Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

CHIẾN DỊCH ĐÁNH TỐNG 1075 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.83 KB, 6 trang )

CHIẾN DỊCH ĐÁNH TỐNG 1075
Chiến dịch đánh Tống 1075 là tên gọi của chiến dịch do Lý Thường Kiệt của nhà
Lý phát động nhằm tấn công quân Tống ở 3 châu dọc theo biên giới Tống-Việt
năm 1075-1076.
Hoàn cảnh lịch sử
Nước Tống dưới thời Tống Thần Tông bị sự uy hiếp của các Liêu và Hạ phương
Bắc, phải cống nộp nhiều của cải và bị cắt nhiều phần lãnh thổ. Tể tướng Vương
An Thạch rất chú ý đến phương Nam và muốn lập công to ở ngoài biên, tâu lên
vua Tống rằng: "Giao Chỉ vừa đánh Chiêm Thành bị thất bại, quân không còn nổi
một vạn, có thể lấy quân Ung Châu sang chiếm Giao Chỉ
Tri châu Tiêu Chú ở Ung Châu đã có lần dâng sớ về triều xin đánh Đại Việt kẻo
sau có đại họa. Nhưng Tiêu Chú bị bãi chức. Khi họ Vương lên cầm quyền, Tiêu
Chú được phục chức vì ông là người am hiểu mọi vấn đề Đại Việt đang nằm trong
Kế hoạch mở rộng xuống phương Nam của Vương tể tướng. Dự án ấy không riêng
lo khuếch trương về phương Nam mà còn lấy khí thế để mở rộng cương vực
cho Trung Nguyên về phương Bắc nữa (đánh Liêu và Hạ).
Thái độ của triều Lý
Nhà Tống để ý đến thái độ của Lý triều thì thấy nhà Lý có vẻ ngang ngạnh nên
sinh nghi. Sự thật Lý triều đã nhân cuộc đánh phá của Nùng Trí Cao năm 1054 mà
bành trướng ngầm lãnh thổ của mình bằng cách xúi biên dân người Việt lấn đất và
sinh sự trong một thời gian khá dài[2].
Sau đó năm 1060 quan Lạng châu mục là Thân Thiệu Thái đem binh vào huyện
Nhử Ngao ở châu Tây Bình thuộc địa giới nhà Tống để bắt người bỏ trốn. Bắt
sống được nhóm ấy nhưng có lẫn cả Dương Lữ Tài là một viên quan nhà Tống và
nam, nữ, trâu, ngựa không thể đếm xuể. Nhà Tống sai quan Lại Bộ Thị Lang là Dư
Tĩnh đến Ung Châu thảo luận về việc ấy. Vua lại sai Bùi Gia Hựu tới Ung Châu
bàn nghị. Dư Tĩnh đem nhiều của đút lót Bùi Gia Hựu và gởi thư cho Hựu mang
về, xin vua trả lại Dương Lữ Tài. Nhà vua không xét[3].
Tống triều nén giận, giữ tình hòa hảo nhưng vẫn đợi dịp thuận tiện để xâm lăng
Đại Việt mà từ lâu Tống coi như kẻ thù trong suốt mười năm. Tiêu Chú sau khi
được phục hồi liền tới Quế Châu giao dịch với các tù trưởng từ đạo Đặc


