Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Báo cáo " Tư tưởng lập hiến Việt Nam và một số vấn đề đặt ra khi tiến hành sửa đổi hiến pháp năm 1992 " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.11 KB, 9 trang )



nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2011 9






TS. TRƯƠNG THỊ HỒNG HÀ*
hi nghiên cứu về tư tưởng lập hiến
hiện đại, các nhà khoa học thường đi
đến nhận định: “Các tư tưởng lập hiến hiện
đại đều coi hiến pháp như một văn bản có
sứ mệnh xác lập chế độ mới thay thế chế độ
cũ và coi nó như là một bản khế ước xã hội
của nhân dân”.
(1)
Ở Việt Nam, tư tưởng lập
hiến Việt Nam ra đời muộn hơn các tư
tưởng lập hiến trên thế giới nên có ưu thế là
vừa kế thừa tư tưởng lập hiến hiện đại lại
vừa thể hiện một cách sâu sắc xã hội Việt
Nam qua các thời kì lịch sử. Do đó, sự hình
thành, phát triển tư tưởng lập hiến Việt
Nam cũng có nhiều thăng trầm, gắn liền với
các cuộc cải cách chính trị, các cuộc cách
mạng đấu tranh giành độc lập dân tộc trong
nước và các phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới. Tư tưởng lập hiến của Việt


Nam vì thế đan xen hai trào lưu tư tưởng:
trào lưu thứ nhất: tư tưởng lập hiến yêu
nước - khuynh hướng kiên quyết chống
thực dân Pháp để giành độc lập cho đất
nước; trào lưu thứ hai: khuynh hướng thoả
hiệp: duy trì sự thống trị của thực dân Pháp
ở Việt Nam và nhờ Pháp ban hành hiến
pháp và pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam.
Bài viết tập trung phân tích hai trào lưu tư
tưởng lập hiến của Việt Nam nêu trên, từ đó
đặt vấn đề nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp
hiện hành.
1. Tư tưởng lập hiến Việt Nam đầu thế
kỉ XX
a. Tư tưởng lập hiến yêu nước
* Tư tưởng lập hiến của Phan Bội Châu
Điển hình cho tư tưởng lập hiến theo
khuynh hướng chống Pháp, giành độc lập dân
tộc là tư tưởng của Phan Bội Châu.
(2)

tưởng lập hiến của Phan Bội Châu được thể
hiện rõ ràng nhất ở thời điểm phong trào Cần
vương bị thất bại, Nhật Bản là đất nước châu
Á đầu tiên có Hiến pháp. Bản Hiến pháp Minh
Trị đã tạo ra cơ sở pháp lí vững chắc để Nhật
Bản phát triển dân trí, dân chủ và dân quyền.
Sự phát triển về chính trị - pháp lí của Nhật
Bản đã tác động vào tinh thần yêu nước tiến
bộ của Phan Bội Châu, ông khẳng định tư

tưởng học hỏi, cầu thị rất tiến bộ:
“Gương Nhật Bản, đất Á Đông
Gương ta ta phải soi chung khỏi lầm”

“Lập hiến pháp từ đầu Minh Trị
Bốn mươi năm dân trí mở mang”.
(3)

“Tôi thiết tưởng nước ta từ xưa vẫn chưa
có Hiến pháp, nay lập bản Hiến pháp không
những là một sự hay, lại còn là một điều
cần. Thế nào cũng phải có Hiến pháp, lẽ ấy
tất nhiên”.
(4)
Theo Phan Bội Châu thì mô
K
* Giảng viên
Học viện chính trị-hành chính quốc gia Hồ Chí Minh



nghiªn cøu - trao ®æi
10 T¹p chÝ luËt häc sè 2/2011
hình Hiến pháp Việt Nam sẽ “châm chước
theo hiến pháp của các nước quân chủ như
Anh, nước Nhật; theo hiến pháp của các
nước Mỹ, nước Đức, nước Nga lại phải tùy
theo trình độ dân ta mà lựa chọn lấy những
điều thích hợp thì mới có thể gọi là hoàn
thiện được”.

