): Giới thiệu lớp với khách, tên
lớp, sĩ số học sinh, tên giáo viên chủ nhiệm, tên và chức danh các ban, nhóm
trong hội đồng tự quản.
- Phó chủ tịch hội đồng tự quản (ban học tập): Kiểm tra bài tập ứng dụng
ở nhà của học sinh, hỗ trợ giáo viên kiểm tra kết quả làm việc của các nhóm,
giúp đỡ học sinh yếu.
- Ban Văn nghệ: Tổ chức văn nghệ, trò chơi, khởi động đầu tiết, tổ chức
sinh hoạt 15 phút đầu giờ.

- Ban học tập: Có nhiệm vụ phát đồ dùng và mời các nhóm trưởng lên
nhận tài liệu và đồ dùng học tập. Kiểm tra bài tập ứng dụng của các bạn, báo cáo
với cô giáo vào đầu giờ. Trong tiết học ngoài nhiệm vụ học tập của mình phải
quan sát bao quát lớp để cuối mỗi tiết học nhận xét đánh giá tình hình học tập
của lớp. Ngoài ra, tùy từng bài mà đặc biệt là ở hoạt động làm việc cả lớp, giáo
viên có thể để ban học tập thay cô giáo kiểm tra lại kiến thức mà các nhóm vừa
thảo luận xong. Muốn làm được tốt cơng việc đó, cuối mỗi buổi học, giáo viên
có thể mời ban học tập ở lại để giao nhiệm vụ trước cho các em.
- Ban lao động: Có nhiệm vụ theo dõi vệ sinh chung của cả lớp. Đầu mỗi
buổi học ban lao động phân công vệ sinh lần lượt cho các nhóm và kiểm tra
nhóm nào chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa tốt. Cuối mỗi buổi học sẽ kiểm tra
lại xem nhóm nào thực hiện vệ sinh chưa tốt để kịp thời nhắc nhở các bạn thực
hiện tốt.
- Ban sức khỏe: Theo dõi về sức khỏe nếu trong lớp bạn nào có vấn đề về
sức khỏe thì đưa bạn lên phòng y tế của trường hoặc chạy đi báo với cô y tế.


24
Vai trò của từng thành viên trong lớp sẽ được phát huy mạnh mẽ hơn nữa
trong các tiết sinh hoạt lớp và hoạt động tập thể. Giáo viên là người định hướng
và hỗ trợ học sinh trong việc thực hiện nhiệm vụ và vai trò của từng thành viên
trong lớp, thay phiên nhóm trưởng để tạo cơ hội cho tất cả các thành viên trong
lớp phát huy được vai trò của mình.
Vì Hội đồng tự quản hay ban cán sự lớp là lực lượng nòng cốt, giúp đỡ
giáo viên thực hiện các nhiệm vụ quản lí, tổ chức lớp nên khơng chỉ riêng đối
với lớp Bốn mà bất kì lớp học nào giáo viên cũng phải thành lập và phối hợp với
lực lượng này để tạo cơ hội cho tất cả học sinh được phát huy năng lực của bản
thân tôi, nhằm tạo điều kiện cho đa số các em được thể hiện mình, các em chủ
động, tích cực hơn trong học tập để làm gương cho các bạn và thấy được bản
thân tơi mình cũng góp phần xây dựng nền nếp giúp lớp học ngày càng vững

mạnh hơn.
Bên cạnh Hội đồng tự quản của lớp, bản thân tôi thực hiện thành lập các
Biệt đội trong lớp như:
- Biệt đội chữ viết đẹp: Thành viên của đội là những học sinh viết chữ
đẹp, giữ vở sạch và học sinh viết tiến bộ. Nhiệm vụ của đội là rèn chữ, kiểm tra
việc rèn chữ của các bạn trong lớp. Học sinh nào viết chữ tiến bộ, đẹp sẽ được
gia nhập vào đội.
- Biệt đội giúp bạn: Thành viên của đội là những học sinh học giỏi, làm
tốn nhanh, chính xác, đọc tốt. Nhiệm vụ của đội là giúp đỡ những bạn làm toán
chậm học tốt hơn, kiểm tra việc đọc, việc làm bài tập của các bạn trong lớp dưới
sự phân công của giáo viên chủ nhiệm. Mỗi tháng sẽ tổ chức tổng kết các biệt
đội, kết nạp thành viên mới, tuyên dương khen thưởng thành viên hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ.
Qua quá trình thực hiện những việc như trên, các em nhận thấy vai trị của
mình trong lớp thật quan trọng, là một thành viên có ích trong lớp nên rất hứng
thú với nhiệm vụ của mình, ham thích, tích cực học hỏi để làm gương cho các
bạn. Nhờ vậy, nền nếp học tập của lớp được rèn luyện thường xuyên, đồng thời


25
tiết kiệm được thời gian trong việc rèn nền nếp học tập cho lớp của giáo viên
chủ nhiệm.
Nội dung 2: Trao đổi, phối hợp với giáo viên bộ môn trong việc thực
hiện nền nếp học tập của lớp.
Tuy thời lượng các tiết học do giáo viên bộ môn phụ trách khơng q
nhiều, nhưng các tiết học đó vẫn cần thực hiện theo nền nếp lớp học đã xây
dựng. Để làm được điều này, bản thân tôi chủ động trao đổi với giáo viên bộ
môn về một số nội quy, quy tắc trong lớp học để có thể hỗ trợ rèn luyện nền nếp
học tập thường xuyên và lâu dài. Bên cạnh đó, giáo viên chủ nhiệm có thể tiếp
nhận thêm một số phương pháp hay và phù hợp với lớp mình từ giáo viên bộ

mơn, sau đó thống nhất để áp dụng một cách hiệu quả hơn. Nhờ sự kiên trì, ủng
hộ, phối hợp nhịp nhàng với giáo viên chủ nhiệm nên nền nếp lớp học được rèn
luyện thành thói quen trong học tập.
Ví dụ: Giáo viên bộ mơn thường xuyên nhắc nhở học sinh tư thế ngồi,
cách giơ tay phát biểu, thảo luận nhóm, thực hiện các hiệu lệnh của giáo viên
trong quá trình học tập.
Giáo viên chủ nhiệm cần quán triệt tư tưởng, suy nghĩ cho học sinh về
tầm quan trọng của tất cả các môn học, không có mơn nào xem nhẹ hơn mơn
nào, các em cần tôn trọng các thầy cô bộ môn và chăm chỉ học tập ở tất cả các
môn.
Nội dung 3: Trao đổi và phối hợp với phụ huynh học sinh để các em có
thói quen học tập tốt khi ở nhà.
Việc phối hợp với phụ huynh là một việc làm mà mỗi người giáo viên hay
nhà trường đều thực hiện. Ngoài việc xây dựng nền nếp học tập trên lớp thì việc
xây dựng nền nếp học tập ở nhà là một việc làm tất yếu trong đó phụ huynh
đóng vai trị quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm xây dựng những kế hoạch phối
hợp với phụ huynh học sinh khi xây dựng, rèn luyện nền nếp học tập ở nhà.
Từ việc xây dựng nền nếp ban đầu, các em chủ động hoàn thành nhiệm vụ
ở nhà mà không cần giáo viên, bố mẹ hay người thân nhắc nhở. Để làm được
điều này, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm, giáo viên chủ nhiệm trao đổi,


×