Ma đến châu Điền Đống được hiểu lúc này Lý triều thắng Chiêm Thành, cướp
thêm được 3 châu của người Chiêm, dân sinh quốc kế rất thịnh đạt. Tiêu Chú có ư
trù trừ. Nhưng đến năm 1072 vua Thánh Tông qua đời, Dương Hậu và Ỷ
Lan giành nhau quyền vị.
Thái hậu Linh Nhân (Ỷ Lan) có tính hay ghen ghét, thấy bà đích mẫu (tức bà Thái
hậu họ Dương ở cung Thượng Dương) được tham dự việc triều chính mới bảo vua
rằng: "Mẹ già khó nhọc nuôi con để có ngày nay, đến lúc phú quý thì người khác
hưởng, ăn ở như thế thì đặt con mẹ già này vào chổ nào?"[3].
Nhà vua tuy nhỏ bé nhưng cũng có hiểu biết chút ít rằng, mình không phải là con
của Thái hậu Thượng Dương, bèn đem Thái hậu Thượng Dương và 72 người thị
nữ ở cung Thượng Dương rồi bức bách bắt đem chôn sống theo vua Thánh
Tông[3].
Vua Lý Nhân Tông là thái tử Càn Đức lúc này mới 7 tuổi, trong triều hai đại thần
văn võ là Lý Đạo Thành và Lý Thường Kiệt chính kiến bất đồng. Tống triều hỏi ý
Tiêu chú nhưng Tiêu Chú không tán thành cuộc Nam chinh. Tiêu Chú đáp: "Xưa
tôi cũng có ý đấy. Bấy giờ quân khê động một người ta có thể địch được mười, khí
giới sắc và cứng; người thân tín thì tay chỉ, miệng bảo là điều khiển được. Nay hai
điều ấy không như trước; binh giáp không sẵn sàng, người tin chết quá nửa. Mà
người Giao Chỉ lại sinh tụ, giáo hối đã mười lăm năm rồi. Bây giờ, nói quân Giao
Chỉ chưa đầy một vạn thì sợ sai.
Trái lại, Binh bộ Thị lang Thẩm Khởi lại rất sốt sắng đánh Đại Việt. Vua Tống
liền phái Thẩm Khởi thay Tiêu Chú làm Quảng Tây kinh lược sứ năm 1073 lo việc
xuất quân.
Việc thứ nhất của Thẩm Khởi là đặt các doanh trại, sửa đường tiếp tế. Việc thứ hai
là động viên 52 động thuộc Ung Châu sung công các thuyền chở muối để tập thủy
chiến. Sợ Đại Việt biết, ông cấm hẳn mọi việc buôn bán, giao dịch giữa các biên
dân Việt Hoa.
Việc thứ hai của Thẩm Khởi là phủ dụ các tù trưởng lệ thuộc về Lý triều theo
Tống được Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Nùng Thiện Mỹ ở Bắc Cạn, giáp Thất Khê
hưởng ứng. Theo Nguyễn Văn Tố, họ Thẩm chứa chấp Nùng Thiện Mỹ và việc

này đă đến tai người Việt[4]. Công việc đang tiến triển thì tháng ba năm 1074,
Chuyển vận sứ Quảng Tây tỏ ý phản đối Thẩm Khởi về các hoạt động kể trên.
Thêm nữa, Thẩm Khởi đă lầm lỗi trong nhiều việc nên bị đổi đi Đàm Châu và
chính Vương An Thạch cũng không tin rằng Thẩm giải quyết nổi vấn đề Đại Việt.
Bấy giờ vua Tống trách Thẩm Khỉ vì tội tự tiện nhận bọn Nùng Thiện Mỹ mà
không hỏi, cũng không đồng ý cho Lưu Kỷ nhập Tống vì sợ nhà Lý giành lại.
Ngoài ra, lúc này Tống đang mắc vào chuyện chiến tranh với Liêu, Hạ chưa xong
nên việc đánh Đại Việt phải ngừng lại.
Năm 1073 Lý Thường Kiệt đã tập trung nhiều quân ở biên giới, lộ vẻ đánh vào đất
Tống.
Vua Tống được tin nhà Lý tụ binh, báo gấp cho Tô Giám là viên quan coi Ung
Châu dặn rằng nếu Giao Chỉ phạm đến Ung Châu thì phải kiểm quân cố thủ,
không được khinh địch (1074).
Đầu năm 1075, Tể tướng Vương An Thạch cắt đất cho nước Liêu, nhà Tống tạm
yên, có thể tăng cường binh lực cho Lưu Di. Di cho đóng chiến hạm, dùng thuyền
muối để tập thuỷ binh và cấm người Việt sang buôn bán để tránh sự thám thính.
Tình hình đang căng, Lý Thường Kiệt lại đưa biểu tới triều Tống đòi lại Nùng
Thiện Mỹ (thủ lãnh châu Ân Tình đã theo Tống) và bộ thuộc để trừng trị. Vua
Tống từ chối trả Thiện Mỹ cho nhà Lý.
Đại Việt xét đánh trước có lợi hơn và tính rằng quân Tống có vào Đại Việt tất phải
qua Ung Châu theo đường bộ và qua các cửa biển Khâm Châu và Liêm Châu theo
đường thủy nên họ quyết tâm phá trước các cứ điểm này của người Tống.
Diễn biến
Ngày 27 tháng 10 năm 1075, Vi Thủ An từ Tô Mậu vào đánh Cổ Vạn, chiếm được
trại Cổ Vạn. Tin tức đến tận trung tuần tháng 11 mới tới được triều đình Biện Kinh
của Tống tức gần tháng rưỡi. Nhưng người Tống mới chỉ nghĩ là những việc cướp
nhỏ mà thôi, Tống Thần Tông còn bảo Lưu Di kể tên những người có chiến công
và giúp đỡ những người có nhà bị cướp và bị đốt.
Tháng 10 năm 1075 Thường Kiệt tập trung thủy quân Đại Việt ở Đồ Sơn (vịnh Hạ
Long) theo lối sau các núi đá mà tiến vào Khâm Châu; còn đi đánh Ung Châu