(5)

Quan niệm này cho thấy Phan Bội Châu
là người có tư tưởng lập hiến tiến bộ. Ông
muốn Việt Nam có bản Hiến pháp như các
nước phát triển song lại không muốn rập
khuôn, khiên cưỡng mà muốn bản hiến pháp
đó phải thể hiện sâu đậm bản chất của Việt
Nam trên nền chính thể quân chủ. Tuy nhiên,
sau này, trong cuộc họp thành lập Việt Nam
Quang phục hội, Phan Bội Châu khi chắp
bút viết tôn chỉ của hội đã khẳng định mô
hình chính thể của Việt Nam là: “Khu trục
Pháp tặc, khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt
Nam cộng hoà quốc”.
(6)
Tư tưởng lập hiến
hiện đại của Phan Bội Châu vừa thể hiện chủ
nghĩa yêu nước vừa thể hiện tinh thần tiến
bộ, cầu thị và học hỏi. Tư tưởng này đã được
các chí sĩ Việt Nam yêu nước kế thừa.
* Tư tưởng lập hiến của Phan Châu Trinh
Cùng thời với Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh là nhà tư tưởng lập hiến yêu
nước. Trong tư tưởng của mình, ông luôn đề
cao hiến pháp và coi hiến pháp là công cụ
pháp lí cơ bản để hạn chế quyền lực đang
được tập trung trong tay vua ở các nhà nước
phương Đông. Phan Châu Trinh khẳng định:
"Lấy theo ý riêng một người hay một triều

đình mà trị một nước, thì cái nước ấy không
khác gì một đoàn chiên, được ấm no vui vẻ
hay là phải đói lạnh khổ sở, là tuỳ theo lòng
rộng hay hẹp của người chăn chiên. Còn
như theo cái chủ nghĩa dân trị, thì tự quốc
dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ
quan để lo chung cho mọi người ".
(7)
Cùng
là xác định tầm quan trọng của hiến pháp
song tư tưởng lập hiến của Phan Châu Trinh
không giống với tư tưởng lập hiến của Phan
Bội Châu. Bởi lẽ, nếu như Phan Bội Châu
khẳng định đường lối đấu tranh giành độc
lập để ban hành bản hiến pháp thì Phan Châu
Trinh lại thể hiện tư tưởng dựa vào Pháp để
cầu tiến và tự trị. Do đó, trong tư tưởng của
mình, Phan Châu Trinh luôn khẳng định lấy
mẫu mực là nền dân chủ ở nước Pháp lúc
bấy giờ bởi ông cho rằng “nước pháp là một
nước đẻ ra dân quyền cho thế giới”, “nước
Pháp là một nước làm tiền đạo văn minh của
toàn cầu, nay hiện bảo hộ nước ta, mình
nhân đó mà học theo, chuyên tâm về mặt
khai trí trị sinh, các việc thực dụng, dân trí
đã mở rộng, trình độ ngày sẽ một cao, tức là
cái nền độc lập ngay sau ở đây”.
(8)
Theo
Phan Châu Trinh thì chế độ quân chủ lập

hiến “Quân dân cộng trị mà Tàu dịch là
quân chủ lập hiến tức như chính thể nước
Anh, nước Bỉ, nước Nhật đang theo hiện
nay” là hình thức được thực hiện ở châu Âu
từ rất lâu rồi. Theo đó, ông cho rằng: “cái
chủ nghĩa dân trị hơn cái chủ nghĩa quân trị
nhiều”
(9)
bởi lẽ “cái chủ nghĩa dân trị thì tự
quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra
các cơ quan để lo chung mọi người. Lòng
quốc dân muốn thế nào thì được thế ấy”.
(10)

Như vậy, có thể thấy rằng tư tưởng lập hiến
của Phan Châu Trinh là tư tưởng theo chủ
nghĩa lập hiến dân chủ tư sản. Tư tưởng đó


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2011 11
được xem là luồng ánh sáng chiếu rọi vào
thực tiễn đất nước ta giai đoạn đầu của thế
kỉ XX. Đó là sự cộng hưởng ánh sáng về
chủ nghĩa lập hiến hiện đại: khẳng định vai
trò của hiến pháp trong đời sống dân chủ
của nhà nước.
* Tư tưởng lập hiến của Huỳnh Thúc Kháng
Bên cạnh Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, tư tưởng lập hiến của Huỳnh Thúc

Kháng có sức sống mãnh liệt bởi nó được
khẳng định một cách rõ ràng nhất trong thực
tiễn nhu cầu về hiến pháp. Tuy nhiên, con
đường hình thành hiến pháp của Huỳnh
Thúc Kháng lại hết sức đặc biệt. Ông khẳng
định: “Chúng tôi sở dĩ nói đến vấn đề hiến
pháp là vì thấy rõ trong xứ Trung Kỳ này
phụ thuộc dưới quyền bảo hộ gần nửa thế kỉ
nay, mà chính thể trong xứ quyền hạn không
được rõ ràng, trách nhiệm không được đảm
thụ, trăm điều rắc rối bởi đó mà ra. Quốc thị
đã mơ màng thì nhân dân không biết đường
nào xu hướng, đó là cái lẽ tự nhiên. Bởi vậy,
để cho cuộc trị an trong xứ được lâu dài
cùng các dây liên lạc giữa người Pháp cùng
người Nam bền chặt thì cần thiết phải có
một cơ thể chính trị, chia bộ phận mà có
trách nhiệm, định quyền hạn mà có quy thức,
để chỉnh đốn việc lợi ích chung trong xứ. Đó
là một điều cốt yếu tức là Hiến pháp
vậy”.
(11)
Với tư tưởng đó, Huỳnh Thúc
Kháng đã khẳng định vai trò của hiến pháp
trong bài diễn văn đọc tại Viện dân biểu
Trung Kỳ: “Nhà nước mà cho hiến pháp là
một cái nền nếp chính trị bền vững lâu dài
trong xứ này, hợp với toàn thể ý nguyện
trong nhân dân”. Mặc dù Huỳnh Thúc
Kháng có nhiều quan điểm tiến bộ và có vị

trí quan trọng trong Viện dân biểu song thực
chất, các quan điểm, tư tưởng lập hiến của
ông lại gặp phải nhiều trở ngại, đặc biệt là
với đối tượng thực dân phong kiến bởi
những tuyên bố hùng hồn và sự hiểu biết cặn
kẽ về vai trò của hiến pháp và chủ nghĩa lập
hiến trên thế giới.
* Tư tưởng lập hiến của các sĩ phu yêu nước
thể hiện trong thơ văn Đông kinh nghĩa thục
Đông kinh nghĩa thục là phong trào của
những sĩ phu yêu nước, xuất phát từ tầng lớp
phong kiến song đã rời bỏ phong trào Cần
vương cứu nước để đi theo con đường cứu
nước mang tính dân chủ tư sản. Tư tưởng lập
hiến Đông kinh nghĩa thục được thể hiện qua
Văn minh tân học sách, Tân đính luân lí giáo
khoa, quốc dân độc bản… Đây là trào lưu tư
tưởng tiến bộ về hiến pháp được đánh giá
cao trong lịch sử. Bởi lẽ, trong các tác phẩm
của mình, các chí sĩ yêu nước đã khẳng định
vai trò của hiến pháp, bài xích chế độ quân
chủ chuyên chế, cổ vũ cho chủ nghĩa lập
hiến đang lan rộng sức sống ở Tây Âu, thể
hiện: “Người châu Âu họ tổ chức chính
quyền trong nước có chính thể lập hiến, có
chính thể quân dân cộng hoà. Cứ số bao
nhiêu người dân thì cử một người làm nghị
viên”
(12)
và “Ngày nay, sống trong thế giới

cạnh tranh kịch liệt, ta phải nghĩ đến liên
hiệp các đoàn thể, cùng nhau định ra hiến
pháp mà vui vẻ làm tròn nghĩa vụ của quốc
dân để bảo vệ non sông tổ quốc”
(13)

“Hiến pháp quy định chế độ chính quyền:
chính thể lập hiến và chính thể cộng hoà.
Vua tôi nắm chính quyền nhưng cũng ở


nghiªn cøu - trao ®æi
12 T¹p chÝ luËt häc sè 2/2011
trong phạm vi của hiến pháp. Nước ta thì
không có mục nào như thế”.
(14)

* Tư tưởng lập hiến của các tầng lớp trí
thức tân học
- Tư tưởng lập hiến của Nguyễn An Ninh
và Phan Văn Trường
Hai ông đều là trí thức từng học ở Pháp
và chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân quyền
của Pháp, Nguyễn An Ninh và Phan Văn
Trường được nhắc đến là hình ảnh của
những nhà dân chủ. Trong tư tưởng lập hiến
của mình, các ông luôn thể hiện vị trí, vai trò
của hiến pháp trong việc đảm bảo các quyền
cơ bản của con người. Cả hai ông đều muốn
tranh thủ quyền tự do ngôn luận và nghề

nghiệp nhà báo của mình để khẳng định về
tầm quan trọng của một hiến pháp dân chủ.
Theo Nguyễn An Ninh thì “có hiến pháp để
bảo đảm tự do và quyền lợi của các bạn”.
(15)