(Nam Ninh) lục quân của quân Lý cũng chia nhiều đường:
1. Từ Quảng Nguyên theo bờ sông Tả tiến đánh trại Thái Bình.
2. Từ hai châu Tô, Mậu vượt núi qua Lộc Châu, Cổ Vạn, Tư Lăng, Thượng
Tứ.
3. Từ châu Quảng Lăng tiến qua Thái Bình, Bằng Tường, Tư Minh và trại
Vĩnh Bình.
Về mặt địa lý thì các vùng về phía Tây Bắc biên giới hai nước lúc này chưa định
rõ, các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu ngày nay cũng không phải đất của nhà
Lý, cũng không thuộc triều Tống. Biên giới mà Tống-Lý trực tiếp giao nhau là
Ung Châu gồm các trại Thiên Long, Cổ Vạn tiếp giáp Vĩnh An, Tô Mậu (Quảng
Ninh); trại Vĩnh Bình tiếp một phần Quang Lang (Lạng Sơn, Lạng Châu) và một
phần Quảng Nguyên (Cao Bằng); các trại Thái Bình và Hoành Sơn tiếp Quảng
Nguyên. Khâm Châu sát trại Thiên Long và tiếp Vĩnh An của nhà Lý ở cửa Để
Trạo.
Theo kế hoạch, nếu thủy quân chiếm được Khâm Châu thì tiến thẳng lên Ung
Châu. Đề phòng người Tống xâm nhập vào đất Việt, quân Đại Việt cũng chia ra
đóng ở nhiều căn cứ theo dọc đường biên giới. Đại khái quân hạ du của Lý đóng ở
Vĩnh An và thượng du thì theo dọc biên thùy từ các châu Quảng Nguyên, Quảng
lăng, Tô Mậu. Tổng số quân Đại Việt có từ 8 đến 10 vạn.
Cùng theo quân Lý tiến công vào Tống lần này, quân số khê động không rõ, chỉ
biết rằng quân man đi trận, mang cả vợ con đi theo. Có người nói với Vương An
Thạch: " Khi Giao Chỉ vào cướp, quân có sáu vạn, trong đó có nhiều đàn bà, trẻ
con. Man dân kéo hết cả nhà di theo, chỉ để một vài người ốm yếu ở nhà " để chỉ
quân khê động.
Về phía nhà Tống thì quân số cả nước lúc này chỉ khoảng 380.000 người[5] và chủ
lực tinh nhuệ lại tập trung ở phía Bắc nơi phải chịu sự đe dọa từ các lực lượng xâm
lăng của Hạ và Liêu. Quân Tống ở phương Nam chiến đấu kém hơn nhiều.
Phòng ngự Ung Châu gồm hai đoàn. Mỗi đoàn có 5000 quân. Giữ biên thuỳ Đại
Việt, có một tướng lại chia làm hai phần: 2000 quân đóng ở thành Ung, 3000 chia
đóng ở 5 trại tiếp giáp Đại Việt: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên

Long.
Khâm Châu và Liêm Châu sát biển tiếp giáp Quảng Ninh và Lạng Sơn ngày nay,
đặt viên Phòng biên tuần sứ cai quản đoàn quân Đằng Hải để hợp với quân của hai
viên tuần kiểm, không quá 500 người, đóng ở hai trại: Như Tích giáp biên thuỳ
châu Vĩnh Anh và Để Trạo ở cửa sông Khâm Châu.
Thường Kiệt đem thủy quân đánh vào căn cứ quân sự của Tống ở ven bờ biển
thuộc Quảng Đông. Cùng một lúc Tôn Đản phụ trách lục quân chia ba đường kể
trên đánh vào Quảng Tây, quấy rối các trại Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ
Vạn trên tiền tuyến của Ung Châu. Hàng rào này bị đổ mặc dầu quân Tống xuất
toàn lực cứu cấp nhau và chống đỡ các miền Tây và Tây Nam. Nhiều chúa trại bị
tử trận (chúa trại Hoành Sơn, Vĩnh Bình, Thái Bình v.v.) Mặt Đông Nam thiếu sự
phòng bị. Quân Tống bị đánh bất ngờ ở địa điểm này và tất nhiên quân Đại Việt
phải đánh mạnh vào đây hơn hết.
Về phía Khâm Châu và Liêm Châu quân Tống hoàn toàn bị bất ngờ, ngày 30 thág
12 năm 1075 Khâm châu bị chiếm. Ba ngày sau Liêm châu cũng mất, chúa các trại
Như Tích và Để Trạo đều tử trận. Viên coi Khâm Châu là Trần Vĩnh Thái trước đó
đã có người báo cho là Giao Chỉ sắp vào đánh, nhưng Thái không tin, đến khi
chiến thuyền của Lý đã tới đến nơi, Thái vẫn còn bày rượu uống. Quân Lý đột
nhập vào thành không mất người nào, bắt Vĩnh Thái và bộ hạ, lừa lấy của cải rồi
đem giết hết.
Nhìn chung quân Lý với lực lượng áp đảo tiến ào ạt rồi thẳng lên Ung Châu không
gặp một sức kháng cự nào đáng kể. Ở Liêm châu, vì đã biết tin Khâm châu mất
nên có phòng bị đôi chút nhưng quân Lý ào ạt kéo vào, quân số lại đông hơn nhiều
nên chiếm Khâm Châu rồi bắt tới 8.000 tù binh dùng để đưa đồ vật cướp được
xuống thuyền sau cũng đem giết sạch. Viên coi Khâm châu là Lỗ Khánh Tôn và
bộ hạ cũng đều tử trận. Chỉ có 7 ngày quân Đại Việt đã có mặt ở chân thành Ung
Châu.
Ngày 10 tháng chạp, Tôn Đản kéo đến Ung Châu. Cánh quân chiếm được Khâm
Châu tiến lên Ung Châu. Cánh chiếm được Liêm Châu tiến sang miền Đông Bắc
chiếm châu Bạch[6].