Còn Phan Xuân Trường thì khẳng định trong
chế độ thuộc địa thì không có hiến pháp, do
đó, lập hiến là yêu cầu tất yếu của mọi dân
tộc trong thời đại ấy. Ông xác định: “Hiến
pháp là luật làm căn bổn, làm cơ địa. Quốc
chánh cứ nương đó mà lập ra các luật
khác”.
(16)
Tư tưởng của Phan Văn Trường về
lập hiến còn thể hiện sự tiến bộ, gần gũi với
chủ nghĩa Mác. Bởi lẽ, theo Phan Văn
Trường thì: “Ở những nước có Hiến pháp,
cái chủ ngãi quan hệ nhất là cái chủ ngãi
phân quyền. Phân quyền nghĩa là lập nên
những quyền trong quốc gia đứng tự chủ,
không có quyền nọ phải quỵ lụy quyền kia,
như là quyền lập pháp là quyền làm ra pháp
luật, đứng tự chủ không tùy lụy về quyền
hành pháp là quyền thi hành những pháp
luật đã ra rồi ”.
(17)

* Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh
Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh

được hình thành và thể hiện một cách rõ nét
từ Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi
đến Hội nghị Véc-xây vào đầu năm 1919 sau
này được phổ thơ với tựa đề Việt Nam yêu
cầu ca (1922):
“Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp
quyền”.
(18)

Tiếp theo đó, trong Bản yêu sách gửi cho
Hội vạn quốc
(19)
vào ngày 30/8/1926 Người
đã khảng khái đề nghị: “Sắp xếp một nền
Hiến pháp về phương diện chính trị và xã
hội theo như những lí tưởng dân quyền; luật
kính trọng những cái thiểu số của chủng loại
(nghĩa là không xâm phạm đến những dân
tộc nhỏ như Lào, Cao Miên), biết tôn trọng
sự làm ăn, cốt để lập một nền Đông Dương
liên bang dân chủ”.
(20)

Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh rất
tiến bộ. Bởi lẽ, Người khẳng định mối tương
quan giữa hiến pháp và pháp quyền. Trong
đó hiến pháp bao giờ cũng là tiền đề cho sự
tồn tại của pháp quyền, còn pháp quyền là
nhu cầu để hiến pháp được tồn tại và có hiệu

lực. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, ý
nghĩa, vai trò của hiến pháp được khẳng định
bởi nó thể hiện tính chất “dân quyền” hay
nói cách khác, hiến pháp là văn bản pháp lí
thể hiện các quyền cơ bản của con người.
Thông qua hiến pháp, các quyền đó trở thành
quyền năng hiến định đòi hỏi Nhà nước và
các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo
đảm thực hiện. Đây thực sự là tư tưởng lập


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2011 13
hiến tiến bộ, văn minh và phù hợp với xu thế
dân chủ của nhân loại.
Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh
được thể hiện trong cả quá trình đấu tranh
tìm đường cứu nước song tập trung và rõ
ràng nhất trong bản Tuyên ngôn độc lập và
sau đó là các nhiệm vụ cấp bách của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh nhiệm vụ thứ ba: “Trước
chúng ta bị chế độ quân chủ chuyên chế cai
trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần
chuyên chế nên nước ta không có hiến
pháp. Nhân dân ta không được hưởng
quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có Hiến
pháp dân chủ”.
(21)


Điều quan trọng trong tư tưởng lập hiến
của Hồ Chí Minh đó là Người khẳng định
trong nhà nước thuộc chế độ quân chủ chuyên
chế hay chế độ thực dân phong kiến thì hiến
pháp không thể có điều kiện để tồn tại. Chỉ
trong nhà nước dân chủ, các quyền công dân
được đảm bảo thì mới nảy sinh nhu cầu cần
có hiến pháp để thể hiện tinh thần dân chủ
đó. Do vậy, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà - một chính quyền non trẻ thì cho dù có
nhiều việc cấp bách cần phải làm thì lập hiến
phải được xem là nhiệm vụ hàng đầu.
Trong thực tiễn soạn thảo bản hiến pháp
đầu tiên của nước ta, Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh vai trò của nhân dân trong việc ra đời
hiến pháp. Đó là việc thu thập ý kiến của
nhân dân về dự thảo Hiến pháp được Hội
đồng Chính phủ thảo luận. Ngày 10/11/1945,
báo Cứu quốc đã đăng tải toàn văn dự thảo
Hiến pháp kèm theo thông cáo: “Muốn cho
tất cả nhân dân Việt Nam dự vào việc lập
hiến của nước nhà nên Chính phủ công bố
Bản dự án Hiến pháp này để mọi người đọc
kĩ càng và được tự do bàn bạc, phê bình…
Ủy ban dự thảo Hiến pháp sẽ tập trung các
đề nghị sửa đổi và ý kiến của nhân dân rồi
trình toàn quốc dân đại hội thảo luận”.
(22)

Sau Tổng tuyển cử gần 2 tháng, Quốc hội đã

triệu tập khóa đầu tiên, bản dự thảo Hiến
pháp đã được Quốc hội bàn bạc, thảo luận.
Trong phiên bế mạc kì họp thứ hai, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã kết luận: “Sau khi nước nhà
mới được tự do được 14 tháng, đã làm thành
bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước
nhà. Bản hiến pháp đầu còn là một vết tích
lịch sử Hiến pháp đầu tiên trên cõi Á Đông
này nữa. Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn
nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh
thực tế. Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế
giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ quyền tự
do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ
nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với
đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự
do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu
lên một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các
dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết,
công bình của các giai cấp”.
(23)
Bản Hiến
pháp thứ nhất của Việt Nam đã thể hiện đậm
nét tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh. Đó
là tư tưởng lập hiến yêu nước, tiến bộ. Tư
tưởng lập hiến đó đã tạo ra các điều luật của
bản hiến pháp ngang tầm với nền chính trị
tiên tiến trên thế giới lúc bấy giờ. Cho đến
ngày nay, giá trị của tư tưởng lập hiến yêu
nước của các nhà tư tưởng lập hiến Việt Nam
thể hiện trong bản hiến pháp đầu tiên vẫn

đang có giá trị và ý nghĩa cho thời đại mới.


nghiên cứu - trao đổi
14 Tạp chí luật học số 2/2011
b. T tng lp hin ca nhng nh lp
hin theo khuynh hng tho hip vi thc
dõn Phỏp
* T tng lp hin ca Nguyn Vn
Vnh (1882 - 1936)
Theo Nguyn Vn Vnh thỡ thc dõn tuy
cú hi nhng khụng hi bng phong kin
Bo h dự cha lm cho ta n cc im,
song t vi thi xa cng cũn hn gp trm
phn m li thờm c chỳt t do, hi nm
mựi dõn ch. K bo ngc cú n hip thỡ n
hip c a di m thụi, ngi no khụn
ngoan, cú hc thỡ k cng c hng t do
chng kộm chi ngi Lang-sa l my.
(24)

ng thi, t ụng Dng tp chớ cng rao
ging: Ngh trong by nhiờu l thỡ dõn ta
thi nay ch nờn gi ly mt ch ngha Phỏp
- Vit. May m ta c thy i phỏp thỡ c
m gi rit ly thy i Phỏp. Chuyờn m
lm n, dc chớ hc hnh. My th bn
nhón, xu cn, bt c, ta nờn b r ln
sụng.
(25)

õy l t tng lp hin chu s
nh hng ca nn chớnh tr phỏp lớ Phỏp
di tờn gi bo h. Vi cỏc lp lun ca
mỡnh, t tng ca Nguyn Vn Vnh th
hin mong mun cú ch dõn ch thc s
song mun hng nn dõn ch thỡ ũi hi
ngi dõn phi cú trỡnh dõn trớ s
dng. Do ú, dõn trớ, dõn sinh, dõn quyn l
ba yờu cu m ngi dõn phi cú th
hng quyn dõn ch. Ba th quyn ú ch
cú c nu ch ngha Phỏp - Vit c
thc hin Vit Nam. T tng ny th hin
mc ớch hng n dõn ch song sai lm v
phng phỏp thc hin do ú ó vp phi
nhiu s phn bỏc.
* T tng lp hin ca Phm Qunh
(1892 - 1945)
T tng lp hin ca Phm Qunh th
hin theo ch thuyt quõn ch lp hin
mnh m. Theo ú, lp hin l quc vng
em mt phn chớnh quyn ca mỡnh m
nhng cho hi ngh thay mt dõn v
theo li quõn ch lp hin ngha l ban
hin phỏp cho dõn cựng c tham d mt
phn vo vic nc bng mt hi ngh bu
c, quyn hn rng hp th no s tựy theo
trỡnh dõn m nh.
(26)
Phm Qunh l
ngi cú t tng lp hin khỏ quyt lit.

ễng ó dựng nhiu li l phõn tớch, lun
gii v so sỏnh chớnh th cng ho vi hỡnh
thc quõn ch lp hin ang tn ti Anh
v Nht. Trong chớnh th quõn ch lp hin
m ụng bo v, ụng ó ch ra rng: Vua ch
l ngi ng lờn tha hnh bn hin phỏp
m chớnh nhõn dõn ton quc c triu
tp d tho v quyt nh. Nh th, chỳng
ta cú mt ch trng cu do ý dõn t to
cho mỡnh. Ch nh ch cng ho hay
dõn ch thỡ s mi ln sau bn nm cú thay
i tng thng thỡ phi thay i tt c lm
cho gung mỏy hnh chớnh trong nc phi
b xỏo trn trm trng.
(27)
Vi lp lun
nh vy, Phm Qunh cũn ch ra cỏch lp
hin cho nc Nam v nhu cu lp hin
ng trờn bỏo Nam Phong (6/1930) nh
sau: Cn phi lp ra cỏi hin phỏp khin
cho cú th t c mt Chớnh ph Vit
Nam chõn chớnh, hnh ng di quyn
kim soỏt ca bo h. Nh th thỡ quyn
quõn ch nc Nam sau ny khụng th l


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 2/2011 15
quõn ch chuyờn ch c na; phi l
quõn ch lp hin vy.