Nửa tháng sau Ty kinh lược Quảng Tây mới hay tin về cuộc tấn công này để thông
báo về triều. Vua tôi nhà Tống hết sức bối rối. Rồi nhiều nơi khác bị mất lại được
cáo cấp về, Tống triều lại càng hoang mang thêm, sau đó có lệnh của Tống Thần
Tông cho Quảng Châu, Quảng Tây phải cố thủ ở các nơi hiểm yếu nhất, vận-
chuyển tiền, vải, lương thực để khỏi lọt vào tay quân Lý, cách chức Lưu Di,
cử Thạch Giám thay coi Quế Châu và đưa viện binh tới các thị trấn đang bị uy
hiếp.
Trận Ung Châu
Ngày 10 tháng chạp (18 tháng 1 năm 1076) đại quân nhà Lý cũng tới thành Ung.
Mấy vạn quân của Lý Thường Kiệt, Lưu Kỷ và các tù trưởng khác vây thành Ung
vài vòng kín như bưng. Tướng giữ thành là Tô Giám thấy thế quân Đại Việt mạnh
nên đã áp dụng triệt để chính sách cố thủ để chờ viện quân, tính chỉ hai tuần lễ có
thể đến nơi. Tô Giám ban đầu tin rằng Ung Châu cách Quế Châu chỉ có 14 ngày
đường, nên viện binh thế nào cũng sẽ đến kịp cho nên đóng cửa thành cố thủ.
Kiểm điểm binh lương, trong thành Ung lúc ấy chỉ có 2.800 quân. Dân thành Ung
tất cả được gần 6 vạn người bấy giờ sợ hãi đạp nhau mà chạy. Ông đem hết công
nhu (tiền công) phát hết cho dân khích lệ mọi người vững lòng, kiên trí. Kẻ nào bỏ
trốn phải tội theo quân lệnh (Địch Tích là một bộ hạ dưới trướng của Tô bị chém
trong trường hợp này). Ông còn phao tin viện quân không còn xa thành là bao
nhiêu.
Nếu không có sự khôn ngoan khéo léo này, có lẽ quân dân trong thành Ung đã đào
tẩu hết. Trước đó con Tô Giám là Tử Nguyên làm quan ở Quế Châu đem gia đình
đến thăm cha, lúc sắp trở về thì thành Ung bị vây, Tô Giám lại bắt Tử Nguyên để
vợ con ở lại chỉ được về Quế Châu một mình mà thôi chứng tỏ ông hăng hái quyết
tâm chống lại quân Lý, được lòng quân dân lắm.
Lúc này Lưu Di tướng quân giữ Quế Châu nghe tin thành Ung bị nguy liền
phái Trương Thủ Tiết đem quân đi cứu. Đạo quân này không dám tiến thẳng đến
Ung châu, đi vòng theo đường Quí Châu tới Tân Châu rồi nghe ngóng. Ung Châu
bị vây gấp quá, Tô Giàm cho người mang lạp thư viết vào giấy rồi bọc trong nến
mà ngậm vào miệng phá vòng vây ra báo cho Trương Thủ Tiết hay. Tiết bất đắc dĩ

kéo quân đi, đến giữ ải Côn Lôn giữa Tân châu và Ung châu, cách Ung 40 cây số
thì bị Lý Thường Kiệt cho quân đón đánh, giết luôn Trương Thủ Tiết và bắt nhiều
tù binh. Việc này vào ngày 4 tháng giêng âm lịch.
Để công phá Ung Châu, mấy vạn quân Lý bắc thang mây để leo thành. Quân Tống
dùng đuốc mà đốt nên không thể bắc gần được. Lý Thường Kiệt lại dùng tên độc
mà bắn, người ngựa trên thành chết nằm gối lên nhau. Quân Tống dùng thần tư
(một loại nỏ) ra bắn. Voi và quân sĩ của Lý Thường Kiệt có nhiều người bị chết.
Thành cao và cứng, đánh phá hơn 40 ngày không hạ được.
Ngày 1 tháng 3 năm 1076, Ung Châu bắt dầu nguy kịch. Quan quân Lý bắt dân
Tống, sai lấy túi đất đắp vào chân thành để leo lên. Thường Kiệt theo đó mà lên
đánh, thành bị thất thủ sau 42 ngày kháng cự[7]. Tô Giám cố gắng đốc thúc cùng
bọn tàn quân chiến đấu đến phút cuối cùng. Khi đã kiệt sức ông cho 36 thân nhân
tự sát rồi tự thiêu mà chết.
Kết quả
Việc nhà Lý đánh Liêm Châu, Khâm Châu và Ung châu, quân dân Trung Quốc bị
hại vào khoảng 7-10 vạn người, và có tới hàng ngàn người bị bắt đem về Đại Việt
cùng nhiều của cải nữa. Còn chuyện đánh Ung Châu trước sau mất hơn một tháng.
Quân Đại Việt cũng có phần mệt mỏi. Lý Thường Kiệt hạ lệnh rút binh vì mục
đích bấy giờ chỉ có ý đánh vào đất Tống để phá thế xâm lăng mà thôi.
Tham khảo
• Việt Sử Toàn Thư
• Đại Việt Sử Lược-Quyển II
• Sử Trung Quốc-Nguyễn Hiến Lê
• Tống Sử
• Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim
( Kiến thức bách khoa )

×