(28)
Tuy nhiờn,
Phm Qunh li mc sai lm khi t vn
Xin Chớnh ph bo h giỳp cho quc
vng An Nam ban cho dõn Hin phỏp ú
vi ni dung Vic ni tr ca nc An
Nam vn phi trong tay ngi An Nam, bo
h ch cú cỏi chc trỏch khuyờn bo, cỏi
chc trỏch kim soỏt m thụi, quc vng
An Nam vn gi quyn ni tr trong nc
nh xa. Ti phỏn hin phỏp c Phm
Qunh t vn l Khi Chớnh ph Vit
Nam vi Chớnh ph bo h cú iu xung
t, thi vic phõn tranh s em iu ỡnh
ti Paris bng phng phỏp ngoi giao v
Paris s t mt phỏi b An Nam thng
trc thay mt cho Chớnh ph Vit Nam
trc Chớnh ph Phỏp.
(29)
Cú th thy t
tng lp hin ca Phm Qunh hm cha
ni dung phong phỳ v hin phỏp song thc
cht, t tng lp hin ny khụng nht quỏn
v cú nhiu mõu thun gia dõn ch v hin
i, gia bo v dõn quyn v phỏp quyn.
Song iu ỏng bn ú l t tng lp hin
ca Phm Qunh ó xỏc nh tm quan
trng ca hin phỏp ngay c khi nh nc
ang trong ch thc dõn bo h.
* T tng lp hin ca Bựi Quang

Chiờu v ng lp hin
Bựi Quang Chiờu v ng lp hin xỏc
nh ch ngha ca ng lp hin l Phỏp
- Vit u hu.
(30)
Do ú, t tng lp hin
ca Bựi Quang Chiờu l mt ngy xa xụi
no ú, ụng Dng s c nc Phỏp
ban cho mt quy ch ta nh quy ch t tr
c, Canada i vi nc Anh.
(31)
Vi t
tng ú, theo trng phỏi ci lng, ụn
ho, Bựi Quang Chiờu xỏc nh tm quan
trng ca hin phỏp liờn quan n vn
dõn ch song t tng lp hin ca ụng li
khụng thoỏt khi s bo h ca thc dõn. Do
ú, cho dự cú t tng tin b khi tip cn
n vn lp hin song thc cht, lp
trng chớnh tr ca h l ch ngha ci
lng nờn t tng lp hin ca Bựi Quang
Chiờu khụng c nhỡn nhn khớa cnh
thc t t c phớa ngi An Nam v c phớa
Phỏp. ỏnh giỏ v t tng lp hin ca
Phm Qunh v Bựi Quang Chiờu ó cú
nhn xột sau: Thc cht t tng ca Phm
Qunh v Bựi Quang Chiờu dự trỡnh by
cỏch ny hay cỏch khỏc, ngi ch trng
xoỏ b ch vua quan, ngi ch trng
thay th ch quõn ch chuyờn ch bng

ch quõn ch lp hin, nhng tu trung
vn t t nc ta di s thng tr ca
thc dõn Phỏp.
2. Nhn xột v t tng lp hin Vit
Nam v nhng vn t ra khi sa i
Hin phỏp hin hnh
a. Nhn xột
Nghiờn cu cỏc t tng lp hin Vit
Nam nờu trờn cho thy dự cú xut phỏt
im khỏc nhau, cỏch tip cn v hin phỏp
di cỏc lng kớnh khỏc nhau thỡ cỏc t
tng lp hin Vit Nam u cú nhng
im chung nh sau:
Th nht, xỏc nh tm quan trng ca
hin phỏp i vi s phỏt trin ca t
nc trờn mi lnh vc m tiờu biu l cỏc


nghiªn cøu - trao ®æi
16 T¹p chÝ luËt häc sè 2/2011
vấn đề dân chủ, dân quyền, dân sinh và dân
trí. Các quyền này chỉ có thể được nhìn
nhận một cách hợp pháp khi xã hội có bản
hiến pháp chi phối.
Thứ hai, lập hiến là yêu cầu tất yếu của
dân tộc. Chủ nghĩa lập hiến vì thế không
phải ra đời và xuất phát vì ý chí chủ quan
của một vài cá nhân mà là nhu cầu mang tính
tự thân của nhà nước và xã hội đang vận
động và phát triển.

Thứ ba, hiến pháp là cơ sở, nền tảng
pháp lí cơ bản để các cơ quan nhà nước thực
thi các nhiệm vụ, quyền hạn và công dân thụ
hưởng các quyền năng. Hiến pháp là sự bảo
hộ cho chế độ.
Thứ tư, tư tưởng lập hiến Việt Nam đều
khẳng định tính hiện đại, văn minh và tiên
tiến của hiến pháp tư sản, cho rằng đó là hiến
pháp có nhiều ưu điểm song khi vận dụng
vào điều kiện Việt Nam thì phải thể hiện bằng
được các đặc điểm của dân tộc Việt Nam.
Thứ năm, tư tưởng lập hiến Việt Nam
mặc dù có nhiều khuynh hướng khác nhau
song đều khẳng định một chân lí: Quyền con
người sẽ được đảm bảo nếu trong xã hội có
sự hiện diện của một bản hiến pháp dân chủ.
Thứ sáu, tư tưởng lập hiến Việt Nam thể
hiện sinh động, cụ thể và trực tiếp nhất
nguyên tắc hiến pháp trong Tuyên ngôn độc
lập “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Thứ bảy, tư tưởng lập hiến Việt Nam
không tập trung theo một khuynh hướng
mà chia làm hai khuynh hướng chính song
đều tập trung và thống nhất trong nhận
thức là cần thiết phải có bản hiến pháp
mang tính dân chủ và để thể hiện là nhà
nước dân chủ.
b. Vấn đề sửa đổi Hiến pháp hiện hành

- Cần phải xác định vai trò của hiến pháp
trong Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân và mối
tương quan giữa nhân dân với hiến pháp. Ở
thời đại ngày nay, cách nhìn nhận về vai trò
của hiến pháp với đời sống xã hội cần phải
tiếp cận theo các luồng tư tưởng chính thống
đồng thời cũng vẫn phải tiếp cận nghiên cứu
các tư tưởng và khuynh hướng lập hiến khác.
- Đặt vấn đề nghiên cứu tư tưởng lập
hiến để trả lời câu hỏi: Sáng kiến lập hiến và
sáng kiến sửa đổi hiến pháp như thế nào mới
phù hợp với tinh thần của chủ nghĩa lập hiến
hiện đại?
- Lấy ý kiến của nhân dân vào bản dự
thảo hiến pháp sửa đổi, bổ sung và trưng cầu
ý dân về hiến pháp có điểm gì khác nhau,
cách nào sẽ là ưu việt với Việt Nam?
Theo chúng tôi, khi nghiên cứu tư tưởng
lập hiến Việt Nam cần đặt trong bối cảnh
mới, đó là khi chúng ta đã phát hiện ra Hiến
pháp hiện hành có nhiều điểm chưa thể hiện
được tính ưu việt của chế độ đồng thời Hiến
pháp chưa thực sự phát huy vai trò của mình
đối với xã hội, Nhà nước và nhân dân. Để
đạt được mục đích trên thiết nghĩ rằng việc
sửa đổi hiến pháp là nhu cầu tự thân của xã
hội và công dân. Do đó, nhiệm vụ của cơ
quan nhà nước là lắng nghe và đáp ứng yêu
cầu dân chủ của nhân dân. Sáng kiến lập



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 2/2011 17
hin v sa i hin phỏp nht thit phi i
t phớa nhõn dõn mt cỏch trc tip. c
bit, khi chỳng ta ó cú cỏc cụng c h tr
(ch kớ in t) thỡ vic cỏc nhúm cụng dõn
kin ngh sa i hin phỏp l kh thi. Hn
th na, cn phi u t cho hot ng dõn
ch trc tip thụng qua hỡnh thc trng cu ý
dõn v sa i hin phỏp. Bờn cnh ú, cn
huy ng s tham gia nghiờn cu, so sỏnh v
rỳt ra bi hc kinh nghim ca cỏc nc
trong vic sa i hin phỏp song trỏnh
khuynh hng l thuc quỏ hoc ỏp dng rp
khuụn, c hc. Bi l, hin phỏp khụng n
thun l vn phỏp lớ m nú th hin kh
c xó hi ca cụng dõn, ũi hi Nh nc
phi ht sc chỳ ý khi t chc thc hin hin
phỏp vo i sng./.

(1).Xem: GS.TSKH. o Trớ c, Hin phỏp trong
i sng xó hi v quc gia, Tp chớ nghiờn cu lp
phỏp, s 8/2010.
(2). Nu xột v lch s, Phan Bi Chõu l ngi u
tiờn nờu vn lp hin thnh yờu cu bc xỳc
nc ta vo nm 1907 (theo Phan ng Thanh, T
tng lp hin Vit Nam u th k XX, Nxb. T
phỏp, H Ni, 2006, tr. 110).

(3).Xem: Phan Bi Chõu, tnh quc dõn ca
nm 1907.
(4).Xem: Phan Bi Chõu, Ton tp, Tp 4, Nxb.
Thun Hoỏ, Hu, 1990, tr. 244 (Bỏo ụng Tõy s
138, ngy 09/11/1932).
(5).Xem: Phan Bi Chõu, Ton tp, tp 4, Nxb.
Thun Hoỏ, Hu, 1990, tr. 244.
(6).Xem: Phan Bi Chõu, Sd, tr. 212.
(7).Xem: Nguyn Vn Dng, Phan Chõu Trinh
Tuyn tp, Nxb. Nng, 1995, tr. 817.
(8).Xem: Trn Vn Giu, H ý thc t sn v s tht
bi ca nú trc nhim v lch s, Nxb. Khoa hc xó
hi, H Ni, 1975, tr. 437.
(9).Xem: Nguyn Vn Dng, Sd, tr. 783.

(10).Xem: Nguyn Vn Dng, Sd, tr. 817.
(11).Xem: Chng Thõu, Th vn Hunh Thỳc Khỏng,
Nxb. Nng, 1989, tr. 355 - 356.
(12).Xem: Ban Tuyờn hun trung ng, Lch s ng
Cng sn Vit Nam, Sỏch giỏo khoa Mỏc-Lờ, H Ni,
1978, tr. 119.
(13).Xem: Vn H v V Vn Sch (dch), Vn th
ụng Kinh ngha thc, Nxb. Vn hoỏ, H Ni, 1997, tr. 18.
(14).Xem: Vn H v V Vn Sch (dch), Sd, tr. 78.
(15).Xem: Nguyn An Tnh, Nguyn An Ninh, Nxb
Tr, TP H Chớ Minh, 1996, tr. 170.
(16).Xem: Phan Vn Trng, Phỏp lut lc lun,
Nh in Xa - Nay, Si Gũn, 1926, tr. 18.
(17).Xem: Phan Vn Trng, Sd, tr. 18 - 20.
(18).Xem: H Chớ Minh, Ton tp, Tp 1, Nxb.

Chớnh tr quc gia, H Ni, 2000, tr. 438.
(19). Cú kớ tờn ca Phan Bi Chõu, Phan Chõu Trinh
v Nguyn i Quc.
(20).Xem: Hi lut gia, Phỏp lớ phc v cỏch mng,
H Ni, 1975, tr. 278.
(21).Xem: H Chớ Minh, Ton tp, tp 4, Nxb. Chớnh
tr quc gia, H Ni, 2000, tr. 8.
(22). Vn phũng Quc hi, Lch s Quc hi Vit
Nam 1946 - 1960, Bỏo Cu quc, s ngy 10/11/1945.
(23).Xem: H Chớ Minh, Ton tp, tp 4, Nxb. Chớnh
tr quc gia, H Ni, 2000.
(24).Xem: Phm Th Ng, Vit Nam vn hc s gin
c tõn biờn, Tp 3, Quc hc tựng th xut bn, Si
Gũn, 1965, tr. 112.
(25).Xem: Phm Th Ng, Sd, tr. 499.
(26).Xem: Phm Qunh, c Bo i v nc,
Bỏo Nam Phong, 2 - 8, 1932, tr. 5.
(27).Xem: Lờ Thanh Cnh, Hi ký (bn ỏnh mỏy), trớch
theo Phan ng Thanh, T tng lp hin Vit Nam
u th k XX, Nxb. T phỏp, H Ni, 2006, tr. 183.
(28).Xem: Phm Qunh, Vn lp hin cho nc
An Nam, Bỏo Nam Phong, 151, 1930, tr. 532.
(29).Xem: Phm Qunh, Cõu chuyn lp hin, Bỏo
Nam Phong, 173, 559 - 569, 1932, tr. 567.
(30).Xem: Trn Vn Giu, Lc s thnh ph H
Chớ Minh, a chớ vn hoỏ thnh ph H Chớ Minh,
tp 1, Nxb. TP H Chớ Minh, 1987, tr. 288.
(31).Xem: Trn Vn Giu, Tld, tr. 288.

×